Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bài tập học kỳ đánh giá qui định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.69 KB, 18 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, sự phát triển không ngừng của khoa học – kỹ thuật đã làm
cho cuộc sống của con người tiện nghi và thoải mái hơn; thế giới ngày
càng văn minh, hiện đại. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy điều này đã kéo
theo những vụ tai nạn ngày càng nguy hiểm và khó kiểm soát hơn. Những
sự vật như máy móc, phương tiện giao thông, hệ thống điện, dây chuyền
sản xuất,….bản thân nó là một nguồn nguy hiểm cho môi trường xung
quanh. Bên cạnh đó, thế giới tự nhiên, bí ẩn xung quanh ta cũng có những
sự vật luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây thiệt hại cho thế giới vật chất
xung quanh. Đó chính là những nguồn nguy hiểm cao độ. Tự bản thân
nguồn nguy hiểm cao độ đã vô cùng nguy hiểm, mặc dù chủ sở hữu, người
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã áp dụng các biện pháp
phòng ngừa nhưng không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối khả năng
gây thiệt hại của chúng. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về nguồn nguy hiểm cao độ
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, em
xin chọn đề tài “Đánh giá qui định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” làm bài tập học kỳ của
mình.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. Cơ sở lý luận:
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (NNHCĐ) gây ra là
loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không do hành vi và do lỗi
của con người mà do tự bản thân sự vật mang trong mình NNHCĐ gây ra.
Đây chính là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vì lẽ

1


đó, em xin đưa ra một số khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng để làm rõ hơn vấn đề cần giải quyết.


I. Khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”:
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là một loại trách
nhiệm dân sự trong đó người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường (Điều 604 BLDS).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường,
đây là quan hệ nghĩa vụ giữa người bị thiệt hại (người có quyền) và người
gây ra thiệt hại (người có nghĩa vụ).
II. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng:
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là những yếu tố, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi
thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. Các điều kiện phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải được xem xét trong mối quan hệ
biện chứng, thống nhất và đầy đủ. BLDS không quy định cụ thể các điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm. Xuất phát từ những quy định, những
nguyên tắc của pháp luật nói chung và của luật Dân sự nói riêng về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có bốn điều kiện được quy định tại
Nghị quyết số 03/2006/HĐTP – TANDTC ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại.
1. Có thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi
mục đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho
2


người bị thiệt hại. Do đó, nếu không có thiệt hại thì vấn đề bồi thường sẽ
không được đặt ra. Vì thiệt hại là điều kiện tiên quyết, bắt buộc của trách

nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên trước tiên cần xác định thế
nào là thiệt hại:
-

Thiệt hại về tài sản, biểu hiện là mất tài sản, giảm

sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, tháy thế, những
lợi ích gẵn liền với sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những
thiệt hại về vật chất của người bị hại.
-

Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh

thiệt hại về vật chất bao gồm: phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi
chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe.
-

Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại

gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
-

Tổn thất về tinh thần: về nguyên tắc, tổn thất về

tinh thần không thể định giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị
như trong trao đổi để phục hồi được. Nhưng với mục đích an ủi, động viên
đối với người bị thiệt hại về tinh thần, cũng như một biện pháp giáo dục
nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp luật, BLDS quy định người

xâm hại phải “bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh
thần cho người bị hại, người thân thích gần gũi với người đó phải gánh
chịu”.
2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật:
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là
một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn
trọng quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào
“xâm hại đến các quyền tuyệt đối đó”. Việc xâm phạm mà gây thiệt hại có

3


thể là hành vi vi phạm háp luật, vi phạm đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư…
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động.
Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện hành vi đó
hoặc thực hiện hành vi đi quá giứoi hạn phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu
cầu của tình thế cấp thiết.
3. Có lỗi của người gây ra thiệt hại:
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi. Xét về hình
thức, lỗi là trạng thái tâm lý của người gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện
dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Ngoài ra, lỗi trong trách nhiệm dân sự cũng có
trường hợp là lỗi suy đoán bới hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp
luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán là có lỗi.
Những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình được coi là không có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Lỗi của
pháp nhân, cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng… trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại là lỗi của nhân viên cơ quan này trong khi thực
hiện nhiệm vụ được giao.
Trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại về vấn đề hình thức lỗi,

mức độ ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí, người
gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi (khoản 3
Điều 623 BLDS).
4. Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái
pháp luật:
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại là
hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, để
xác định mối thương quan nhân quả là một vấn đề vô cùng phức tạp.
Nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả và ngược lại. Do đó, cần xem
xét phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng,

4


khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể kết luận chính xác về nguyên
nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại.

B. Bồi thường thiệt hại do NNHCĐ:
Bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra là loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đặc biệt, bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và
do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của
chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu NNHCĐ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách
nhiệm bồi thường.
I. Một số vấn đề lý luận:
1. Khái niệm “NNHCĐ”:
Theo quy định tại Điều 623 BLDS thì: “Nguồn nguy hiểm cao độ
bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy
công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất

phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy
định”. Đồng thời, dựa theo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tóa án
nhân dân tối cao số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng thì có thể thấy, pháp luật không đưa ra khái niệm tổng quát về
NNHCĐ mà chỉ định nghĩa dưới dạng liệt kê. Trên cơ sở xem xét đánh giá
về các loai tài sản được coi là NNHCĐ trong các văn bản hướng dẫn, có
thể hiểu: “NNHCĐ là những vất chất nhất định do pháp luật quy định luôn
tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm
soát một cách tuyệt đối”.
Xuất phát từ những đặc điểm của NNHCĐ là luôn tiềm ẩn trong nó
khả năng gây thiệt hại nên BLDS quy định chủ sở hữu NNHCĐ phải tuân
5


thu các quy định bảo quản, trông giữ, vẫn chuyển, sử dụng NNHCĐ theo
đúng các quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 623 BLDS). Vì vậy khi để
xảy ra thiệt hại sẽ phát dinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra.
2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra:
a.

Khái niệm:

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập rất sớm trong hệ thống
pháp luật của nhà nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi BLDS 1995 ra đời thì
các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một
cách chi tiết. Tiếp đó, BLDS 2005 hoàn thiện hơn nữa các quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Điều 604 BLDS. Bồi

thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra chính là một trong các trường hợp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà pháp luật quy định. Bồi thường thiệt
hại do NNHCĐ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác,
phải bồi thường thiệt hại cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm
hữu hợp pháp NNHCĐ không có lỗi.
b.

Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do

NNHCĐ gây ra:
-

Thứ nhất: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ

gây ra là một dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra phát sinh giữa
các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ
hợp đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ
thi hành hợp đồng đã ký kết. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ
gây ra phát sinh trên cơ sở những điều kiện do pháp luật quy định, đó là: có
thiệt hại xảy ra, có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, có mối quan hệ nhân
quả giữa NNHCĐ và thiệt hại của chúng gây ra.
6


-

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra


phát sinh không cần điều kiện lỗi:
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra,
thiệt hại xảy ra không phải do hành vi trái pháp luật mà do chính sự hoạt
động của NNHCĐ gây ra. Khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra không đòi hỏi phải xem xét đến yếu tố lỗi.
-

Thiệt hại do NNHCĐ gây ra không bao gồm thiệt hại

về danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư của cá nhân:
Thiệt hại do NNHCĐ gây ra là những thiệt hại do “phương
tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp
đang hoạt động, vũ khí chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ,
…” gây ra. Vì vậy, những thiệt hại này chỉ có thể là thiệt hại về tài sản, tính
mạng hoặc sức khỏe mà không thể là những thiệt hại về danh dự, nhân
phẩm, uy tín, bí mật đời tư của cá nhân như các thiệt hại do hành vi trái
pháp luật khác gây ra.
3. Các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm dân sự do
NNHCĐ gây ra:
a. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của NNHCĐ:
Khoản 1 Điều 623 BLDS không đưa ra một định nghĩa khái quát về
NNHCĐ mà chỉ có quy định mang tính liệt kê. NNHCĐ theo Điều 623
được hiểu là những vật đang tồn tại, hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản
xuất, vận chuyển, bảo quản,…chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại
cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó còn
thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối
nguy cơ gây thiệt hại.
Thiệt hại liên quan đến các loại NNHCĐ rất đa dạng và do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do NNHCĐ gây ra khi thỏa mãn hai đấu hiệu sau:


7


Thứ nhất, những vật được coi là NNHCĐ phải đang trong tình trạng
vận hành, hoạt động. Trường hợp thiệt hại xảy ra khi NNHCĐ đang ở trạng
thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do NNHCĐ gây
ra.
Thứ hai, thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân NNHCĐ
hoặc do hoạt động nội tại của NNHCĐ gây ra.
Trên thực tế, cần phải xác định rõ thiệt hại là do “tác động của con
người” hay do “nội tại NNHCĐ” gây ra. Những trường hợp thiệt hại có
liên quan đến NNHCĐ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi
của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại. Trường hợp thiệt hại xảy ra do nội tại NNHCĐ, hoàn
toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra.
Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ phải có
tính trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của NNHCĐ mà việc
gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví
dụ để đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại do tàu hỏa
gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái phá luật và ngành đường
sát không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra
cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt
hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết.
b. Có thiệt hại xảy ra:
NNHCĐ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất
kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, người vận hành, những người
không có liên quan đến NNHCĐ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở

hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với NNHCĐ. Đối với chủ sỡ hữu,
họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối
với người bị thiệt hại trong khi sử dụng NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động,
8


họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ chỉ được đặt ra khi NNHCĐ gây
thiệt hại cho những người xung quanh – là những người khi xảy ra thiệt hại
không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến NNHCĐ nhằm để
bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của NNHCĐ là những loại tài sản có khả năng gây ra
thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng. Thiệt hại do NNHCĐ
gây ra chỉ có thể là thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về
danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ phát sinh do hành vi
của con người nên không thuộc phạm vi tác động của NNHCĐ.
c. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp
luật của NNHCĐ và thiệt hại xảy ra:
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của NNHCĐ là nguyên nhân tất
yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫ đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra
là kết quả của hoạt động của NNHCĐ đó. Khi xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do
nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây
ra chỉ được áp dụng khi tự thân NNHCĐ đó gây thiệt hại.
d. Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra:
Thông thường trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ
đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây
thiệt hại, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì mới

phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phai
chúng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện này trong nhiều trường
hợp thực tế là không thể thực hiện được do thiệt hại xảy ra không vì lỗi của
ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi
nhiều khi không đảm bảo được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân
9


trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hai là một đòi hỏi cấp
thiết và chính đáng. Do đó, điều kiện về lỗi không được đặt ra đối với trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho NNHCĐ gây ra bởi đây là loại “trách
nhiệm pháp lý nâng cao”. Thậm chí kể cả khi chủ sở hữu NNHCĐ không
có lỗi vẫn phải bồi thường trừ trường hợp do pháp luật quy định (khoản 3
Điều 623).
4. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ
gây ra:
Trước hết phải khẳng định chỉ xá địcnh được ai đó là chủ thể và đảm
bảo điều kiện trong trường hợp đó họ được xác lập tư cách đương sự trong
tố tụng dân sự thì mới bàn đến việc người đó có lỗi hay không có lỗi. Do
vậy, cần xác định năng lực hành vi dân sự của các chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra.
Căn cứ vào khoản 2, 3, 4 Điều 623 BLDS và Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra có thể áp dụng với các chủ thể sau:
-

Chủ sở hữu;

-


Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ;

-

Người chiếm hữu, sử dụng trái phép NNHCĐ.

Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ
thể. Điều 165 BLDS quy định nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu theo đó
“Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài
sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi
có thiệt hại do NNHCĐ gây ra, trước tiên ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở
hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường trước hết được đặt ra cho
10


chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc
về người khác. Chúng ta có thể xem xét các trường hợp sau:
-

Trường hợp 1: Chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng

NNHCĐ. Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu là người có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Việc thực hiện
quyền sở hữu của chủ sở hữu không được gây thiệt hại tới lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, nếu NNHCĐ gây
thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm

hữu, sử dụng NNHCĐ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở
hữu NNHCĐ.
-

Trường hợp 2: Chủ sở hữu NNHCĐ chuyển giao NNHCĐ cho

người khác chiếm hữu, sử dụng theo ý chí của chủ sở hữu. Về lý luận,
quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của người không phải là chủ sở hữu tài
sản được quy định tại Điều 182, 185, 186 BLDS; còn quyền sử dụng tài
sản của người không phải chủ sở hữu được quy định tại Điều 192, 194
BLDS. Khi cho thuê, cho mượn hay chuyển giao NNHCĐ theo nghĩa vụ
lao động, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp khai thác công dụng của tài
sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng
tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. Khoản 2 Điều 623
BLDS quy định: “nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác”.
Pháp luật quy định cho dù chủ sở hữu hoặc người đang chiếm
hữu, sử dụng NNHCĐ hợp pháp vẫn phải bồi thường thiệt hại khi NNHCĐ
gây ra cho người khác kể cả khi họ không có lỗi; trừ các trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 623 BLDS.
-

Trường hợp 3: NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.

Về vấn đề này, BLDS chia thành 2 trường hợp quy định tại khoản 4 Điều
623:
11



+ Thứ nhất: Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu
NNHCĐ hoàn toàn không có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ trái pháp luật
phải bồi thường hoàn toàn thiệt hại do NNHCĐ gây ra. Chủ sở hữu, người
chiếm hữu NNHCĐ sẽ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường nếu họ
chứng minh được mình đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trọng việc bảo
quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng NNHCĐ theo quy định của pháp
luật.
+ Thứ hai: Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử
dụng hợp pháp NNHCĐ cũng có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại cùng người
chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ trái pháp luật.
-

Ngoài ra còn có trường hợp NNHCĐ trong tự nhiên gây thiệt

hại. Tuy nhiên hiện nay chưa có văn bản nào quy định chủ thể nào sẽ phải
bồi thường thiệt hại trong trường hợp này vì vậy, đến nay không có ai
phải chịu trách nhiệm nếu việc này xảy ra.
II. Thực tiễn trong việc bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra:
Để tìm hiểu rõ hơn về việc bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra
trong thực tiễn, em xin được nêu ra một số tình huống như sau:
1. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là chủ sở
hữu của NNHCĐ.
 Tóm tắt tình huống: Ông Trịnh Ngọc Quý (45 tuổi) là chủ
hộ kinh doanh xăng dầu (có giấy phép ĐKKD) tại xã Nậm Mạ, Sìn Hồ, Lai
Châu. Vào khoảng 16 giờ ngày 04/05/2011 ông Quý hàn khung giá để
hàng cho gia đình đã sơ suất để lửa hàn rơi vào can xăng làm cháy toàn bộ
10 phi xăng (tương đương với 2200 lít) của gia đình, và cháy lan sang 7 hộ

12


gia đình liền kề, gây thiệt hại gần 11 tỉ đồng. Mặc dù nhận thức được sự
nguy hiểm là đang thi công trong môi trường dễ cháy nhưng do chủ quan,
ông Quý chỉ dùng miếng bìa các tông thường đựng thuốc lá để chắn chỗ
hàn với bình xăng và tiến hành công việc.
 Giải quyết tình huống: Trước tiên, trong tình huống này ta
phải xác định rõ ông Quý là người trực tiếp có trách nhiệm phải bồi thường
thiệt hại trong vụ việc. Theo quy định tại Điều 623 BLDS, Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì xăng dầu được
coi là NNHCĐ. Bên cạnh đó, ông Quý kinh doanh xăng dầu có giấy phép
ĐKKD vì vậy ông Quý là chủ sở hữu hợp pháp của toàn bộ chỗ xăng dầu.
Như vậy, ông Quý là chủ sở hữu hợp pháp của NNHCĐ. Tại khoản 3 Điều
623 BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có
lỗi”. Mà ở đây lỗi của ông Quý là lỗi vô ý (nhận thức được sự nguy hiểm là
đang thi công trong môi trường dễ cháy nhưng chủ quan, ông Quý chỉ
dùng miếng bìa các tông thường đựng thuốc lá để chắn chỗ hàn với bình
xăng và tiến hành công việc), vì vậy đương nhiên ông Quý là người phải
bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra trong trường hợp này.
2. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người
được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ.
 Tóm tắt tình huống: Nguyễn Văn Thuận là xã viên của
HTX kinh doanh kinh tế dịch vụ ôtô vận tải. Theo bản cam kết, HTX giao
một chiếc xe ô tô thuộc quyền sở hữu của HTX cho Thuận bảo quản sử
dụng vào việc kinh doanh. Vừa qua, Thuận lái chiêc xe này gây tai nạn làm
chết người. Ai là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại?
 Giải quyết tình huống: Ở trong tình huống này, Thuận là

người trực tiếp gây ra thiệt hại làm chết người. Theo quy định tại Điều 623
BLDS, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp
13


dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thì xe ô tô là phương tiện vận tải cơ giới - được coi là NNHCĐ. Do
vậy, chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra. Tuy nhiên
nếu chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ theo
đúng quy định của pháp luật và không có thỏa thuận nào khác thì người
được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải bồi thường thiệt hại (Khoản 2
Điều 623 BLDS).
Căn cứ vào quy định nêu trên, nếu HTX giao xe cho Thuận chiếm
hữu, sử dụng theo đúng quy định thì Thuận với tư cách là người được chủ
sở hữu NNHCĐ giao NNHCĐ để chiếm hữu, sử dụng nhằm khai thác,
hưởng lợi từ chiếc xe phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
3. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người
đang chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ một cách trái phép.
 Tóm tắt tình huống: Ngày 20/02/2012 anh Nguyễn Văn
Phượng ngủ trong nhà, đã khóa cửa. Lợi dụng lúc đó, Lý Tiến Đạt (là
người cùng xóm với anh Phượng) đã cậy khóa lẻn vào nhà anh Phượng lấy
trộm chiếc xe máy của anh Phượng đang dựng ở trong nhà. Trên đường đi
tẩu tán chiếc xe mô tô đó, do đang đi trên đường chiếc xe máy bị nổ lốp
khiến Đạt bị mất tay lái, ngã ra đường còn chiếc xe văng vào xe của chị Lê
Thu Hồng làm chị Hồng bị ngã gãy tay. Trong tình huống này ai là người
phải bồi thường cho chị Hồng?
 Giải quyết tình huống: Ở trong tình huống này, Đạt là
người trực tiếp gây ra thiệt hại làm chị Hồng bị gãy tay. Theo quy định tại
Điều 623 BLDS, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng thì xe mô tô là phương tiện vận tải cơ giới - được coi là NNHCĐ.
Đạt đã ăn trộm chiếc xe mô tô của anh Phượng tức là Đạt đã chiếm hữu, sử
dụng trái phép chiếc xe đó rồi gây tai nạn cho chị Hồng cho nên ở đây Đạt
sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra. Bên cạnh
14


đó anh Phượng là chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe mô tô đó đã thực hiện việc
bảo quản đúng với quy định, vì vậy anh Phượng không có lỗi, không phải
liên đới bồi thường cùng Đạt.
III.

Đánh giá quy định hiện hành về bồi thường

thiệt hại do NNHCĐ gây ra:
Thực tế cho thấy, mục đích của nhà làm luật tách riêng các quy định
về bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra thành một điều luật tại BLDS và
các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật này (như Nghị quyết 03/2006/NĐHĐTP), nhằm khẳng định và ràng buộc nghĩa vụ, cũng như bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan đến NNHCĐ trong quan
hệ xã hội thường ngày. Tuy nhiên vẫn còn nhiều quy định bất cập, gây ra
những tranh cãi, quan điểm khác nhau trên thực tế áp dụng khiến cho khi
tiến hành tố tụng đã có những vướng mắc nảy sinh.
1. Về vấn đề “Khái niệm thế nào là NNHCĐ”:
Khái niệm NNHCĐ trong BLDS và các văn bản quy phạm pháp luật
khác chưa đưa ra mà trong khoản 1 Điều 623 BLDS chỉ mang tính liệt kê.
Vì vậy đã dẫn đến những thiếu sót có thể kể đến như sau:
- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: hiện nay
chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào đưa ra khái niệm “phương
tiện giao thông vận tải cơ giới”. Khoản 18 Điều 3 Luật Giao thông đường
bộ 2008 chỉ có quy định về phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Tuy

nhiên, phương tiện giao thông vận tải cơ giới không chỉ giới hạn ở đường
bộ mà còn có thể có phương tiện giao thông vận tải đường sắt, đường thủy
và hàng không.
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy
công nghiệp chỉ được coi là NNHCĐ khi “đang hoạt động”. Tất cả các loại
trên nếu đang ở trạng thái “tĩnh” thì không được coi là NNHCĐ. Đây là
một bất cập, bởi: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt
15


xuống chân dốc gây thiệt hại, cột điện không còn sử dụng nữa bị đổ vì bão,
thú dữ thối rữa gây bệnh dịch….
- Thú dữ là động vật bậc cao có lông mao, có tuyến
vú, nuôi con bằng sữa, to lớn, rất dữ và có thể làm hại con người. Quy định
này vẫn còn thiếu xót rất nhiều. Bởi trong thực tế có rất nhiều loại động vật
có thể gây hại cho con người mà không thuộc định nghĩa thú dữ nêu trên,
như: ong bò vẽ, rắn độc, nhện độc, cá sấu,…..
Vì những lẽ trên, không nên định nghĩa NNHCĐ theo hướng liệt kê
mà cần xác định tiêu chí chung để coi là NNHCĐ. Việc xác định một vật
có phải là NNHCĐ hay không phải căn cứ vào các quy định của pháp luật
và tính chất của vật đó.
2. Về vấn đề “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra khi chủ sở hữu đã chuyển giao NNHCĐ cho người
khác chiếm hữu, sử dụng”:
Ta sẽ xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra
khi chủ sở hữu đã chuyển giao NNHCĐ cho người khác chiếm hữu, sử
dụng trong trường hợp chuyển giao theo quan hệ lao động và quan hệ giao
dịch dân sự.
-


Trường hợp NNHCĐ được chuyển giao cho người khác theo

nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do NNHCĐ gây ra trong quá trình người
lao động quản lý, sử dụng NNHCĐ theo hiệm vụ được giao thì trách nhiệm
bồi thường thuộc về chủ sở hữu NNHCĐ. Nếu người được giao quản lý, sử
dụng NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động những lại sử dụng NNHCĐ vào mục
đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt hại thì họ phải tự chịu trách
nhiệm.
-

Trường hợp NNHCĐ được giao cho người khác chiếm hữu,

sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao
kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm
16


bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật: bên mượn, bên
thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những
người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật vì vậy họ có nghĩa
vụ trông coi, quản lý NNHCĐ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại
cho người khác. Trường hợp NNHCĐ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền
chiếm hữu, quản lý của họ thì họ phải bồi thường.
3. Về vấn đề “Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối
với những thiệt hại do NNHCĐ thuộc sự quản lý của Nhà nước gây
ra”:
Pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước đối với những thiệt hại do NNHCĐ trong tự nhiên gây ra cho các chủ
thể khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong trường hợp

cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ thuộc sở hữu của cá nhân,
tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra là một chế định
phức tạp của pháp luật dân sự Việt Nam. Tính phức tạp không chỉ nằm
trong nhưng quy định của pháp luật hiện hành mà còn ở sự nhận thức, quan
niệm của mỗi người về bản chất, điều kiện làm phát sinh trách nhiệm này.
Vì vậy pháp luật cần hoàn thiện hơn để có thể giải quyết thỏa đáng vấn đề
này.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình “Luật Dân sự Việt Nam” – Tập 2 – Trường Đại học
Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân – Hà Nội – Năm 2009.
- Bộ Luật Dân Sự năm 2005.
- />sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=2&ved=0CDYQFjAB
&url=http%3A%2F%2Fwww.boluatdansu.com%2Fbo-luat-dansu-phan-3-nghia-vu-dan-su-va-hop-dong-dan-su%2Fchuong-xxitrach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong.nd5dt.17.002003.html&ei=9n2IUc2M5DZigKgnYDQCg&usg=AFQjCNEHvMM5tKhbFBaJN7A1
aqUVF1iOeA&sig2=tWLpm4edRCDCDRJr2O02Q&bvm=bv.46226182,d.cGE&cad=rja

18



×