Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thông qua những nội dung cơ bản của các văn bản pháp lí sau, chứng minh rằng tiến trình hợp tác chính trị – an ninh của ASEAN luôn phù hợp với yêu cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.1 KB, 15 trang )

Đề bài: 3
Thông qua những nội dung cơ bản của các văn bản pháp lí sau, chứng minh rằng
tiến trình hợp tác chính trị – an ninh của ASEAN luôn phù hợp với yêu cầu hợp tác
trong từng thời kì và ngày càng được hoàn thiện.
-

tuyên bố Băng cốc 1967.

-

Tuyên bố ZOPFAN 1971;

-

Tuyên bố Bali và Hiệp ước Bali 1976;

-

Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân SEANWFS;

-

Tuyên bố Bali II 2003;

-

Hiến chương ASEAN 2007;

-

Kế hoạch tổng thể xây dựng APSC 2009.




BÀI LÀM:
MỞ BÀI
Theo tiến trình xây dựng cồng đồng ASEAN thì cộng đồng chính trị an ninh
ASEAN giữ vai trò là một trong ba trụ cột hợp tác của cộng đồng ASEAN. Các
nước ASEAN nhận thức rất rõ việc phải đưa hợp tác chính trị an ninh lên một tầm
cao mới, nhằm duy trì hòa bình ổn định trong khu vực, đối phó với những thách
thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, song hành với nhiệm vụ thúc đẩy
liên kết kinh tế khu vực và mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Nhìn lại quá
trình lịch sử, trong mỗi thời kì, tiến trình hợp tác chính trị an ninh của ASEAN ngày
càng có những bước tiến vững chắc . Đi cùng mỗi thời kỳ là một văn bản pháp lý cụ
thể ( Tuyên bố Băng Cốc 1967, tuyên bố ZopFan 1971, tuyên bố Bali và Hiệp ước
Bali 1976, hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân
SEANWTZ, tuyên bố Bali II 2003, Hiến chương ASEAN 2007, kế hoạch tổng thể
xây dựng APSC 2009) đã chứng minh được hợp tác chính trị an ninh ASEAN luôn
phù hợp với yêu cầu hợp tác trong từng thời kỳ và ngày được hoàn thiện.
NỘI DUNG
1. Khái quát vê hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN.
Đông Nam Á là một khu vực địa lý-nhân văn tương đối thống nhất với nhiều nét
tương đồng về văn hóa và nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai, chủ nghĩa khu vực đã nhanh chóng hình thành và phát triển, nhiều tổ
chức khu vực đã xuất hiện trên thế giới. Nhu cầu thành lập một tổ chức khu vực của
Đông Nam Á càng được đẩy mạnh hơn vào thập kỷ 60 khi mà cuộc chiến tranh ở
Đông Dương đặc biệt là ở Việt Nam đang được phát triển ở đỉnh cao;các cường
quốc đang có những kế hoạch mở rộng sự ảnh hưởng tới Đông Nam Á.Chính vì
vậy, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations,
viết tắt là ASEAN) là tổ chức liên chính phủ được thành lập ngày 8/8/1967 tại
Băng-cốc, Thái Lan trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc với 5 thành viên ban đầu là Thái
Lan, Indonexia, Philippin, Xingapo, Malaysia với mục tiêu tăng cường hợp tác

2


chính trị, an ninh, kinh tế và văn hoá - xã hội giữa các nước thành viên, tạo điều
kiện hội nhập sâu hơn với khu vực và thế giới.
- Qua quá trình phát triển, các quốc gia còn lại lần lượt gia nhập ASEAN: Brunây(1984), Việt Nam(1995), Lào( 1997), Mi-an-ma(1997) và Cam-pu-chia(1999).
ASEAN hiện tại bao gồm 10 nước thành viên và hai nước quan sát viên, ứng cử
viên là Papua New Guinia và Đông Timor.
Hợp tác ASEAN ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, bao gồm nhiều
lĩnh vực từ chính trị-an ninh đến kinh tế thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục, y tế,
môi trường, khoa học-công nghệ… ASEAN cũng đã thiết lập được quan hệ hợp tác
nhiều mặt với các Đối tác trong và ngoài khu vực thông qua các tiến trình như
ASEAN+1 (hợp tác ASEAN với từng Đối tác); ASEAN+3 (với 3 nước Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc); Cấp cao Đông Á (với 3 nước Đông Bắc Á và Ấn Độ, Ôxtrây-lia, Niu Di-lân); Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)
Sau 4 thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN đã lớn mạnh thành một trở thành một
thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng đóng góp cho hòa bình, ổn
định và hợp tác ở khu vực và là đối tác không thể thiếu của các nước và các tổ chức
lớn trên thế giới. Trên nền tảng đó, ASEAN đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác và tăng
cường liên kết nhằm hướng tới xây dựng một Cộng đồng ASEAN vững mạnh dựa
trên ba trụ cột là Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội vào năm 2015.
2. Sự hình thành hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN.
a. Cơ cở hình thành:
Các nước Đông Nam Á có vị trí địa lí rất đặc biệt là cầu nối giữa hai Đại Dương
lớn: Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, hơn nữa đây còn là khu vực án ngữ hai
con đường huyết mạch vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông tới các nước Phương
Tây. Đồng thời láng giềng gần “ thân thiết” của các nước Đông Nam Á là Trung
Quốc, cũng đang nâng tầm ảnh hưởng của mình với khu vực này. Với vị trí địa lý
trọng yếu như vậy là lý do để ở thời điểm đó các ông lớn như Mỹ, Liên Xô tranh
giành tầm ảnh hưởng với khu vực. Sự tác động này làm cho mối đe dọa về an ninh
3



của các quốc gia Đông Nam Á bị đe dọa nghiêm trọng và yêu cầu đặt ra là phải liên
kết về an ninh chính trị để tự cứu lấy mình.
Cùng với vị trí địa lý thì việc xét trong bối cảnh sự hình thành hợp tác chính trị
an ninh cũng có vai trò quan trọng không kém. Ở thời điểm bắt đầu hình thành hợp
tác chính trị an ninh thì các quốc gia thành viên của ASEAN đều là các quốc gia
non trẻ mới giành lại được độc lập( trừ Thái Lan) yêu cầu phải liên kết lại để phát
triển, liên kết lại để tồn tại là rất cần thiết.
b. Quá trình hình thành:
Sự phát triển hợp tác chính trị an ninh của ASEAN trong quá trình phát triển
đã qua nhiều nấc thang lịch sử đánh dấu những bước đi quan trọng từ thấp đến cao
về hợp tác chính trị- an ninh của khối. Xét một cách tổng thể thì ta có thể chia quá
trình hình thành này làm 3 giai đoạn. Bao gồm
Giai đoạn 1967 đến 1976: Trong giai đoạn này các nước ASEAN hợp tác
chính trị-an ninh chỉ dừng lại ở mức độ tao ra nền tảng hợp tác lâu dài bằng một số
hoạt động chung, chủ yếu giải quyết các vấn đề chính trị trong và ngoài nước nhằm
tăng cường hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin giữa các quốc gia Đông Nam Á.
Sở dĩ, sự hợp tác an ninh – chính trị giữa các quốc gia lỏng lẻo như vậy là do
ASEAN mới thành lập, các quốc gia còn nghi kị lẫn nhau, chưa có lòng tin với
nhau ( trong lịch sử hình thành, các nước Đông Nam Á thường xảy ra xung đột,
tranh giành lãnh thổ). Chính vì vậy, cần xây dựng lòng tin nhằm xóa đi sự nghi kị
thì khi đó sự hợp tác về an ninh – chính trị mới thực sự phát huy tác dụng của sức
mạnh tập thể.
-Giai đoạn 1976 đến 1992: đây là gia đoạn củng cố cơ cấu tổ chức và tiến
hành hợp tác toàn diện nội khối và bước đầu hợp phát triển hợp tác ngoại khối. Các
nước ASEAN đã có sự tin tưởng lẫn nhau, sự hợp tác an ninh – chính trị ngày càng
bền chặt hơn, tạo điều kiện thuận lợi giúp ASEAN hợp tác sang lĩnh vực kinh tế.

4



-Giai đoạn 2003 đến nay: Năm 2003, thành lập Cộng đồng ASEAN. Năm
2007, Hiến chương ASEAN được thông qua. Qua đó, Cộng đồng ASEAN nêu rõ
mục đích hợp tác về an ninh – chính trị, bao gồm: Duy trì và thúc đẩy hòa bình, an
ninh và ổn định, tăng cường các giá trị hướng tới hòa bình khu vực; nâng cao khả
năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác an ninh – chính trị, kinh tế và
văn hóa – xã hội; duy trì Đông Nam Á là khu vực không có vũ khí hạt nhân và các
loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác; đối phó hữu hiệu với tất cả các mối đe dọa, các
loại tội phạm xuyên quốc gia và thách thức xuyên biên giới, phù hợp với nguyên
tắc an ninh toàn diện; tăng cường hợp tác trong việc xây dựng cho người dân
ASEAN môi trường an toàn, an ninh và không có ma túy; duy trì vai trò trung tâm
và chủ động của ASEAN như một động lực chủ chốt trong quan hệ và hợp tác với
các đối tác bên ngoài trong cấu trúc khu vực mở, minh bạch và thu nạp.
3. Chứng minh qua nội dung các văn bản:
3.1. Tuyên bố Băng Cốc 1967:
Ngày 8/8/1967, tại Bangkok, Thái Lan, Bộ trưởng phụ trách các vấn đề chính trị
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia, Phó Thủ tướng Malaysia, Bộ trưởng Ngoại
giao Philippines, Bộ trưởng Ngoại giao Singapore và Bộ trưởng Ngoại giao Thái
Lan đã ra Tuyên bố ASEAN. Đây là Tuyên bố thành lập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á với mục tiêu đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển
văn hóa; tăng cường hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau cũng như thúc đẩy hòa bình, ổn định
trong khu vực.
Tuyên bố Bangkok đánh dấu sự ra đời của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á,
xác định những nguyên tắc nền tảng cho quan hệ hợp tác bền vững của ASEAN.
Mặc dù không có điều khoản hoàn toàn độc lập ghi nhận về chiến lược xây dựng và
phát triển trụ cột hợp tác chính trị - an ninh, nhưng căn cứ vào nội dung tinh thần
của Tuyên bố Bangkok thì mục đích hàng đầu vẫn là đưa Đông Nam Á trở thành
cộng đồng của các quốc gia hoà bình và thịnh vượng: “thúc đẩy hoà bình và ổn


5


định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc luât pháp trong quan hệ
giữa các quốc gia trong vùng và tuân thủ nguyên tắc Hiến chương của Liên hợp
quốc”. Trong bối cảnh sau chiến tranh lạnh, tình hình thế giới có nhiều biến động,
sự ra đời của ASEAN cùng với Tuyên bố Bangkok đã mở ra thời kỳ hợp tác khu
vực Đông Nam Á.
3.2. Tuyên bố ZOFPAN 1971:
Hơn 4 năm sau Tuyên bố Bangkok, ngày 27/11/1971, tại Kuala Lumpur
(Malaysia), Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao 5 nước ASEAN gồm Indonesia,
Malaysia, Philippines, Xingapo, Thái Lan đã ký và công bố “Tuyên bố về khu vực
hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam Á” - Tuyên bố ZOPFAN. Tuyên bố quan
trọng này đã định ra các mục tiêu cơ bản và lâu dài của ASEAN là xây dựng Đông
Nam Á thành một khu vực hòa bình, tự do và trung lập, không có sự can thiệp dưới
bất cứ hình thức nào của các cường quốc bên ngoài. Với tuyên bố ZOFPAN,
ASEAN đã bắt đầu có tiếng nói chính trị của mình đối với khu vực và quốc tế,
chấm dứt thời kỳ dò dẫm ban đầu.
Trong thời kỳ những năm 1967 – 1975 tình hình quốc tế và khu vực có nhiều
biến chuyển quan trọng: Anh tuyên bố rút khỏi Đông Nam Á (1968), Mỹ bắt đầu rút
khỏi miền Nam Việt Nam (1969)… Chính sự bất ổn định trong khu vực, cùng với
những nguy cơ từ bên ngoài, đặc biệt là khi Anh rút đi có thể tạo nên những
“khoảng trống quyền lực” các nước lớn có thể lợi dụng can thiệp vào khu vực. Ra
đời trong bối cảnh đó, Tuyên bố ZOFPAN đánh dấu sự thay đổi trong chính sách
đối nội và đối ngoại của ASEAN. Vấn đề trung lập hoá mà Tuyên bố đưa ra tại thời
điểm đó đã đáp ứng được nhiệm vụ giữ nguyên trạng tình hình Đông Nam Á, ngăn
chặn sự can thiệp của các cường quốc mới như Trung Quốc, Nhật Bản đối với khu
vực, buộc các quốc gia bên ngoài chính thức cam kết không can thiệp vào công việc
nội bộ của Đông Nam Á, đồng thời sẽ giữ cho khu vực này không bị rơi vào vòng
ảnh hưởng của bất kỳ siêu cường quốc nào. Những nội dung cơ bản của vấn đề này

được thể hiện trong tuyên bố ZOPFAN “quyết tâm sử dụng những cố gắng cần thiết
6


bước đầu để đảm bảo việc công nhận và tôn trọng Đông Nam Á là một khu vực
Hòa bình, Tự do và Trung lập, không có sự can thiệp dưới bất kỳ hình thức và
phương cách nào của các nước ngoài khu vực. Các nước Đông Nam Á cần phối
hợp nỗ lực nhằm mở rộng các lĩnh vực hợp tác để góp phần tăng cường sức mạnh,
tình đoàn kết, mối quan hệ gắn bó hơn nữa”... Đây là hành động hợp tác chính trị
tiêu biểu của ASEAN, thể hiện được ý thức tự cường của các quốc gia trong khu
vực, nhằm hạn chế sự can thiệp của các cường quốc từ bên ngoài. Đồng thời thể
hiện lập trường trung lập hóa và mong muốn thoát khỏi sự rằng buộc vào các khối
liên minh quân sự của các nước thành viên ASEAN trong bối cảnh Chiến tranh
lạnh. Trung lập hoá là nguyên tắc mà ASEAN luôn khẳng định và theo đuổi trong
suốt quá trình phát triển của ASEAN từ khi thành lập cho đến nay. Tư tưởng
ZOPFAN đã thể hiện đặc trưng của ASEAN là muốn giải quyết các vấn đề khu vực
bằng lực lượng bên trong của mình chứ không phụ thuộc vào bên ngoài. Trong hoàn
cảnh chiến tranh lạnh tranh giành quyền lực rất phức tạp, Tuyên bố ZOPFAN là
biểu hiện nhạy cảm sáng suốt về chính trị của các nước ASEAN.
3.3. Tuyên bố Bali và Hiệp ước Bali 1976:
a, Tuyên bố Bali:
Xuất phát từ mục đích và yêu cầu của các quốc gia ASEAN trong việc xây
dựng khối đoàn kết và phát triển trong khu vực Đông Nam Á.Một nội dung quan
trọng được các nhà lãnh đạo ASEAN thống nhất tại Hội nghị cấp cao ASEAN 19 là
Tuyên bố chung Bali về cộng đồng ASEAN trong cộng đồng các quốc gia toàn
cầu.Tại hội nghị, các lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Bali (hay còn gọi là Thỏa
thuận Bali III) vạch ra quan hệ tương tác giữa cộng đồng ASEAN và các cộng đồng
toàn cầu.
Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN : Nêu rõ những mục tiêu và nguyên tắc bảo
đảm sự ổn định chính trị ở khu vực như đẩy mạnh hợp tác trên các lính vực phát

triển kinh tế và văn hoá, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp thiên tai, hợp tác trong các

7


chương trình phát triển khu vực, phát triển hoà bình các cuộc tranh chấp ở khu vực,
đồng thời xác định rõ những lĩnh vực hợp tác cụ thể về kinh tế.
Tuyên bố Bali kêu gọi ASEAN củng cố kinh tế khu vực, thông qua các quy
chuẩn sản xuất và phân phối hàng hóa, tiếp cận các tiến bộ và ứng dụng công nghệ,
tăng cường đầu tư nông nghiệp và đa dạng hóa nguồn năng lượng.
Các lãnh đạo ASEAN đã chứng kiến lễ ký kết thỏa thuận thành lập Trung tâm
Điều phối cứu trợ nhân đạo và quản lý thảm họa ASEAN, tuyên bố Đoàn kết
ASEAN về đa dạng hóa văn hóa và nghị định thư về sửa đổi thỏa thuận kinh doanh
hàng hóa theo khung thỏa thuận hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Hàn Quốc.
Các nhà lãnh đạo nhất trí ASEAN cần tăng cường phối hợp và nâng cao vai trò và
đóng góp của ASEAN vào các công việc chung của cộng đồng quốc tế.Đây là một
trong 3 ưu tiên mà nước chủ nhà Indonesia đặt ra trong năm Indonesia là Chủ tịch
ASEAN 2011, xác lập tầm nhìn của ASEAN sau thời điểm ra đời cộng đồng ASEAN
vào năm 2015.
Tuyên bố chung Bali về cộng đồng ASEAN trong cộng đồng các quốc gia toàn
cầu đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc tăng cường hợp tác và phối hợp trong
ASEAN đối với những vấn đề toàn cầu, trên các diễn đàn đa phương, thể hiện tầm
nhìn chung cũng như duy trì và nâng cao vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu
trúc khu vực đang định hình.
b, Hiệp ước Bali 1976:
Trong bối cảnh ra đời của tổ chức ASEAN với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động
hợp tác kinh tế, văn hóa nhằm xây dựng một Đông Nam Á thành khu vực hòa bình,
ổn định và phát triển.
Tháng 2/ 1976 Hội nghi cấp cao họp tại Ba li (Indonesia) ký Hiệp ước thân thiện
và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali).Hiệp ước bali (2/1976) là hiệp ước xác

định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ của các nước Đông Nam Á nhằm tôn
trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết các tranh chấp bằng biện
pháp hòa bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thành viên,hợp
8


tác cùng phát triển. Chính sau hiệp ươc này thì mối quan hệ giữa các nước trong
hiệp hội đã không ngừng phát triển, ngày càng gắn bó hơn nhằm tạo ra sức mạnh
tổng hợp. Vì vậy mà vị thế của ASEAN ngày càng lớn mạnh.
Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, còn gọi là Hiệp ước Bali, đặt
khuôn khổ cho nền hoà bình lâu dài ở khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết hoà bình
các tranh chấp trong khu vực và kêu gọi hợp tác có hiệu quả trên các lĩnh vực nông
- công nghiệp, thương mại và cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế vì lợi ích chung của
các nước trong khu vực.
Từ những nguyên tắc cơ bản đã xác định thì hiệp ước Bali 1976 đã định hướng
những bước đi trong tiến trình phát triển của các quốc gia ASEAN.Từ đây có thể
khẳng định rằng ASEAN với tính chất là một tổ chức quốc tế khu vực càng trở nên
quan trong, góp phần ổn định hòa bình, an ninh khu vực nâng cao vị thế của tổ
chức, từ đó góp phần rất lớn vào quá trình hội nhập, giữ gìn hòa bình và an ninh thế
giới.
3.4. Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân SEANWFZ:
Bước vào thế kỷ 21, những mối lo về vũ khí chiến tranh, đặc biệt là vũ khí có
khả năng hủy diệt cao như vũ khí hạt nhân là một trong những vấn đề ngày càng
được các nước trên thế giới quan tâm bởi sự nguy hiểm mà chúng đem lại là không
thể lường trước, đồng thời cũng một phần do sức hủy diệt, tàn phá mà chúng tạo ra
vô cùng lớn. Trong điều kiện đó, tháng 2/1995 các nước ASEAN đã ký kết Hiệp
ước Khu vực phi vũ khí hạt nhân ASEAN (SEANWFZ) cam kết giải trừ và không
phổ biến vũ khí hạt nhân, cam kết này tiếp tục được khẳng định tính đúng đắn của
nó với việc Hiến chương ASEAN đi vào hiệu lực, trong đó có mục tiêu thiết lập và

duy trì Đông Nam Á là một khu vực phi vũ khí hạt nhân và hủy diệt hàng loạt. Việc
thực hiện hiệu quả Hiệp ước SEANWFZ và hệ thống các biện pháp bảo vệ của
IAEA sẽ bổ sung và tăng cường cho chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân toàn
cầu, bởi Hiệp ước SEANWFZ là hiệp ước khu vực quan trọng nhất về không phổ
9


biến vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á – một công cụ chiến lược vì hòa bình và an
ninh khu vực, và là sự đóng góp quan trọng cho chế độ giải trừ không phổ biến vũ
khí hạt nhân toàn cầu. Ngoài ra hiệp ước này còn cung cấp một cơ sở pháp lý cho sự
hợp tác với IAEA cả ở cấp quốc gia và khu vực.
3.5. Tuyên bố Bali II 2003:
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN-9 vào tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN
đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đề ra
mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột chính: Cộng
đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội
(ASCC); đồng thời khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ
với các đối tác bên ngoài, vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có
lợi ở khu vực.
Hội nghị cấp cao ASEAVN đã thông qua hiệp định lịch sử về việc thành lập một
khối thương mại tự do, nhằm biến ASEAN thành một thị trường chung mang tính
thống nhất hơn vào năm 2020. Hiệp định trên có tên gọi là "Tuyên bố Hòa hợp Bali
II”
Hiệp định này sẽ đặt nền móng cho việc thiết lập một cộng đồng khu vực được
hình thành trên nền tảng của trụ cột chính là Cộng đồng An ninh ASEAN, Cộng
đồng Kinh tế ASSEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN, nhằm tạo
nên một nền hòa bình bền vững, ổn định và phát triển phồn vinh.
Hiệp định đề nghị các nước thành viên tiêu chuẩn hóa quy chế về thủ tục và chi
phí hải quan, hài hòa hóa các quy định về kỹ thuật trong khu vực vào năm 2004; bắt
đầu lộ trình dỡ bỏ dần các rào cản phi thuế quan vào năm 2005, áp dụng các biện

pháp làm cho ngành công nghiệp chế tạo hoạt động hiệu quả và có sức cạnh tranh
hơn; bãi bỏ việc kiểm soát luồng vốn; sửa đổi và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh tế hiện hành...
Trong cuộc họp thượng đỉnh kéo dài 2 ngày này, các nhà lãnh đạo ASEAN cũng
sẽ tiến gần hơn tới việc ký một hiệp định thương mại tự do với Trung Quốc, nhằm
10


tạo ra một thị trường gồm 1,7 tỷ người tiêu dùng với tổng GDP đạt 2.000 tỷ USD.
Ấn Độ và Nhật Bản cũng hy vọng sẽ ký các hiệp định tự do thương mại với
ASEAN trong vòng 10 năm tới.
3.6. Hiến chương ASEAN 2007:
Từ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 10 (năm 2004), lãnh đạo các nước ASEAN
đã nhất trí xây dựng bản Hiến chương ASEAN. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần
thứ 13 (năm 2007), lãnh đạo các nước ASEAN đã ký thông qua Hiến chương
ASEAN và ra Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm hoàn tất việc phê chuẩn Hiến
chương trong vòng một năm.Ngày 15/12/2008, Hiến chương ASEAN chính thức có
hiệu lực sau khi được tất cả các nước thành viên ASEAN phê chuẩn.
* Mục đích của Hiến chương ASEAN khẳng định lại các mục đích và nguyên
tắc cơ bản của ASEAN, nhất là mục đích hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác khu
vực cũng như nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; đồng thời bổ sung một số mục đích và nguyên tắc mới cho
phù hợp với tình hình, trong đó có những mục tiêu về liên kết ASEAN, thu hẹp
khoảng cách phát triển, hướng về nhân dân và vai trò trung tâm của ASEAN ở khu
vực, có nguyên tắc về việc các nước không tham gia và không cho phép bất kỳ quốc
gia/đối tượng nào được sử dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống lại một
nước thành viên khác.
Đây là một sự kiện quan trọng, là bước ngoặt lịch sử của Hiệp hội trong hơn 40
năm hình thành và phát triển.Từ đây ASEAN đã có một quản quy chế chung có giá
trị tối cao và yêu cầu phải được tôn trọng bậc nhất bởi các quốc gia trong khối. Nó

còn đánh dấu một bước đi quan trọng trong tiến trình hợp tác an ninh, chính trị
trong khu vực và nâng nó lên một tầm cao mới.
3.7. Kế hoạch tổng thể xây dựng APSC 2009:
Nhằm mục tiêu là tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở
khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên
tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài;
11


không nhằm tạo ra một khối phòng thủ chung. Tháng 2/2009 Hội nghị Cấp cao
ASEAN-14 đã thông qua “Kế hoạch tổng thể xây dựng APSC”. Các nội dung hợp
tác trong Kế hoạch tổng thể cơ bản dựa trên các nội dung đã nêu trong Kế hoạch
hành động ASC, bổ sung thêm mục hợp tác với bên ngoài và được sắp xếp lại,
hướng tới xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh. Cộng đồng Chính trị - An ninh
(APSC) hoạt động dựa trên nguyên tắc "tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng,
toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia thành viên" và được
duy trì như là nền tảng của hợp tác chính trị - an ninh. Nội dung chính của cộng
đồng chính trị - an ninh ASEAN được các thành viên ASEAN thống nhất tại Hội
nghị cấp cao Viêng Chăn năm 2009, bao gồm:
Thứ nhất, thúc đẩy khái niệm an ninh toàn diện với các khía cạnh về chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, nhưng không nhằm hình thành một khối quân sự hoặc liên
minh quân sự.
Thứ hai, tôn trọng các nguyên tắc chủ đạo của ASEAN như ra quyết định bằng
đồng thuận, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết
hòa bình các tranh chấp.
Thứ ba, tiếp tục đề cao và phát huy các cơ chế và công cụ sẵn có của ASEAN
về hợp tác chính trị - an ninh, sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước bè
bạn và các bên đối tác nhằm thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực.
“Kế hoạch tổng thể xây dựng APSC” , đây là văn bản có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình xây dựng cộng đồng chính trị- an ninh ASEAN có ý nghĩa định

hướng quan trọng cho quá trình xây dựng Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN và
cũng là bước tiến thể hiện quyết tâm hoàn thành Cộng đồng chính trị - an ninh
ASEAN vào năm 2015. Đưa hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới,
hướng tới bảo đảm hòa bình lâu dài và vững chắc cho nhân dân các nước thành
viên, qua đó góp phần tạo dựng môi trường khu vực và thế giới hòa bình, công bằng
và hòa hợp. Các nươc thành viên ASEAN đang hợp tác hướng tới thành lập một
cộng đồng chung với sự tăng cường hợp tác các nội dung hợp tác an ninh phi truyền
12


thống kể trên các tội phạm xuyên quốc gia sẽ được triệt phá để đảm bảo hòa bình,
ổn định an ninh cho khu vực. Từ “an ninh truyền thông” ASEAN đã chuyển dần
sang “an ninh phi truyền thông”.Các kết quả đã đạt được trong triển khai Kế hoạch
tổng thể APSC thời gian qua được đánh giá cao, ASEAN cần tiếp tục tập trung thực
hiện hiệu quả 14 lĩnh vực ưu tiên, nhất là thúc đẩy hòa bình, ổn định, tăng cường
xây dựng lòng tin và các chuẩn mực ứng xử ở khu vực; hợp tác ứng phó hiệu quả
với các thách thức đang nổi lên như an ninh biển, quản lý thiên tai, tội phạm xuyên
quốc gia…
KẾT THÚC
Hoạt động xây dựng khối ASEAN đoàn kết hợp tác về chính trị an ninh là cả
một quá trình dài và qua nhiều chặng đường gian nan vất vả . Vượt qua những
chặng đường gian nan vất vả đó chúng ra đã rút ra được nhiều bài học trong quá
trình tổ chức và hoạt động đồng thời quá trình đó cũng chứng minh được tính đúng
đắn và hợp lý một cách tương đối của những chủ chương chính sách mà khối áp
dụng trong từng thời kỳ .Đó là một thành công lớn đối với một cộng đồng các quốc
gia còn non trẻ đánh

13



Mục lục
Trang
Mở đầu

1

Nội dung

1

1.Khái quát vê hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN

1

2. Sự hình thành hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN

2

3. Chứng minh qua nội dung các văn bản:

4

3.1. Tuyên bố Băng Cốc 1967:

4

3.2. Tuyên bố ZOFPAN 1971:

5


3.3. Tuyên bố Bali và Hiệp ước Bali 1976:

6

a, Tuyên bố Bali:

6

b, Hiệp ước Bali 1976:

7

3.4. Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân
SEANWFZ:

8

3.5. Tuyên bố Bali II 2003:

9

3.6. Hiến chương ASEAN 2007:

10

3.7. Kế hoạch tổng thể xây dựng APSC 2009:

10

KẾT THÚC


12

14


Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Giáo trình pháp luật cộng đồng ASEAN, trường đại học Luật Hà Nội,
nxb công an nhân dân,Hà Nội 2012.

2.

tuyên bố Băng cốc 1967.

3.

Tuyên bố ZOPFAN 1971;

4.

Tuyên bố Bali và Hiệp ước Bali 1976;

5.

Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân SEANWFS;

6.


Tuyên bố Bali II 2003;

7.

Hiến chương ASEAN 2007;

8.

Kế hoạch tổng thể xây dựng APSC 2009.

15



×