Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

HỆ THỐNG NHỮNG nội DUNG cơ bản của LUẬT HIẾN PHÁP 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.64 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LUẬT

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP

LUẬT HIẾN PHÁP


I. KHÁI NIỆM LUẬT HIẾN PHÁP
Luật Hiến pháp được hiểu là ngành luật hiến pháp, là
một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất,
quan trọng nhất.
Các quan hệ xã hội được coi là quan trọng nhất có nội
dung xác định các chế độ xã hội, xác định quyền và nghĩa vụ
của con người, xác định việc tổ chức bộ máy nhà nước. Ngành
luật hiến pháp chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất
trong số các quan hệ quan trọng nhất nêu trên.
Ở Việt Nam, pháp luật tồn tại chủ yếu dưới hình thức
văn bản. Vì vậy, các quy phạm pháp luật cấu tạo nên ngành luật
hiến pháp được biểu hiện thông qua rất nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau. Trong số các văn bản ấy, Hiến pháp
là một văn bản quan trọng, thể hiện tập trung những quy phạm
cơ bản nhất của ngành luật hiến pháp.
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIẾN PHÁP
1. Khái niệm Hiến pháp
Theo quan niệm hiện đại, Hiến pháp là một đạo luật cơ
bản, quan trọng của mỗi quốc gia, có nội dung xác định chế độ
xã hội, xác định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,


xác định những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước.
2. Nguồn gốc của Hiến pháp

2


Sự ra đời của Hiến pháp gắn liền với thắng lợi của cách
mạng tư sản, đồng thời đánh dấu sự chấm dứt của chế độ phong
kiến, chế độ chiếm hữu nô lệ. Dưới chế độ phong kiến, vua
được coi là “thiên tử”, thâu tóm trong tay toàn bộ quyền lực
nhà nước: quyền đặt ra pháp luật, quyền cắt cử quan lại để cai
quản đất nước, quyền xét xử tối cao. Để hạn chế quyền lực vô
hạn của nhà vua, tiến tới lật đổ chế độ thống trị hà khắc, độc
đoán, chuyên quyền phong kiến, giai cấp tư sản đó phát động
cuộc cách mạng tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng những tư tưởng
đòi hỏi sự phân chia quyền lực được nêu ra từ thời cổ đại, phát
triển chúng để phục vụ cho cuộc cách mạng tư sản.
Những khẩu hiệu đòi hạn chế quyền lực vô hạn của nhà
vua, đòi hỏi những quyền cơ bản của con người như: quyền
sống, quyền tự do, bình đẳng, công bằng đó được đông đảo các
tầng lớp nhân dân ủng hộ và tham gia vào cuộc cách mạng này.
Cách mạng tư sản thắng lợi, Hiến pháp ra đời là sự kiện chính
trị - xã hội quan trọng, khẳng định sự thống trị của giai cấp tư
sản tiến bộ, đang lên và là lực lượng đại diện cho một phương
thức sản xuất mới - phương thức sản xuất TBCN, một chế độ
cai trị mới - chế độ dân chủ tư sản, đồng thời đánh dấu sự rút
lui khỏi vũ đài chính trị của giai cấp phong kiến cùng với chế
độ cai trị độc đoán, chuyên quyền của nó.
Văn bản có tính chất Hiến pháp đầu tiên ra đời trong

cách mạng tư sản ở nước Anh (1640-1654) là đạo luật năm
1653 về "Hình thức cai quản Nhà nước Anh, Xcốtlen, Ailen và
những địa phận thuộc chúng" . Tuy nhiên, phải sau khi có Hiến
pháp Hoa Kỳ năm 1787 và Hoa Kỳ trở thành một nước siêu
cường, phong trào lập Hiến lan rộng, nhiều nước tìm cách xây
dựng cho mình một bản Hiến pháp. Hiện nay, trên thế giới có
khoảng 190 nước có Hiến pháp và sự hiện diện của Hiến pháp

3


được xem là dấu hiệu pháp lý không thể thiếu của một Nhà
nước dân chủ hiện đại.
3. Bản chất của Hiến pháp
Hiến pháp, với tư cách là một đạo luật cơ bản, luật gốc
của Nhà nước, vì vậy nó mang đầy đủ bản chất của pháp luật
nói chung, đó là bản chất giai cấp và bản chất xã hội. Bản chất
giai cấp được thể hiện: Hiến pháp là sự thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị, là công cụ để bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai
cấp thống trị. Bản chất xã hội của Hiến pháp được thể hiện:
Hiến pháp là tổng hợp của các quy tắc xử sự cơ bản nhất, quan
trọng nhất góp phần bảo vệ những lợi ích chung của cả quốc
gia, dân tộc và toàn xã hội, là công cụ để duy trì và thiết lập trật
tự, ổn định của xã hội. Tính giai cấp và tính xã hội của Hiến
pháp được thể hiện khác nhau đối với từng quốc gia, từng giai
đoạn lịch sử.
Hiến pháp còn thể hiện là đạo luật cơ bản, luật gốc của
Nhà nước. Các quy định của Hiến pháp trở thành những
nguyên tắc tối cao trong hệ thống pháp luật quốc gia. Xuất phát
từ những nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp, nhiều văn bản

luật và dưới luật được ban hành để triển khai, thực hiện những
nguyên tắc ấy. Bất cứ một văn bản pháp luật nào trái với các
nguyên tắc trong Hiến pháp đều bị coi là vi hiến và bị hủy bỏ,
bãi bỏ theo những thủ tục nhất định.
Hiến pháp còn mang tính nhân bản ở việc ghi nhận
quyền của con người. Thông qua Hiến pháp, mọi người trong
xã hội thoát khỏi thân phận “thần dân”, được trở thành “công
dân” và được Nhà nước ghi nhận cho hưởng những quyền nhất
định. Theo nguyên tắc, đó là những quyền tối thiểu mà công
dân được hưởng, các văn bản khác được trao thêm quyền cho

4


người dân, nhưng không được hạn chế bớt những quyền của
người dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Các văn bản khác
cũng không được hạn chế, cản trở việc hưởng thụ các quyền
của người dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
Hiến pháp còn là cơ sở để hạn chế quyền lực của các cơ
quan nhà nước, tránh sự lạm quyền của các cơ quan này. Hiến
pháp ghi nhận những quyền hạn tối đa mà các cơ quan nhà
nước được hưởng và những nghĩa vụ tối thiểu mà các cơ quan
nhà nước phải thực hiện. Các văn bản khác được trao thêm
nghĩa vụ cho các cơ quan nhà nước, nhưng không được trao
thêm các quyền ngoài những quyền mà Hiến pháp quy định.
4. Sự hình thành và phát triển của Hiến pháp
4.1. Trong các nhà nước tư sản
Hiến pháp được hình thành cùng với cuộc cách mạng tư
sản, là sản phẩm của cách mạng tư sản. Trong cuộc cách mạng
do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm chống lại chế độ phong kiến,

chống lại quyền lực vô hạn của vua, chúa phong kiến. Ở những
nơi cuộc cách mạng tư sản hoàn toàn thắng lợi, Hiến pháp được
ban hành để xóa bỏ quyền lực của nhà vua, thiết lập một chính
thể cộng hòa. Ở những nơi cuộc cách mạng tư sản không hoàn
toàn thắng lợi, Hiến pháp ra đời là cơ sở để hạn chế quyền lực
của nhà vua, thiết lập chính thể quân chủ lập hiến.
Hiến pháp tư sản trong thời kỳ đầu mang giá trị tích
cực. Ngoài việc bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản, các tầng
lớp, giai cấp khác cũng được hưởng quyền lợi tốt hơn so với
thời kỳ phong kiến trước đây.
Khi giai cấp công nhân trong xã hội đã phát triển cả về
chất và lượng, trở thành giai cấp đối trọng với giai cấp tư sản.
Khi ấy, Hiến pháp là sản phẩm của nhà nước tư sản lại được sử

5


dụng để chống lại giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hiến pháp trong giai đoạn này, tuy có quy định các quyền công
dân nhưng mang tính chất hình thức và phản dân chủ. Bản chất
của Hiến pháp chỉ bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản - lực
lượng chiếm thiểu số trong xã hội, Hiến pháp không đứng về số
đông dân chúng.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, với thắng lợi của
Xôviết, các nhà nước XHCN được hình thành và trở thành một
hệ thống đối trọng với các nước TBCN. Trước sự đấu tranh
mạnh mẽ của giai cấp công nhân và dân chúng lao động, cùng
với sự nhận thức của dân chúng được tăng cường. Để tập hợp
lực lượng và để nhận được sự ủng hộ của dân chúng, giai cấp tư
sản cũng đã phải ghi nhận và thực hiện đầy đủ hơn các quyền

chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của công dân. Vì vậy, Hiến
pháp trong giai đoạn này đã lại chứa đựng những yếu tố tích
cực, tiến bộ.
4.2. Trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa
Xuất hiện sau so với Hiến pháp tư sản, Hiến pháp
XHCN được hình thành gắn liền với cuộc cách mạng vô sản.
Giai cấp vô sản đã tiến hành phê phán Hiến pháp tư sản, chỉ ra
rằng Hiến pháp tư sản có bản chất chỉ phục vụ cho lợi ích của
giai cấp tư sản. Đồng thời cũng nhận thấy được những giá trị
tích cực của Hiến pháp, giai cấp vô sản cho rằng cũng cần phải
xây dựng một loại Hiến pháp mới cho một xã hội mới, xã hội
XHCN. Hiến pháp được xây dựng để ghi nhận thắng lợi của
giai cấp vô sản, ghi nhận những nền tảng của chế độ XHCN,
ghi nhận những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, ghi
nhận những nguyên tắc cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn đầu, từ cách mạng tháng Mười đến năm
1945, Hiến pháp XHCN chỉ tồn tại trong phạm vi nội bộ quốc

6


gia (Liên bang Nga, sau là liên bang Xôviết). Sau này, khi các
nước XHCN khác được hình thành, cùng với nó là sự ra đời
của các bản Hiến pháp, như: Hiến pháp Việt Nam năm 1946,
Hiến pháp Bungary năm 1947, Hiến pháp Rumani năm 1948,
Hiến pháp Cộng hoà dân chủ Đức năm 1949, Hiến pháp
Hungary năm 1949, Hiến pháp Ba lan năm 1952, Hiến pháp
Trung Hoa năm 1954. Từ năm 1990 đến nay, khi các nước
XHCN ở Đông Âu tan rã và quay trở lại với hình thức nhà
nước tư sản, các bản Hiến pháp XHCN ở các nước này đã được

thay đổi, trở thành các bản Hiến pháp tư sản. Hiến pháp XHCN
hiện chỉ còn áp dụng tại một số rất ít quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Các nước XHCH để tồn tại phải có những điều chỉnh rất
nhiều về nội dung của Hiến pháp.
5. Phân loại Hiến pháp
5.1. Theo hình thức biểu hiện
Hiến pháp thành văn là Hiến pháp được biểu hiện dưới
hình thức văn bản. Thông thường là một văn bản, trong trường
hợp đặc biệt, Hiến pháp được thể hiện dưới hình thức nhiều văn
bản. Ví dụ như Hiến pháp Thụy Điển được biểu hiện thông qua
các đạo luật: Luật về chính thể (1809), Luật về kế vị ngôi vua
(1810), Luật về nghị viện (1810), Luật về tự do báo chí (1812).
Hiến pháp thành văn là một đạo luật cơ bản, quan trọng nhất
của quốc gia, hiện nay đa số các quốc gia sử dụng Hiến pháp
thành văn.
Hiến pháp không thành văn là Hiến pháp không được
thể hiện dưới hình thức văn bản cụ thể. Hiến pháp không thành
văn được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật, các quy
tắc trong phong tục, tập quán, truyền thống, án lệ. Hiện nay chỉ
có một số ít quốc gia sử dụng Hiến pháp không thành văn, như:

7


Anh, Niudilan, Isaren, Libia. Hiến pháp không thành văn không
mang tính long trọng như Hiến pháp thành văn, tuy vậy lại
thuận tiện trong thủ tục thông qua và sửa đổi.
5.2. Phân loại Hiến pháp theo nội dung
Hiến pháp cổ điển là Hiến pháp có nội dung chủ yếu
quy định về tổ chức quyền lực nhà nước, ít có những quy định

về các quyền tự do. Hiến pháp cổ điển xuất hiện nhiều ở giai
đoạn cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Tuy vậy, có một số Hiến
pháp được ban hành trong thời gian gần đây cũng được coi là
Hiến pháp cổ điển. Một số bản Hiến pháp cổ điển tiêu biểu
như: Hiến pháp Hoa Kỳ 1787, Hiến pháp Áo 1920, Hiến pháp
Ailen 1937, Hiến pháp Thụy Điển 1974, Hiến pháp Canada
1982.
Hiến pháp hiện đại là Hiến pháp có nội dung được mở
rộng, quy định thêm nhiều quyền tự do của công dân. Các bản
Hiến pháp hiện đại tiêu biểu như: Hiến pháp Pháp 1946, 1958;
Hiến pháp Cộng hoà dân chủ Đức 1949; Hiến pháp các nước
XHCN.
5.3. Phân loại Hiến pháp theo thủ tục thông qua
Hiến pháp nhu tính là Hiến pháp có thủ tục thông qua
như một đạo luật thông thường. Hiến pháp cương tính là Hiến
pháp có thủ tục thông qua đặc biệt hơn so với các đạo luật
thông thường. Tính đặc biệt thể hiện ở chỗ: (1) cần có một cơ
quan đặc biệt thông qua, như Quốc hội lập hiến hoặc thông qua
toàn dân biểu quyết; (2) thủ tục thông qua chặt chẽ, khắt khe
hơn thể hiện ở trình tự xây dựng và thông qua Hiến pháp, tỷ lệ
thông qua Hiến pháp cao hơn mức quá bán (trên 2/3, hoặc trên
3/4).
5.4. Phân loại Hiến pháp theo bản chất giai cấp

8


Hiến pháp tư sản là Hiến pháp được ban hành trong nhà
nước tư sản, với bản chất là ý chí của giai cấp tư sản để bảo vệ
các quyền, lợi ích của giai cấp tư sản. Hiến pháp tư sản có một

số đặc trưng: (1) Về chế độ xã hội: không có quy định rõ về
tính giai cấp, bảo vệ chế độ tư hữu; (2) Về quyền và nghĩa vụ
của công dân: Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các quyền tự
do, dân chủ đã được ghi nhận nhiều hơn; (3) Về tổ chức quyền
lực nhà nước: áp dụng thuyết phân quyền.
Hiến pháp XHCN là Hiến pháp được ban hành trong
nhà nước XHCN, với bản chất là ý chí của nhân dân lao động,
bảo vệ các quyền, lợi ích của nhân dân lao động. Hiến pháp
XHCN có một số đặc trưng sau: (1) Về chế độ xã hội: quy định
rõ tính giai cấp, ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản,
bảo vệ cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa;(2) Về quyền và nghĩa vụ
của công dân: quy định nhiều quyền tự do, dân chủ và các
quyền công dân khác; (3) Về tổ chức quyền lực nhà nước: áp
dụng nguyên tắc tập quyền ở những mức độ khác nhau.
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM
1. Hiến pháp Việt Nam
Hiến pháp Việt Nam là văn bản có giá trị pháp lý cao
nhất do Quốc hội ban hành, có nội dung điều chỉnh những quan
hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất của xã hội. Đó là các
quan hệ xã hội mang nội dung xác định chế độ xã hội, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước.
Hiến pháp Việt Nam theo bản chất là Hiến pháp xã hội
chủ nghĩa, theo hình thức là Hiến pháp thành văn, theo nội
dung là Hiến pháp có nội dung hiện đại, theo thủ tục xây dựng
và thông qua là Hiến pháp cương tính.
2. Lịch sử phát triển của Hiến pháp Việt Nam

9



Hiến pháp 1946, là bản Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp ra đời trong bối cảnh:
trên thế giới kiểu nhà nước XHCN đã xuất hiện. Kiểu nhà nước
tư sản đang bộc lộ những dấu hiệu không tốt do những mâu
thuẫn gay gắt phát sinh giữa các nước tư sản giành phần thắng
trong tế chiến II với nước tư sản thua trận, giữa nước tư sản cũ
với nước tư sản mới đang lên, giữa giai cấp tư sản với giai cấp
công nhân. Trước bối cảnh đó, việc lựa chọn xây dựng kiểu nhà
nước XHCN là mong muốn của những người làm cách mạng
ngay từ khi chưa thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Tuy nhiên, nguyện vọng này chưa thực hiện được bởi điều
kiện và tình hình trong nước lúc bấy giờ. Nhà nước non trẻ mới
được thành lập, lực lượng cách mạng chưa mạnh, nhưng đã
phải đối phó với nhiều thế lực thù trong giặc ngoài. Để giành
được sự ủng hộ và công nhận của cộng đồng quốc tế với nhà
nước mới thành lập, chúng ta cần nhanh chóng ban hành một
bản Hiến pháp và tổ chức được một bộ máy nhà nước. Chính vì
điều này, Hiến pháp 1946 chưa áp dụng mô hình của kiểu nhà
nước XHCN Xô Viết, nhiều nội dung mang tính thỏa hiệp,
nhượng bộ. Hiến pháp 1946 là sự kết hợp tài tình từ tinh hoa
của các nước tư sản tân tiến đương thời. Hiến pháp 1946 tuy
được Nghị viện nhân dân thông qua vào ngày 9/11/1946, nhưng
Nghị viện quyết định chưa công bố chính thức vì đất nước rơi
vào tình trạng chiến tranh, không có điều kiện thực hiện các nội
dung của Hiến pháp.
Hiến pháp 1959 là bản Hiến pháp thứ hai của Nhà nước
ta. Hiến pháp được xây dựng trong bối cảnh trên thế giới các
nước XHCN đã phát triển thành hệ thống và trở thành một kiểu
nhà nước mới, có nhiều ưu điểm hơn so với kiểu nhà nước tư
sản đương thời. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giúp chúng ta


10


giành lại chủ quyền ở miền Bắc, miền Nam tiếp tục cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Miền Bắc sau khi chúng ta tiếp quản, việc xây
dựng đất nước hoàn toàn do chúng ta tự quyết. Bởi lẽ, lực
lượng cách mạng đã mạnh, các Đảng phái khác không còn tồn
tại, các thế lực thù địch hoạt động lén lút không đáng kể. Chính
vì điều đó, chúng ta đã lựa chọn xây dựng nhà nước XHCN
theo mô hình của Xô Viết, mô hình tiêu biểu của hệ thống
XHCN lúc bấy giờ.. Tuy Hiến pháp 1959 đã mang nhiều nội
dung áp dụng theo mô hình của Xô Viết, nhưng chưa áp dụng
triệt dập khuôn máy móc như Hiến pháp 1980 sau này.
Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp thứ ba của Nhà nước
ta. Hiến pháp 1980 được xây dựng trong bối cảnh trên thế giới
hệ thống các nước XHCN đang phát triển rực rỡ. Chiến thắng
mùa xuân năm 1975 ở nước ta là chiến thắng chung của hệ
thống các nước XHCN trước hệ thống các nước tư sản. Chiến
thắng làm xuất hiện tư tưởng chủ quan, ngộ nhận về khả năng
của những người cách mạng Việt Nam. Cho rằng đánh thắng
được Mỹ thì việc gì cũng có thể làm được. Cho rằng, việc xây
dựng CHXN cũng nhanh chóng đạt được, nếu làm đúng cách.
Chính vì vậy, Hiến pháp 1980 đã đề ra quan điểm thực hiện
cuộc cách mạng triệt để, áp dụng rập khuôn, máy móc theo mô
hình XHCN ở Xô Viết.
Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp thứ tư của Nhà nước
ta, được ban hành trong bối cảnh trên thế giới nhà nước CHXN
ở Xô viết và đông Âu sụp đổ và quay lại áp dụng kiểu nhà nước
tư sản. Sau thời gian dài áp dụng mô hình kinh tế bao cấp, rập

khuôn như Xô Viết, tình hình kinh tế xã hội trong nước đang
hết sức khó khăn. Những lý do trên dẫn đến việc phải thay đổi
đường lối phát triển như mô hình CHXN ở Xô Viết. Thời điểm
này, Trung Quốc đã thực hiện cuộc cải cách (1978-1987) thành

11


công, kinh tế - xã hội Trung Quốc đạt được những thành tựu rõ
rệt. Chính vì vậy, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
mạnh dạn khởi xướng tinh thần đổi mới. Tinh thần đổi mới này
được thể hiện rõ nét trong các nội dung của Hiến pháp 1992.
Hiến pháp 2013 được ban hành trong bối cảnh hệ thống
các nước tư sản vẫn duy trì sự phát triển trên phạm vi toàn thế
giới, các nước XHCN chỉ còn lại một số ít nước. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, các nước XHCN phải tiến hành cải cách
theo những quy định chung của yêu cầu hội nhập quốc tế.
Trung Quốc sau nhiều nỗ lực cải cách mạnh mẽ đã vươn tốp
đầu các nước phát triển. Ở Việt Nam, Hiến pháp 1992 sau hơn
20 năm áp dụng, đã thu được những thành tựu đáng kể về kinh
tế, chính trị, xã hội. Tuy vậy, Hiến pháp 1992 đã bộc lộ nhiều
nội dung hạn chế, cần phải sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu
phát triển.
III. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Chế độ chính trị, với tư cách là một chế định của ngành
luật Hiến pháp, là tập hợp của các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ chính trị cơ bản và quan trọng nhất, đó là
quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội
khác nhau xoay quanh một vấn đề trung tâm là giành, giữ và sử
dụng quyền lực nhà nước.

1. Chế độ chính trị theo Hiến pháp 1946
Hiến pháp 1946 khẳng định Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà là nhà nước do nhân dân lập ra. Hình thức chính
thể cộng hoà, hình thức cấu trúc là nhà nước đơn nhất. Tất cả
quyền bính trong nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền quyết định những việc quan trọng nhất của đất nước,
những công việc khác được trao cho Nghị viện nhân dân và Hội

12


đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân quyết định.
Hiến pháp chưa quy định việc áp dụng một Đảng duy nhất
trong hệ thống chính trị.
2. Chế độ chính trị theo Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1959 khẳng định Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa là nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, áp dụng
hình thức chính thể cộng hòa, hình thức cấu trúc nhà nước là
đơn nhất. Nhà nước do nhân dân lập ra. Nhân dân sử dụng
quyền lực thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Tuy nhiên, từ thời kỳ này Quốc hội có quyền lập Hiến và tự
quyết định những công việc quan trọng nhất của đất nước. Hiến
pháp khẳng định trong lời nói đầu: "nhà nước ta là nhà nước
do giai cấp công nhân lãnh đạo".
3. Chế độ chính trị theo Hiến pháp 1980
Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định nhà nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam do nhân dân lập ra, hình thức chính
thể là cộng hoà XHCN, hình thức cấu trúc là nhà nước đơn
nhất, khẳng định nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng

quyền lực thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Hiến pháp năm 1980 quy định rõ về hệ thống chính trị, khẳng
định sự tồn tại duy nhất một Đảng trong hệ thống chính trị,
Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo xã hội, các tổ chức chính
trị - xã hội góp phần thực hiện quyền lực nhà nước.
4. Chế độ chính trị theo Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 khẳng định Nhà nước Cộng hòa XNCH
Việt Nam là sự phát triển kế tiếp của Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa trước đây, hình thức chính thể cộng hòa, hình
thức cấu trúc đơn nhất. Nhà nước do dân lập ra, quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực trực

13


tiếp đối với một số công việc nhất định, và thực hiện gián tiếp
quyền lực thông qua các cơ quan đại diện của mình là Quốc hội
và Hội đồng nhân dân các cấp. Hiến pháp 1992 quy định rõ về
các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị và vị trí của từng
bộ phận cấu thành ấy. Theo đó, Nhà nước là lực lượng trung
tâm để thực hiện quyền lực do nhân dân giao phó, Đảng là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và cả xã hội trong quá trình thực
hiện, các tổ chức chính trị - xã hội có chức năng hỗ trợ, phối
hợp với các cơ quan nhà nước khi thực hiện quyền lực.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn thể xã
hội là tất yếu và chưa thể thay thế trong giai đoạn hiện nay. Bởi
lẽ, Đảng có công rất lớn đối với sự hình thành và phát triển của
Nhà nước hiện nay, Đảng có nhiều ưu việt hơn so với các lực
lượng khác trong xã hội để đảm nhận vai trò lãnh đạo, đồng
thời sự lãnh đạo của Đảng đã là quá trình liên tục từ khi Nhà

nước thành lập đến nay.
5. Chế độ chính trị theo Hiến pháp 2013
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam áp dụng hình thức chính thể cộng hòa,
hình thức cấu trúc đơn nhất. Hiến pháp 2013 nhấn mạnh vai trò
là chủ đất nước của Nhân dân. Nhà nước Cộng hòa XHCN là
nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước
do Nhân dân lập ra, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng hình
thức trực tiếp và gián tiếp thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân
dân và các cơ quan khác của nhà nước. Các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy
phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân. Các Đại biểu Quốc hội,

14


Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể bị bãi nhiệm khi không còn
sự tín nhiệm của Nhân dân.
Hiến pháp 2013 quy định rõ về hệ thống chính trị và các
bộ phận cấu thành. Trong hệ thống chính trị của nước ta: Đảng
Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo; Nhà nước Cộng hoà
xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là trung tâm thực hiện quyền lực;
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
thành viên đóng vai trò hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan nhà
nước khi thực hiện quyền lực.
IV. CHẾ ĐỘ KINH TẾ
Chế độ kinh tế, với tư cách là một chế định của ngành
luật Hiến pháp, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh

các quan hệ kinh tế cơ bản nhất, quan trọng nhất. Đó là các
quan hệ kinh tế có nội dung xác định mục đích, phương hướng
phát triển kinh tế; xác định các hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế; xác định phương pháp quản lý của nhà nước đối với
nền kinh tế.
1. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1946
Do hoàn cảnh, điều kiện lịch sử khi xây dựng bản Hiến
pháp năm 1946 nên quy định về chế dộ kinh tế chưa được quan
tâm trong Hiến pháp 1946. Những nội dung về mục đích,
phương hướng phát triển kinh tế, hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, cũng như nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà
nước về kinh tế chưa được định hình. Hiến pháp 1946 chỉ có đề
cập đến một quyền tư hữu tài sản (Đ.12). Tuy nhiên, qua
nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946, có thể
thấy mục đích của việc phát triển kinh tế là nhằm đem lại ấm
no, hạnh phúc cho người dân như đã được nhắc đến trong tuyên
ngôn độc lập. Phương thức phát triển kinh tế để đạt được mục

15


đích trên chưa được đình hình và quy định rõ. Các hình thức sở
hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất tồn tại, nhiều thành phần
kinh tế tham gia vào hoạt động của nền kinh tế lúc bấy giờ.
Trong đó, các nhà tư sản và người lao động riêng lẻ được phép
hoạt động mãi cho đến giai đoạn về sau khi có Hiến pháp 1959
và Hiến pháp 1980. Trong chế độ kinh tế của Hiến pháp 1959
và Hiếp pháp 1980 có xác định nhiệm vụ phải cải tạo những
thành phần kinh tế này.
2. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1959

Mục đích của phát triển kinh tế là không ngừng phát
triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân. Để đạt được mục đích đó, Hiến pháp 1959 xác
định phương hướng phát triển kinh tế là tiến dần từ chế độ dân
chủ nhân dân lên CNXH bằng cách phát triển và cải tạo nền
kinh tế quốc dân theo CNXH, biến nền kinh tế lạc hậu thành
một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Về các hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, Hiến
pháp 1959 ghi nhận các hình thức sở hữu của nhà nước, tức là
sở hữu toàn dân; sở hữu của hợp tác xã, tức là sở hữu tập thể
của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; và
sở hữu của nhà tư sản dân tộc.
Trên cơ sở ghi nhận các hình thức sở hữu khác nhau đối
với tư liệu sản xuất nêu trên, các thành phần kinh tế chủ yếu
được xác định là: thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần
kinh tế hợp tác xã. Trong đó, thành phần kinh tế quốc doanh
giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được nhà
nước bảo đảm phát triển ưu tiên.
Ngoài hai thành phần cơ bản nói trên, còn có những
người lao động riêng lẻ và các nhà tư sản dân tộc cũng tham gia

16


hoạt động kinh tế. Trong đó, nhà nước khuyến khích và hướng
dẫn các nhà tư sản dân tộc đi theo con đường cải tạo XHCN
bằng hình thức công tư hợp doanh; nhà nước ra sức hướng dẫn
và giúp đỡ những người lao động làm nghề thủ công và những
người lao động triêng lẻ khác cải tiến cách làm ăn và khuyến

khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất và hợp tác xã mua bán
theo nguyên tắc tự nguyện.
Về phương thức quản lý của Nhà nước đối với nền kinh
tế, Hiến pháp 1959 xác định nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh
tế theo một kế hoạch thống nhất.
3. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1980
Về mục đích và phương hướng phát triển kinh tế, Hiến
pháp 1980 xác định mục đích phát triển kinh tế là thoả mãn
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng
của cả xã hội. Để đạt được mục đích nêu trên, Hiến pháp 1980
xác định phương hướng phát triển kinh tế là từ một nền kinh tế
phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xây dựng một xã hội có
kinh tế công- nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ
thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh
và hạnh phúc.
Về các hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất và
thành phần kinh tế, Hiến pháp 1980 xác định chế độ làm chủ
tập thể đối với tư liệu sản xuất, nhà nước tiến hành cách mạng
về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ
sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh
tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc
doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã
thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Trong đó, thành

17


phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế

quốc dân và được phát triển ưu tiên. Nhà nước khuyến khích,
hướng dẫn và giúp đỡ nông dân cá thể, người làm nghề thủ
công và những người lao dộng riêng lẻ khác tiến lên con đường
làm ăn tập thể, tổ chức hợp tác xã sản xuất và các hình thức
hợp tác, tương trợ khác theo nguyên tắc tự nguyện. Những
người buôn bán nhỏ được hướng dẫn và giúp đỡ chuyển dần
sang sản xuất hoặc những nghề thích hợp khác. Những cơ sở
kinh tế của địa chủ phong kiến và tư sản mại bản đều bị quốc
hữu hoá không bồi thường.
Phương pháp quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế,
Hiến pháp 1980 xác định nhà nước quản lý nền kinh tế quốc
dân theo kế hoạch thống nhất, nhà nước giữ độc quyền về ngoại
thương và mọi quan hệ kinh tế khác đối với nước ngoài.
4. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1992
Mục đích phát triển kinh tế là làm cho dân giàu, nước
mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần
của nhân dân. Phương hướng phát triển kinh tế là phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp 1992 xác định chế độ sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các thành phần kinh tế được ghi
nhận gồm có: thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể,
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, thành phần kinh tế
quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những
ngành, lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong
sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

18



Phương pháp quản lý của nhà nước về kinh tế được
Hiến pháp 1992 xác định là nhà nước quản lý nền kinh tế quốc
dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách
nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp;
kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của nhà
nước.
5. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 2013
Mục đích phát triển kinh tế theo Hiến pháp 2013 là làm
cho dân giàu, nước mạnh. Phương hướng phát triển kinh tế để
đạt được mục đích này là phát triển một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước với các đặc
trưng sau: độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác
quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiến pháp 2013 xác định nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước khuyến
khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân,
tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững
các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được
pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.
Hiến pháp 2013 xác định phương pháp quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế là: Nhà nước xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các

quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền

19


trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm
tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.
V. CHẾ ĐỘ VĂN HÓA, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG
NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
Chế độ văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ với tư
cách là một chế định của ngành luật Hiến pháp, là tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản nhất,
quan trọng nhất về văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ.
Những quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất này mang các nội
dung như: xác định mục đích, chính sách phát triển về văn hoá,
giáo dục, khoa học, công nghệ của quốc gia; nguyên tắc quản lý
của nhà nước về văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ.
1. Chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ theo
Hiến pháp 1946
Hiến pháp năm 1946 do điều kiện lịch sử nên chưa có
những quy định riêng và cụ thể về chế độ kinh tế cũng như chế
độ văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ. Trong Hiến pháp
năm 1946 chỉ có đề cập đến việc nền sơ học cưỡng bách và
không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu
số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được
Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo
chương trình nhà nước. Như vậy, Hiến pháp năm 1946 đã cho
thấy, nhà nước thực hiện việc phổ cập giáo dục ở cấp cơ sở, sự
thống nhất quản lý của nhà nước vê giáo dục, cho phép phát
triển các trường tư thục, có chính sách hỗ trợ đối với giáo dục

và người học.
2. Chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ theo
Hiến pháp 1959

20


Hiến pháp năm 1959 cũng chưa quy định về văn hoá,
giáo dục, khoa học và công nghệ thành một chương riêng mà
quy định trong phần quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Hiến pháp năm 1959 xác định công dân có quyền học tập, nhà
nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát
triển dần các trường học và các cơ quan văn hoá, phát triển các
hình thức giáo dục bổ túc văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các
cơ quan xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn,
để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó. Nhà nước chú
trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể
dục. Nhà nước ghi nhận quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng
tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá
khác. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của
những công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, văn học, nghệ
thuật và các sự nghiệp văn hoá khác.
Hiến pháp năm 1959 ngoài việc phát triển giáo dục
cưỡng bách như Hiến pháp năm 1946, còn chú trọng đến phát
triển các cơ quan văn hoá, phát triển khoa học. Nhà nước có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ đối với hoạt động khoa học,
văn hoá.
3. Chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ theo
Hiến pháp 1980
Hiến pháp năm 1980 đã có quy định về văn hoá, giáo

dục, khoa học, kỹ thuật thành một chương riêng. Trong đó đã
xác định rõ mục đích, chính sách phát triển cũng như những
nguyên tắc quản lý nhà nước về văn hoá, giáo dục, khoa học,
kỹ thuật.
Mục đích phát triển văn hoá được xác định là đẩy mạnh
cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng nền văn hoá mới có
nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và

21


tính nhân dân; xây dựng con người có ý thức làm chủ tập thể,
yêu lao động, quý trọng của công, có văn hoá, có kiến thức
khoa học, kỹ thuật, có sức khoẻ, yêu nước và có tinh thần quốc
tế vô sản.
Mục đích phát triển giáo dục được xác định là nhằm đào
tạo có chất lượng những người lao động xã hội chủ nghĩa và
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Để thực hiện được
mục đích đó, nền giáo dục phải không ngừng phát triển và cải
tiến theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao dộng sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Sự nghiệp
giáo dục do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước chăm lo
phát triển cân đối hệ thống giáo dục, hoàn thành thanh toán nạn
mù chữ, tăng cường công tác bổ túc văn hoá, không ngừng
nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp của toàn dân.
Mục đích phát triển khoa học, kỹ thuật nhằm phát triển
lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân
và củng cố quốc phòng, xây dựng nền khoa học, kỹ thuật tiến
tiến. Để thực hiện mục đích nêu trên, nhà nước chăm lo việc

phổ biến và giáo dục khoa học kỹ thuật; gắn liền việc giảng
dạy, nghiên cứu với sản xuất, đời sống và quốc phòng; phát
triển và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa
học, cán bộ và công nhân kỹ thuật; khuyến khích nghiên cứu,
sáng chế, phát minh; chú trọng nghiên cứu ứng dụng; phát huy
tinh thần tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, đồng thời vận
dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật tiên tiến của thế
giới; tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
4. Chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ theo
Hiến pháp 1992

22


Hiến pháp năm 1992 quy định về chế độ văn hoá, giáo
dục, khoa học và công nghệ trong một chương riêng. Trong đó,
xác định rõ mục đích, chính sách phát triển và những nguyên
tắc cơ bản của quản lý nhà nước đối với văn hoá, giáo dục,
khoa học và công nghệ.
Mục đích của phát triển văn hoá, theo Hiến pháp 1992
là bảo tồn và phát triển văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện đại,
nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến
các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài
năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự
nghiệp văn hoá.
Giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu. Mục
đích phát triển giáo dục được Hiến pháp năm 1992 xác định là
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về

mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn
giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. Nhà nước xác
định việc ưu tiên đầu tư cho giáo dục, ưu tiên phát triển giáo
dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt
khó khăn.
Khoa học và công nghệ được xác định đóng vai trò then
chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Mục đích phát triển khoa học, công nghệ nhằm phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng
và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc
phòng, an ninh quốc gia. Nhà nước có những chính sách đầu tư
và khuyến khích tài để phát triển khoa học, công nghệ.
5. Chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, xã hội và
môi trường theo Hiến pháp 2013

23


Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. Nhà nước, xã hội phát triển văn
học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và
lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin
đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước, xã hội
tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn
hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân.
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng

cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà
nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo
dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là
bắt buộc, Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo
dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý. Nhà
nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều
kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và
học nghề.
Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ
chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng
dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm
quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu

24


trí tuệ. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được
thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ.
Về chế độ xã hội, Hiến pháp 2013 ghi nhận: (1) Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc
làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều
kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định; (2)
Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có

chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào dân tộc
thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nhà nước, xã hội và gia đình
có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ, trẻ em,
thực hiện kế hoạch hóa gia đình; (3) Nhà nước, xã hội tôn vinh,
khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công
với nước. Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ
hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có
chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người
nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác. Nhà nước có
chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ
ở.
Về môi trường, đây là quy định mới trong Hiến pháp
2013. Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử
dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo
tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên
tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích mọi
hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng
mới, năng lượng tái tạo. Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi
trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa

25


×