Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.18 KB, 15 trang )

Phân tích nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức
Mục lục
I.Cơ sở lý luận
1.Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa
2.Nền kinh tế tri thức
Khái niệm
Vai trò
Đặc trưng
II.Định hướng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tê
tri thức
1.Vì sao phải gắn CNH HĐH với phát triển kinh tế tri thức
2.Nội dung định hướng
III.Đẩy mạnh CNH HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay


Nội dung bài làm:
I.Cơ sở lý luận
1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa X, công nghiệp hóa là quá
trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh
tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào lao động kết
hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để
tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các
ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao
động, về giá trị gia tăng, v.v..Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một
cộng đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền
công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của
quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công
nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn.


2. Nền kinh tế tri thức
a.Khái niệm
Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri
thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu
quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông – lâm – ngư
nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế.Từ đó, nền kinh tế tri thức được
hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và
sử dụng tri thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao.
Kinh tế tri thức còn được hiểu là một loại môi trường kinh tế-kỹ thuật, văn hóa-xã
hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới
và sáng tạo.Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan
trọng nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội.


Theo cách hiểu này, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không phải
chỉ đơn thuần là việc phát triển khoa học-công nghệ cao mà là việc phát triển một
nền văn hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những thuận lợi cho việc sản xuất, khai
thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của nhân loại.
b. Vai trò
• Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển
chưa từng thấy của nhân loại.Kinh tế tri thức ngày càng trở nên quan trọng
trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để
rút ngắn khoảng cách lạc hậu.Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các
tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được
tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao
động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới,…có thể trước đây chưa
từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu
xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các ngường tài nguyên
hiện hữu.
• Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất

và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về
chiều

rộng

lẫn

chiều

sâu.

Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử
dụng công nghệ cao, từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển
của toàn bộ nền kinh tế.Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh thông qua
các cuộc cách mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học…; thúc đẩy công
nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học-kỹ thuật, công nghệ trong
sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của
sản phẩm công nghiệp;thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ,
thông tin, thương mại, tiền tệ,…với nhiều hình thức phong phú; thúc đẩy
việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn.


c. Đặc trưng
Theo tiến sĩ Đặng Ngọc Dinh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược
(Bộ Khoa học và Công nghệ) thì nền kinh tế tri thức có 5 đặc trưng nổi bật:







Vai trò quan trọng của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Thời gian để tiến hành công nghiệp hóa được rút ngắn
Nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được tri thức hóa
Cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã hội thay đổi cơ bản

Còn theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng
Ban Khoa giáo Trung ương thì tri thức, thông tin, công nghệ luôn có vai trò thúc
đẩy phát triển sản xuất và vai trò ấy tăng dần cùng với quá trình phát triển. Nền
kinh tế tri thức có 10 đặc trưng chủ yếu:
• Thứ nhất là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Trong 15 năm qua, các nền
kinh tế phát triển trên thế giới đã có những chuyển đổi to lớn, sâu sắc về
cơ cấu kinh tế, về cách thức hoạt động và các qui tắc hoạt động; đang
phát triển nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức; các ý tưởng đổi mới
và công nghệ là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất
lượng cuộc sống.
• Thứ hai là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng
nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành
kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát
triển. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có nhiều
doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri
thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không còn phân
biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó
là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.
• Thứ ba là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực
và thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu


hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng

nhất. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào các kho
thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có
tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền
kinh tế số hay kinh tế mạng.
• Thứ tư là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển.
Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh
hơn, thì công ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác
ngay, nếu không muốn bị phá sản.
• Thứ năm là xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ
dàng truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và
tổ chức điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng có
thể được thông tin kịp thời về các quyết định của cơ quan Nhà nước
hoặc tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến ngay nếu thấy
không phù hợp.
• Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển.
Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập bất cứ lúc
nào, ở bất cứ đâu. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học
tập suốt đời.
• Thứ bảy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là
nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải như các nguồn lực
khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ và
trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế tri thức do đó là một
nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm.
• Thứ tám, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất
thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công
nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một


lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng.

Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới
công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới.
• Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và
sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào
cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới. Quá trình toàn
cầu hoá cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá
và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh
đôi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
• Thứ mười là sự thách thức đối với văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức
bùng nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động
văn hoá phong phú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức văn hoá của người
dân cũng tăng cao. Nhờ các phương tiện truyền thông tức thời, nhất là
Internet, một sáng tác ra đời tức thời lan truyền đến mọi nơi trên thế
giới. Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn
hoá có thể tiếp thu các tinh hoa của nhân loại để phát triển nền văn hoá
của mình. Nhưng mặt khác các nền văn hoá đứng trước những rủi ro rất
lớn: bị pha tạp, dễ mất bản sắc, dễ bị các sản phẩm văn hoá độc hại tấn
công phá hoại, mà rất khó ngăn chặn. Nền văn hoá bị pha tạp lai căng
không còn là chính mình nữa thì sẽ suy thoái, tiêu tan. Nhiệm vụ gìn giữ,
phát huy bản sắc văn hoá mỗi dân tộc trở nên rất nặng nề. Cái chính là
phải giáo dục truyền thống, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng
và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có đủ sức
mạnh nội sinh.


II.Định hướng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức
1.Vì sao phải kết hợp công nghiệp hóa hiện đại hóa với phát triển kinh
tế tri thức

Ở nước ta, sau 25 năm đổi mới, với đường lối phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đã
đạt những thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng khá; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ, công bằng xã hội; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy,
kinh tế phát triển chưa bền vững ;chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước. Nền kinh tế
chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên và lao động, giá trị do tri thức tạo ra không đáng
kể; chưa khơi dậy và phát huy tối đa năng lực sang tạo của con người; nền kinh tế
còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không bền vững, đặc biệt đang có nguy cơ
tụt hậu xa hơn so với các nước khác.
Bởi vậy, để tiếp tục đưa đất nước phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế, việc chuyển nền kinh tế sang hướng phát triển dựa vào tri thức
trở thành yêu cầu cấp thiết, không thể trì hoãn.
Báo cáo chính trị tại Đại Hội X của Đảng đã chỉ ra: "Tranh thủ cơ hội thuận
lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi
KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp
việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của
nhân loại."
Trong dự thảo dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình


công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh
năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển
nhanh, bền vững của đất nước”
2.Nội dung của phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức

a)Đẩy mạnh CNH HĐH nông nghiệp và nông thôn
• Hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới đa dạng
sản phẩm hàng hóa, tỷ suất hàng hóa, chất lượng, năng suất và khả
năng cạnh tranh cao, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa
phương.
• Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ
trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công
nghiệp và dịch vụ.
• Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp, phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng
chuyên hóa tập trung. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội ở nông thôn. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn phù hợp
với điều kiện của từng vùng.
• Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất và đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Xây dựng nông thôn mới theo hướng dân chủ, công bằng, nông dân
có cuộc sống no đủ, có đời sống văn hóa lành mạnh, có môi trường
sạch.
b)Thứ hai, phát triển kinh tế vùng


• Đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tập trung phát triển trước hết một số vùng có
khả năng tăng trưởng mạnh nhất, tạo động lực lan tỏa đến các vùng khác
trong nước.
• Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát
triển tổng thể của cả nước và tạo các mối liên kết kinh tế cơ bản giữa các
vùng và trong nội bộ từng vùng trên cơ sở phân công lao động, đưa vào lợi
thế phát triển của mỗi vùng.
• Cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự

nhiên cho phép tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập... Đồng thời, có cơ chế
chính sách để tạo điều kiện cho các vùng còn nhiều khó khăn phát huy được
tiềm năng của mình để phát triển nhanh, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo,
các vùng Tây Nguyên Tây Nam và Tây Bắc.
c) Thứ ba, phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng và dịch vụ
• Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác,
công nghiệp phần mềm, công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo
nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Phát triển một số
khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
• Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát
triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên
thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
• Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước để xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng
lượng. Hoàn chỉnh một bước cơ bản mạng lưới giao thông, thủy lợi, cấp
thoát nước... Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn
thông.


• Phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ.Phát triển nhanh khu vực dịch vụ
đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta
và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập
kinh tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ
tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
• Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh
cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền
thống, mở mang các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ

có hàm lượng trí tuệ cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện đại hóa và
mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường
tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế.
• Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh
bình

đẳng

trên

thị

trường

dịch

vụ.

d) Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu
cầu phát triển
• Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá trình
CNH,

HĐH

rút

ngắn.


Điều

này

thể

hiện

như

sau:

+ Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để
đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế thành
công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
+ Đây là cách thức đúng đắn để đạt mục tiêu phát triển con người.
+ Phát triển nguồn nhân lực chính là tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp cận
và phát triển kinh tế tri thức.
• Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là một
nội dung trung tâm của phát triển bền vững và của quá trình hiện đại hóa.


Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát triển
con người và hiện đại hóa khâu giáo dục, đào tạo. Ở đây, phát triển con
người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung tâm. Ở nước ta
hiện nay, giáo dục, đào tạo còn lạc hậu và chưa thích ứng với việc hình
thành nguồn nhân lực của quá trình hiện đại hóa. Do đó, hiện đại hóa
giáo dục, đào tạo chứ không chỉ dừng ở cải cách là một vấn đề trọng tâm,
mang tính tiên quyết của quá trình hiện đại hóa. Gắn với quá trình hiện
đại hóa giáo dục, đào tạo, việc đầu tư cho giáo dục đào tạo trong mối

quan hệ với hiện đại hóa nguồn nhân lực, được xem là đầu tư cho sản
xuất, thuộc “ngành công nghiệp nặng” và là đầu tư mang tính hiệu quả
nhất.
• Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của
cách mạng khoa học và công nghệ. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ
hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ
nền kinh tế. Đồng thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử
dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.Trong vấn đề này, có ba điểm
nhấn quan trọng.
1. Phát triển khoa học tự nhiên và công nghệ. Phát huy những năng lực
nội sinh đi đôi với tiếp thu, làm chủ, ứng dụng thành tựu khoa học và
công nghệ thế giới. Phát triển các công nghệ cao, công nghệ thông tin,
viễn thông, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa và sản xuất các dạng năng
lượng mới. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công
nghệ.
2. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước
đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia đạt trình độ khu vực và


thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực
trọng điểm; xóa bỏ cơ chế hành chính bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ,
tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Huy động các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho
khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa
học và công nghệ. Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của các
sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ
trong các doanh nghiệp.
3. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, các
nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên
lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút,

trọng dụng các nhà khoa học, công nghệ tài giỏi ở trong nước và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.
III.Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
hiện nay
Vấn đề đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đã được Đại hội X
của Đảng đề cấp. Trong Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển và cụ thể hoá
thêm một bước “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng cơ cấu kinh
tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ…Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên
tiến của thế giới”
Thực ra, từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX cho tới nay, khoa học và công
nghệ đã có những bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là sự bùng nổ và sự hội tụ của
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô, đúng như những tiên


đoán của C. Mác và Ph. Ăngghen từ giữa thế kỷ XIX, “tri thức sẽ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp”; “giá trị của lao động cơ bắp trong sản phẩm làm ra sẽ
giảm còn cực nhỏ”; “lực lượng sản xuất tinh thần”; “sự xuất hiện công nhân khoa
học”... thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi từ kinh tế công nghiệp sang KTTT.
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta thực chất là vận dụng tri thức mới, công
nghệ mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị gia tăng của sản
phẩm; giảm thiểu tiêu hao nguyên liệu và lao động; tăng hiệu quả sản xuất và chất
lượng sản phẩm; dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá. Giải
pháp có tính đột phá cho thành công của chiến lược này là giải phóng các nguồn
lực, quan trong nhất là nguồn lực con người, phát huy năng lực sáng tạo đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN. Bởi, sáng tạo và đổi mới là
động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, là năng lực nội sinh của nền KTTT ngày

nay.
Là một nước nông nghiệp đi lên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, để phát triển
nền KTTT cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình: quá trình chuyển từ
kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và quá trình chuyển từ kinh tế nôngcông nghiệp lên KTTT trong điều kiện chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá, từ tập
trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đây là cả một sự nghiệp
vô cùng khó khăn. Trong khi đối với các nước đi trước đó là hai quá trình kế tiếp
nhau. Nền kinh tế Việt nam do đó phải theo theo mô hình kinh tế hai tốc độ, kết
hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt tận dụng lao
động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản
xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập. Mặt khác đi thẳng vào hiện đại ở những khâu,
những lĩnh vực, những ngành có lợi thế, phát triển các ngành, các vùng kinh tế mũi
nhọn tạo thành đầu tàu có sức kéo lôi mạnh toàn bộ nền kinh tế đi lên1[6].

1


Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ
trung gian để đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ thuộc
vào cơ sở hạ tầng đã có. Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa vào tri thức, nhất là
công nghệ thông tin, Việt Nam có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá lên trước.
Nhiệm vụ trung tâm là sử dụng tri thức mới, công nghệ mới của thời đại kết
hợp với sáng tạo tri thức mới, công nghệ mới để nhanh chong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ hàm lượng tri
thức cao, giá trị gia tăng cao. Đây chính là yêu cầu và nội dung của công cuộc
CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển KTTT ở nước ta đòi hỏi tiến hành một cuộc đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện, sâu sắc hơn nữa - một cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó
trọng tâm là: Đổi mới tư duy và cách thức phát triển kinh tế: đổi mới giáo dục đào
tạo; đổi mới các hoạt động khoa học và công nghệ; đổi mới thể chế, chính sách và
cơ chế quản lý…

Trong tổng thế những nội dung đổi mới toàn diện, cần tập trung trọng tâm
vào việc nhận thức lại và thực hiện đúng chức năng, vai trò của nhà nước đối với
phát triển kinh tế, từ điều khiển, chỉ huy sang là “kiến trúc sư” của nền KTTT, định
hướng phát triển, tạo môi trường thuận
Tài liệu tham khảo
www.ajc.edu.vn
Tạp chí thông tin công tác tư tưởng
www.thanhnien.com.vn




×