Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Hình a j nhóm a và b là vợ chồng trước khi cưới, b đã có người yêu nhưng do gia đình ép gả nên phải lấy a vì thế, dù đã có chồng nhưng b vẫn nói dối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.68 KB, 8 trang )

ĐỀ BÀI
A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu nhưng do gia đình ép
gả nên phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn nói dối A là đi bệnh viện để
lén gặp C (người yêu cũ) và thuê nhà sống với nhau như vợ chồng nhiều lần mỗi
lần vài ngày. Biết chuyện, hai bên gia đình đã khuyên B chấm dứt quan hệ với C
nhưng B vẫn lén lút quan hệ với C nhiều lần nữa nên A rất tức giận. Một hôm B lại
lấy lý do đi khám bệnh nhưng thực tế là hẹn hò với C. A không tin nên chạy ra
đường cách nhà 200 mét thì thấy một thanh niên đang ngồi trên xe máy (xe có biển
kiểm soát trùng với biển kiểm soát của C mà A được thông báo). Quá tức giận kẻ
đã quyến rũ vợ mình, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm
phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy (mà A nghĩ là C) khi thấy
nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi. Giám định Pháp y kết luận: nạn nhân chết
do bị đánh vỡ đầu. Khi kiểm tra chứng minh thư của nạn nhân thì mới biết nạn
nhân không phải là C mà là H bạn của C. Do không biết mặt C nên A đã đánh
nhầm người. Lúc đó, C đang mua thuốc lá gần đó.
Hỏi:
1. Định tội cho hành vi của A trong vụ án trên? (2 điểm)
2. Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người H với
ý thức “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ
thương tật là 45 %) thì tội danh của A là gì? Tại sao? Nếu thực tế H bị chết thì tội
danh của A là gì? Tại sao? (2 điểm)
3. Có ý kiến cho rằng A phạm hai tội; Thứ nhất: Tội vô ý làm chết người
(đối với H) vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối
tượng; Thứ hai: Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn
giết nhưng C đã không bị chết. Anh (chị) hãy phân tích ý kiến này là đúng hay sai
và giải thích rõ tại sao? (3 điểm).


BÀI LÀM
I. Mở bài:
Quyền nhân thân là một trong những quyền đặc biệt quan trọng, nó gắn liền


với mỗi cá nhân và được pháp luật bảo vệ nghiêm ngặt. Trước những hành vi xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người, pháp luật hình sự đã có những qui
định cụ thể cùng những hình phạt nghiêm khắc để đảm bảo an toàn tính mạng cho
mỗi cá nhân cũng như đảm bảo an ninh xã hội, phát triển ổn định đất nước.

-

II. Nội dung:
1. Định tội cho hành vi của A trong vụ án trên?
Tội của A là tội giết người, bởi lẽ:
*Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội giết người là hành
vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Hành vi tước đoạt tính mạng
người khác được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm
dứt sự sống của họ. “ A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm
phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy (mà A nghĩ là C) khi thấy
nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi. Giám định Pháp y kết luận: nạn nhân
chết do bị đánh vỡ đầu.”
Đối tượng của hành vi tước đoạt tính mạng chỉ có thể là con người đang
sống. Ở đây nạn nhân H hoàn toàn còn sống trước khi A có hành vi tước đi mạng

-

sống do nhầm lẫn
Hậu quả của tội phạm: Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội
giết người là hậu quả chết người. Ở đây thì nạn nhân H đã chết, như vậy là tội

-

phạm đã hoàn thành

Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người:
Về nguyên tắc, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do chính hành vi của mình gây ra. Ở đây hậu quả chết người đã


được giám định pháp y là do bị đánh vỡ đầu bởi hành vi cầm khúc gỗ phang mạnh
vào đầu H ( Do nhầm lẫn với C)
-

*Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội: Lỗi của A ở đây là lỗi cố ý trực tiếp. Khi A phang mạnh
nhiều phát vào đầu H (do nhầm lẫn là C) thì A rõ ràng thấy trước hậu quả chết
người có thể xảy ra ( phang vào đầu là một vùng rất nguy hiểm, ví dụ như vụt vài
cái vào lưng thì rõ ràng hậu quả chết người khó lòng xảy ra được) nhưng vì mong
muốn thấy hậu quả đó nên A đã thực hiện hành vi phạm tội của mình.
2. Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người
H với ý thức “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Nếu thực tế H chỉ bị
thương tích (tỉ lệ thương tật là 45 %) thì tội danh của A là gì? Tại sao? Nếu
thực tế H bị chết thì tội danh của A là gì? Tại sao?
Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người H với ý
thức “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ
thương tật là 45%)thì tội danh của A là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được
quy định tại điều 105-BLHS. Xét về bản chất, đây là trường hợp phạm tội có tình
tiết giảm nhẹ đặc biệt TNHS của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác. Ở đây A đã thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh do tuy A và B là vợ chồng nhưng B vẫn nói dối A là đi
bệnh viện để lén gặp C (người yêu cũ và thuê nhà sống với nhau như vợ chồng
nhiều lần mỗi lần vài ngày. Một hôm B lại lấy lý do đi khám bệnh nhưng thực tế là
hẹn hò với C. A không tin nên chạy ra đường cách nhà 200m thì thấy một thanh

niên đang ngồi trên xe máy ( xe có biển kiểm soát trùng với biển kiểm soát của C
mà A được thông báo). Qúa tức giận kẻ đã quyến rũ vợ mình, A nhặt một khúc gỗ
bên lề đường to bằng cổ tay ,dài 60cm phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi
trên xe máy(mà A nghĩ là C) khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi . Như


vậy, căn cứ vào điều 105 BLHS xét thấy trường hợp phạm tội của A thuộc khoản
1: “người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
mà tỉ lệ thương tật từ 31%-60%trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do
hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân
thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm” giả thiết cho rằng nếu thực tế H chỉ bị
thương tích (tỉ lệ thương tật là 45%) thì tội danh của A là tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh được quy định tại khoản 1 Điều 105-BLHS.
Nếu thực tế H bị chết thì tội danh của A là tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh được quy định tại điều 95-BLHS. Căn cứ vào khoản 1
Điều 95 BLHS: “ người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh do hành vi trái pháp lụât của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người
thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.Thực tế cho thấy
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp đặc biệt
của tội giết người. Người phạm tội( A) trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, không hoàn toàn tự chủ được, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình.
Đồng thời trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là do hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của C (mà A đã nhầm là H) đối với vợ của A. Hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của C là chuỗi những hành vi khác nhau có tính lặp đi
lặp lại trong suốt thời gian dài cụ thể đó là hành vi lén lút quan hệ với vợ của A
nhiều lần và liên tiếp tác động đến tinh thần A làm A rất tức giận ,khiến A bị dồn
nén. Đến khi A thấy một người thanh niên đang ngồi trên xe máy cách nhà 200m
đợi đón vợ mình thì trạng thái tinh thần của A bị đẩy đến cao độ và A lâm vào trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến hành vi nhặt một khúc gỗ bên lề đường to
bằng cổ tay phang mạnh mấy nhát vào người ngồi trên xe máy( mà A nghĩ là C )
khiến H chết.


3. Có ý kiến cho rằng A phạm hai tội: Thứ nhất: Tội vô ý làm chết
người (đối với H) vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm
về đối tượng; Thứ hai: Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người
mà A muốn giết nhưng C đã không bị chết. Anh (chị) hãy phân tích ý kiến này
là đúng hay sai và giải thích rõ tại sao?
*Thứ nhất: A giết nhầm H không phải là tội vô ý giết người.
Điều 10 BLHS quy định: “Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường
hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn
ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”
Đối chiếu với hành vi của A thì A đã lấy hung khí là một khúc gỗ to bằng cổ
tay, dài 60 cm phang mạnh mấy nhát vào đầu H (mà A tưởng H là C). Rõ ràng A
nhận thức được hành vi của mình là gây nguy hại cho xã hội, mà cụ thể ở đây là
làm H chết nhưng vẫn cố tình vi phạm. Như vậy A giết nhầm H không phải là tội
vô ý giết người. Việc xét một hành động giết người là vô ý hay cố ý không phải
dựa vào đối tượng người bị hại là ai mà dựa vào sự nhận thức của người phạm tội
đối với hành vi mà mình gây ra cho xã hội và thấy trước được hậu quả của hành vi
do mình gây ra.
Điều 9 BLHS quy định: “Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp
sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.”
Theo như Điều 9 BLHS thì hành vi của A phạm vào tội cố ý giết người.


*Thứ hai: Tội giết người của A không phải là giết người chưa đạt. Không
thể lập luận rằng vì C mới là người mà A muốn giết nhưng C không chết thì tội
danh của A là giết người chưa đạt.
Điều 18 BLHS quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm
nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội”
Theo luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội
chưa đạt.
Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây là
dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này thể
hiện ở chỗ: Người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong
CTTP. Ví dụ: Kẻ giết người đã thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác
(như đã đâm, đã bắn, đã chém) là hành vi được mô tả trong CTTP tội giết người
(Điều 93 BLHS). Cũng được coi là đã bắt đầu thực hiện tội phạm nếu người phạm
tội đã thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Đó là những hành
vi (xét về khách quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt đầu của hành vi khách quan
và kế tiếp ngay sau đó là hành vi khách quan sẽ xảy ra. Ví dụ: Hành vi nhặt dao để
đâm, lắp đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là những hành
vi đi liền trước.
Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng
(về mặt pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc
mặt khách quan) của CTTP. Những trường hợp hành vi phạm tội chưa thỏa mãn
hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của CTTP có thể xảy ra ở một trong
những dạng dưới đây:

- Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện
“hành vi đi liền trước”. Ví dụ: Kẻ giêt người mới nhặt dao để đâm thì đã bị bắt giữ;


- Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả
của tội phạm. Ví dụ: Kẻ giết người đã đâm được nạn nhân nhưng nạn nhân không
chết;
- Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện hết.
Ví dụ: Kẻ hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện được việc
giao cấu thì đã bị bắt giữ;
- Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả với hành
vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện.
Dấu hiệu thứ ba: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng
là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn
muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do:
- Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại được hoặc đã tránh được;
- Người khác đã ngăn chặn được;
- Có những trở ngại khác (như bắn nhưng đạn không nổ, thuốc đầu độc dùng
để đầu độc nhưng không đủ liều lượng…)
Như vậy, căn cứ vào những điều đã phân tích trên đây, thì việc A không giết
được C mà giết nhầm H không phải là giết người chưa đạt vì không thỏa mãn một
trong các các dấu hiệu đã nêu. A dùng gậy đánh H kết quả làm H chết thì trường
hợp phạm tội của A là giết người đã hoàn thành chứ không phải là giết người chưa
đạt nữa. Bởi vì, khi việc giết người đã hoàn thành thì không phụ thuộc vào việc A
đã đạt được mục đích của mình là giết C hay chưa. Nói A giết người đã hoàn thành
là hoàn thành về mặt pháp lí – tức đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP tội giết
người. Hơn nữa, tôi giết người là tội có CTTP vật chất nên tội này hoàn thành khi
có hậu quả chết nguời xảy ra.
Như vậy, ta kết luận lại là A phạm tội cố ý giết người và tội giết người của A
là tội phạm đã hoàn thành. Vậy ý kiến mà đề bài nêu ra là sai.

III. Kết luận:


Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật
hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe của con người đều phải chịu những hình phạt thích đáng trước
pháp luật.
Có thể nói, việc tước đi tính mạng của người khác dù vô tình hay cố ý đều
gây nguy hiểm và để lại hậu quả lớn cho xã hội. Chính bởi vậy, đứng trước một
tình huống cụ thể, để có một bản án thỏa đáng nhất cho gia đình nạn nhân cũng
như người phạm tội, các cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền xét xử cần có
những phân tích, đánh giá kĩ lưỡng để đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, thể
hiện sự công bằng của pháp luật và tạo dựng một xã hội bình yên, hạnh phúc.



×