Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đánh giá quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 8 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.21 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Trong thực tế, không chỉ hành vi của con người mà có những sự vật cũng
luôn luôn tiềm ẩn trong đó khả năng gây ra thiệt hại cho thế giới xung
quanh. Nguồn nguy hiểm cao độ là một dạng sự vật như vậy, mà hơn thế,
mối nguy hiểm mà nó tạo ra con người không thể nào kiểm soát được. Câu
hỏi được đặt ra rằng, khi tài sản nói chung hay nguồn nguy hiểm cao độ nói
riêng gây ra thiệt hại thì quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị thiệt
hại được bảo vệ và bù đắp ra sao, cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thuộc về ai? Và pháp luật của nhà nước ta về các qui định về bồi thường
thiệt hại do nguồn cao độ gây ra như thề nào?
Nhận thức được vấn đề trên, bài tiểu luận của em sau đây xin phép được
đi sâu nghiên cứu về đề tài: “Đánh giá quy định của bộ luật dân sự năm
2005 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”.
NỘI DUNG
I. Một số khái niệm cơ bản :
* Bồi thường thiệt hại : là sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù
đắp tổn thất cho người khác.
* Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : BTTH do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu
hay chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đó không có lỗi.
* Nguồn nguy hiểm cao độ : là những vật chất nhất định do pháp luật quy
định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể
kiểm soát được một cách tuyệt đối. Khoản 1 điều 623 Bộ luật dân sự(BLDS)
2005 có nêu : “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông
vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ
1


khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy


hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. Theo quy định này, nguồn nguy
hiểm cao độ là những vật, thú dữ… có tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại
mà không phải bao giờ con người cũng có thể lường trước được và ngăn
chặn.
II. Đặc điểm của trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm pháp lý
thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng. Ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp
lý nói chung, trách nhiệm BTHH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra còn có
những đặc điểm riêng sau đây :
1. Cơ sở pháp :

Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách
nhiệm dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, được quy định
trong (BLDS) 2005 tại điều 623 và tại Mục III Nghị quyết 03/2006/NQHĐTP của Hội đồng Tòa án Nhân dân Tối cao về hướng dẫn áp dụng một
số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng và các văn bản pháp
luật khác có liên quan.
2. Về chủ thể phải BTTH :

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu (mượn,
thuê…), sử dụng (giao ô tô cho lái xe theo hợp đồng với chủ sở hữu) thì
những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, những
thỏa thuận này không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức của xã hội.
2


3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra :


*) Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật do chính nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra :
Việc gây thiệt hại trái phát luật là những thiệt hại do sự hoạt động của
nguồn nguy hiểm cao độ tạo ra, pháp luật không cho phép. Những thiệt hại
về tài sản của các tổ chức, của nhà nước ; những thiệt hại về tài sản, sức
khỏe, tính mạng của cá nhân là nhóm khách thể được pháp luật bảo vệ.
Những thiệt hại về quyền, lợi ích chính đáng của chủ thể trong xã hội do
chính sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường của các chủ thể có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ
đó. Ngay ở tên của điều 623 BLDS “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra” đã cho thấy thiệt hại ở đây là do chính nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, do những hoạt động chủ quan nội tại của nguồn nguy
hiểm đó dẫn đến thiệt hại, nếu thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao
độ mà không phải do tự thân nguồn nguy hiểm đó gây thiệt hại thì trách
nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không phát sinh mà đây là
trách nhiệm BTTH thông thường. Ta có thể thấy một số ví dụ về hoạt động
tự thân nguồn nguy hiểm cao độ như xe ô tô đang đi trên đường thì bị mất
phanh, cần cẩu đang bốc dỡ hàng thì bị gãy trục… Cũng phải nhìn nhận rằng
để phát sinh trách nhiệm trên , nguồn nguy hiểm cao độ phải đang ở trạng
thái “đang hoạt động”, vì khi ở trạng thái hoạt động, vận hành thì nguồn
nguy hiểm cao độ mới có khả năng gây thiệt hại do những hoạt động nội tại.
Ví dụ như một chiếc ô tô đang để trong gara (không hoạt động) bị đứt phanh
với cũng chiếc ô tô ấy bị đứt phanh trên đường đi thì ở trường hợp sau mức
độ nguy hiểm mà ô tô gây ra sẽ là rất lớn, còn mức độ nguy hiểm ở trường
hợp trước gần như bằng không.
3


*) Có thiệt hại xảy ra :

Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một loại
trách nhiệm BTTH, và vì vậy thiệt hại xảy ra được coi là điều kiện tiên
quyết để phát sinh trách nhiệm BTTH. Nếu không có thiệt hại xảy ra thì sẽ
không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Tuy cũng là một loại trách nhiệm
BTTH nhưng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có điểm
khác so với trách nhiệm BTTH chung, đó là không có trách nhiệm bồi
thường liên quan đến danh dự, nhân phẩm, vì nguồn nguy hiểm gây thiệt hại
là do hoạt động của chúng, do vậy những thiệt hại gây ra chỉ có thể là tài
sản, sức khỏe hay tính mạng. Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy
hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm
hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao
độ… Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được
đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung
quanh”, là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc
sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được
bồi thường cho những người này.
*) Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ
và thiệt hại xảy ra :
Quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy
ra phải mang tính chặt chẽ, hoạt động của nguồn nguy hiểm là nguyên nhân
trực tiếp gây thiệt hai, không có yếu tố lỗi của con người. Mối quan hệ nhân
quả này chính là cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ.
*) Về điều kiện lỗi trong trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra không đặt ra bởi đây là trách nhiệm pháp lý đặc biệt, vẫn phát sinh
khi có đủ 3 điều kiện ở trên mà không cần yếu tố lỗi, và chủ sở hữu, người
4


được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi

thường cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp quy định tại khoản 3 điều
623 BLDS : “ a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt
hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

III. Những quy định của pháp luật hiện hành về BTTH do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra :
1. Các quy định của pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ :
Đoạn 1 khoản 1 điều 623 BLDS không đưa ra một định nghĩa khái quát
về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ có quy định mang tính liệt kê như gồm
các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động… Khái niệm cụ thể của các loại nguồn nguy hiểm
trên được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, như
Luật Giao thông đường bộ 2008, Bộ Luật Hàng hải 2005, Luật Điện lực…
Do không mang tính khái quát nên điều 623 còn đề cập đến “nguồn nguy
hiểm cao độ khác” do pháp luật quy định. Đây là quy định mang tính mở của
pháp luật, vì nguồn nguy hiểm cao độ trên thực tế rất đa dạng, khó có thể liệt
kê hết được. Ở đây, theo điều 623 BLDS chúng ta có thể hiểu nguồn nguy
hiểm cao độ là những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản
xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại
cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó thể
hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ
gây thiệt hại. Trên thực tế có những sự vật chưa được pháp luật quy định là
nguồn nguy hiểm cao độ mặc dù có đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ
là ẩn chứa nguy cơ gây thiệt hại khi hoạt động, ví dụ như xe đạp điện, xe
máy có dung tích xi lanh nhỏ hơn 50cm3, các loài ong độc, rắn độc… Theo
đó, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không
5



ngoài căn cứ vào các quy định của pháp luật thì cũng cần căn cứ vào tính
chất, mức độ nguy hiểm của vật đó.
Ở đoạn 2 khoản 1 điều 623 BLDS quy định : “Chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận
chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp
luật.”, do tính chất tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao
độ, quy định này đòi hỏi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuyệt đối
tuân thủ các quy định của pháp luật trong từng trường hợp, điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể.
2. Các dấu hiệu để xác định nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại :
Căn cứ quy định tại điều 623, trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu:
Một là, những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang
trong tình trạng vận hành, hoạt động, ví dụ như nhà máy công nghiệp đang
sản xuất, hệ thống tải điện đang cung cấp điện… vì nguồn nguy hiểm cao độ
không hoạt động , không vận hành thì không có khả năng gây thiệt hại.
Hai là, phải có thiệt hại thực sự xảy ra do chính sự tác động của bản thân
nguồn nguy hiểm cao độ. Việc xác định nguyên nhân gây thiệt hại là do hành
vi có lỗi của con người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc xác định trách nhiệm BTTH, vì trách nhiệm
được áp dụng trong hai trường hợp này là hoàn toàn khác nhau.
3. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm của chủ thể trong BTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :

*) Trường hợp chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ :
6


Khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ, trước tiên phải nghĩ

đến nghĩa vụ của chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ trong việc
tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại, vì vậy,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước hết
được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được
trách nhiệm thuộc về người khác. Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực
tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, căn cứ khoản khoản 2
Điều 623 BLDS 2005 cũng như khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật cho người
khác, áp dụng quy định tại khoản 2 điều 623 BLDS và khoản b điều 2 Mục
III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
03/2006/NQ-HĐTP, những người được chuyển giao quyền phải chịu trách
nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa
thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc nhằm trốn tránh việc
bồi thường.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao quyền
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng thực tế
vẫn là người khai thác công dụng, hưởng lợi từ tài sản đó mang lại, như
trong trường hợp công ty vận tải chuyển giao xe cho các tài xế thuộc biên
chế của công ty để thực hiện công việc, do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm
đã được chủ sở hữu giao cho người khác thì cần phải xác định trong trường
hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai là
người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản đ Điều 2
7



Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
03/2006/NQ-HĐTP. Trong trường hợp này nếu lái xe gây thiệt hại trong lúc
thực hiện nhiệm vụ do công ty giao thì công ty vận tải ở đây là chủ thể phải
chịu trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (chiếc xe), còn
nếu lái xe gây thiệt hại không liên quan đến nhiệm vụ được giao thì lái xe
phải chịu trách nhiệm BTTH theo điều 623 BLDS.
Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự
chuyển giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và thông
qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn... thì khi có thiệt hại xảy ra
trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì
căn cứ khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP, thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường. Bởi khi chuyển giao
nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu đã biết trước tính nguy hiểm mà tài sản
của mình có thể gây ra, đồng thời, về ý chí, chủ sở hữu hoàn toàn nhận thức
được việc chuyển giao là trái pháp luật.
*) Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp
thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại :
Lại nhắc lại về điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, thiệt hại xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả với sự
hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ, tuy nhiên trong trường hợp
tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hay do lỗi cố ý của người bị hại thì
thiệt hại xảy ra hoàn toàn không bắt nguồn từ hoạt động của nguồn nguy
hiểm cao độ. Do đó, theo khoản 3 điều 623 và khoản c điều 2 Mục III Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQHĐTP, trong trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong
tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt
8



hại, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp
nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại
*) Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật :
Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005 ví
dụ như: chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch
dân sự vi phạm các điều kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS 2005; nguồn
nguy hiểm cao độ có được do trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài
sản khác; ... Khi nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật, khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 và khoản d Điều 2 Mục III Nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP
quy định thành hai trường hợp sau :
Thứ nhất, “ người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ
sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có
lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật ( đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật ).” Như vậy, nếu
nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp
luật bao gồm trộm, cướp hoặc các hình thức chiếm đoạt tài sản khác ví dụ
như xe máy có được do trộm cắp, tàu thuyền cướp được ... thì khi có thiệt
hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ hai, “ khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm
cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường
thiệt hại.” Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực
9



hiện đúng các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ dẫn đến việc nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật thì cũng phải chịu một phần trách nhiệm trong việc
BTTH do nguồn nguy hiểm bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây ra.
4. Ý nghĩa pháp lý của quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra :

Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách
nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của
con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn
tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu
nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo
đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có
trách nhiệm bồi thường. Việc pháp luật ghi nhận điều luật này buộc chủ sở
hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng đúng pháp luật nguồn
nguy hiểm cao độ phải có ý thức, trách nhiệm trong quá trình quản lý, sử
dụng, bảo quản, vận hành các nguồn nguy hiểm cao độ này, nhằm hạn chế
đến mức thấp nhất những thiệt hại mà các nguồn nguy hiểm này có thể gây
ra cho môi trường và cho những người xung quanh.

IV. Một số vấn đề thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
Thực tế cho thấy, mục đích của nhà làm luật tách riêng các qui định về
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thành một điều luật là để khẳng
định và ràng buộc nghĩa vụ, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ trong quan hệ xã hội
thường ngày. Về cơ bản, trong thời gian qua những qui định cụ thể của
10



BLDS, các Nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao
về chế định bồi thường BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã đáp
ứng được yêu cầu của công tác áp dụng pháp luật, đảm bảo cho các cơ quan
tiến hành tố tụng nhận định hướng giải quyết rõ ràng, đúng pháp luật, tạo
cách giải quyết đồng bộ, thống nhất cao. Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng
hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc:
Thứ nhất: khi nói tới khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ, Điều 623
BLDS 2005 cũng như Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP chỉ dừng lại ở sự liệt
kê mà không có một định nghĩa cụ thể. Các nguồn nguy hiểm cao độ khác
nhau lại được định nghĩa ở các văn bản khác nhau. Rõ ràng, dùng cách liệt
kê để mô tả một định nghĩa thì không thể nào hoàn chỉnh được.
Nguồn nguy hiểm cao độ theo tinh thần Điều 623 BLDS 2005 được hiểu là
những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận
chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi
trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó còn thể hiện ở
chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây
thiệt hại.Thực tế cho thấy, có những sự vật chưa từng được pháp luật quy
định là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng nếu có đầy đủ tính chất của nguồn
nguy hiểm cao độ thì có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ không, ví dụ
như hoạt động gây thiệt hại của xe đạp, xe đạp điện, xe máy có dung tích xi
lanh dưới 50cm3 (khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ giới” trong
các văn bản hiện tại không quy định những phương tiện này là nguồn nguy
hiểm cao độ), ong bò vẽ, rắn độc, chó dại, bò điên… Nói cách khác, còn rất
nhiều các sự vật trong thực tế nằm ngoài sự kiểm soát của pháp luật về
“nguồn nguy hiểm cao độ”.Chính điều này tác động không nhỏ đến thực tiễn
xét xử các vụ án, khi mà thiệt hại xảy ra là do các sự vật trên thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại được xem xét như thế nào. Bởi lẽ, theo quy định pháp
luật, chỉ khi xác định được đó là nguồn nguy hiểm cao độ thì mới áp dụng

trách nhiệm bồi thường theo Điều 623 BLDS 2005.
11


Thứ hai: về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể:
khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Thực
tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ xét thấy thiệt hại có liên quan
đến nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng ngay trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là
do hành vi con người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Thứ ba,đối với việc xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không có sự phân định rõ ràng
trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là với trường hợp chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác
chiếm hữu, sử dụng theo ý chí của chủ sở hữu. Quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng luôn có các hình thức thể hiện khác nhau: Chủ sở hữu có thể trực tiếp
chiếm hữu, sử dụng để khai thác công dụng của tài sản; chủ sở hữu cũng có
thể chuyển giao quyền chiếm hữu thực tế tài sản cho người khác và cho phép
người này được sử dụng tài sản của mình (cho thuê, cho mượn, chuyển giao
theo nghĩa vụ lao động…). Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được
chuyển giao cho người khác theo ý chí của chủ sở hữu, chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp
lý) đối với tài sản. Khi cho thuê, cho mượn hay chuyển giao nguồn nguy
hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp khai
thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực
hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản.
Khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 có ghi: “… nếu chủ sở hữu đã giao cho

người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”. Tuy nhiên, nếu cho rằng khi chủ sở hữu đã
chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác là hoàn toàn hết trách
12


nhiệm, trách nhiệm BTTH thuộc về người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ là không hợp lý. Quy định này hiện nay hoàn toàn chưa
phân định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra trong các trường hợp khác nhau. Nghị quyết số 03/2006/NQHĐTP mặc dù đã đưa ra được một số ví dụ cụ thể mang tính chất hướng dẫn
về vấn đề này nhưng lại chưa đưa ra được các quy định mang tính chất khái
quát chung.
Thứ tư,thực tế tồn tại trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên
gây thiệt hại thì ai là người có trách nhiệm bồi thường. Ví dụ, thú dữ trong
rừng tấn công gây thiệt hại cho con người.Theo quy định hiện nay, những tài
sản như vậy là một loại tài nguyên thiên nhiên và là tài sản thuộc sở hữu nhà
nước, thuộc sự quản lý của bộ, ngành có liên quan. Tuy nhiên, trên thực tế,
chưa có văn bản nào quy định cơ quan quản lý Nhà nước phải bồi thường và
vì vậy, không ai phải chịu trách nhiệm bồi thường trong những trường hợp
này mà cá nhân người bị thiệt hại phải tự chịu rủi ro. Như vậy không đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.
V. Một vài ý kiến nhằm bổ sung và khắc phục những điểm còn thiếu
sót trong quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra :

Thứ nhất: về khái niệm thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ. Như ở
phần III đã nêu, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong
Khoản 1 Điều 623 theo hướng liệt kê, không đầy đủ, dẫn đến tình trạng
không bao quát hết được các nguồn nguy hiểm cao độ tòn tại trên thực tế,
gây khó khăn trong việc áp dụng luật. Vì vậy, trong điều 623 không nên định

nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ theo hướng liệt kê mà chỉ cần xác định tiêu
chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm cao độ như tính nguy hiểm, tính
gây thiệt hại tiềm tàng… của chúng.
13


Thứ hai, về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Hiện nay chưa có quy định nào phân định
cụ thể: khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi
nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế.
Như trường hợp đã nêu ở vụ việc 1 kể trên, tòa án thấy thiệt hại có liên quan
đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con
người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Đây chính là sự mâu
thuẫn trong áp dụng pháp luật. Vì vậy, cần có quy định rõ ràng về việc trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh
khi thiệt hại là do sự tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ ba, về chủ thể chịu trách nhiệm BTTH, cần phân định cụ thể, rõ
ràng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho
người khác chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo quan
hệ lao động và chuyển giao theo quan hệ dân sự như sau :
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người
khác theo nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra trong quá trình người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
theo nhiệm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người được giao quản lý, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng lại sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ vào mục đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt hại thì họ phải tự

chịu trách nhiệm.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự: Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa
14


thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận
ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp
luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài
sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy
họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, không để tài sản
mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ thì họ
phải chịu trách nhiệm bồi thường. Ta có thể thấy một ví dụ cụ thể và rõ nhất
cho vấn đề này là việc gửi giữ ô tô ở các nhà hàng, khách sạn, quán caffee…
hiện nay, khi các nhà hàng, khách sạn yêu cầu khách đưa cả chìa khóa xe để
nhân viên đưa xe vào bãi. Nếu trong quá trình xe di chuyển vào bãi mà gây
thiệt hại, chiếu theo quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ hiện
nay, rất khó khăn để xác định chủ thể phải bồi thường thiệt hại.
Thứ tư, hiện nay trách nhiệm bồi thường nguồn nguy hiểm cao độ
trong tự nhiên chưa được đặt ra. Mặc dù những tài sản tự nhiên như vậy
được quy định là thuộc sở hữu của nhà nước (theo điều 17 Hiến pháp 1992)
nhưng trên thực tế không có văn bản nào quy định cơ quan nhà nước có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ là tài sản của
nhà nước gây ra, vì vậy quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại không
được đảm bảo. Do đó cần phải bổ sung những văn bản pháp lí quy định cụ
thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước hoặc các bộ ngành liên
quan trong trường hợp thiệt hại cho chủ thể do nguồn nguy hiểm cao độ
trong tự nhiên gây ra, quy định cụ thể mức độ và trách nhiệm bồi thường

của Nhà nước trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ
lợi ích công cộng như: trưng dụng, tạm giữ…
Thứ năm, cần một số biện pháp giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao
ý thức pháp luật của người dân về nguồn nguy hiểm cao độ cũng như những
thiệt hại mà nó có thể gây ra để có biện pháp phòng tránh. Vẫn biết những
15


thiệt hại đó nằm ngoài sự kiểm soát của con người nhưng nếu mỗi người đều
có trách nhiệm với tài sản của mình như bảo quản, sử dụng cẩn thận, thường
xuyên kiểm tra… thì sẽ phần nào giảm bớt được nguy cơ thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra.
Thứ sáu: pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên
gây ra cho các chủ thể khác; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong
trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng như:
trưng dụng, tạm giữ…
KẾT LUẬN
Xác định thiệt hại do tài sản gây ra nói chung và thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra nói riêng luôn là một vấn đề hết sức phức tạp bởi cho
đến nay, BLDS và các văn bản hướng dẫn khác chưa thực sự quy định rõ.
Với khả năng tiềm ẩn gây thiệt hại cho con người, môi trường xung quanh,
vần đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là vấn đề
quan trọng đòi hỏi các nhà làm luật phải tiếp tục hoàn thiện các quy định
thống nhất để việc áp dụng được chính xác, cụ thể, bảo vệ một cách đầy đủ
và toàn diện quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Bên cạnh đó,
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra sẽ phần nào nâng cao hơn ý thức của chủ sở hữu, người được

chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hợp pháp
trong việc sử dụng, vận hành tài sản là nguồn nguy hiểm của mình, nhằm
giảm bớt những thiệt hại đáng tiếc về người và của có thể xảy ra.

16


MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...
NỘI DUNG…………………………………………………………………...
I.

Một số khái niệm cơ bản : …………………………………………….

II.

Đặc điểm của trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra …
3. Cơ sở pháp : …………………………………………………………..
4. Về chủ thể phải BTTH : ………………………………………………
5. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. …………………………………………………………………

III.

Những quy định của pháp luật hiện hành về BTTH do nguồn nguy

hiểm cao độ gây ra : ………………………………………………………….
1. Các quy định của pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ : ……………
2. . Các dấu hiệu để xác định nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại : ….
3. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm của chủ thể trong BTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. …………………………………...

4. Ý nghĩa pháp lý của quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra. ……………………………………………………
IV.

Một số vấn đề thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra. ………………………………………………………….

V.

V. Một vài ý kiến nhằm bổ sung và khắc phục những điểm còn thiếu
sót trong quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra: ………………………………………………………………

KẾT LUẬN. ………………………………………………………………….

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2006.
2. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập hai, TS.Lê Đình Nghị(chủ
biên), Nxb. Giáo Dục.
3

Bộ Luật Dân Sự 2005, Nxb. Lao Động - Xã Hội.

4. Nghị quyết Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao số
03/2006/ NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy

định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
5.

Các trang thông tin điện tử:



18



×