Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài tiểu luận về vấn đề thất nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.53 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã không ít tạo
ra những sự nhảy vọt về mọi mặt, đã đưa nhân loại tiến xa hơn nữa. Trong
những năm gần đây chúng ta đã đạt được một số thành tựu phát triển rực rỡ
về khoa học kỹ thuật, các ngành như du lịch, dịch vụ, xuất khẩu, lương thực
thực phẩm sang các nước.....v.v. Đằng sau những thành tựu chúng ta đã đạt
được, thì cũng có không ít vấn đề mà Đảng và nhà nước ta cần quan tâm như
: Tệ nạn xã hội, lạm phát, thất nghiệp...Song với hạn chế của bài viết mà
chúng ta không thể phân tích kỹ từng vấn đề đang xảy ra trong xã hội như
hiện nay được. Nhưng có vẻ vấn đề được quan tâm hàng đầu ở đây có lẽ là
thất nghiệp.
Thất nghiệp, đó là vấn đề cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia
nào dù nền kinh tế có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất
nghiệp đó là vấn đề không tránh khỏi chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ
thấp hay cao mà thôi. Với thời gian không cho phép chính vì thế mà bài viết
này chúng ta chỉ đề cập đến tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam. Thất nghiệp, nó
còn kéo theo nhiều vấn đề đằng sau: Sẽ dẫn đến tình trạng làm giảm nền
kinh tế, sự gia tăng của các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộn cắp, làm sói mòn
nếp sống lành mạnh, phá vỡ nhiều mối quan hệ. Tạo ra sự lo lắng cho toàn
xã hội.
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế- xã hội tồn tại ở nhiều thời kỳ khác
nhau và ở mọi nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ gây ra những tác động
khoogn nhỏ đến đời sống xã hội cũng như nền kinh tế của mọi quốc gia nói
riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung.
Ở Việt nam tỷ lệ thất nghiệp tuy có xu hướng giảm, song về con số tuyệt đối
lại có sự gia tăng không nhỏ. Trong bối cảnh hiện nay, giải quyết tình trạng
thất nghiệp là một vấn đề đang được nhà nước, chính phủ quan tâm, chú
trọng.
Vấn để đó đã gây thiệt hại cho nền kinh tế nước nhà và chúng ta phải làm
gì để khắc phục tình trạng trên. Vấn đề này được nhìn từ nhiều gốc độ khác


nhau và mỗi người một quan điểm khác nhau. Tuy nhiên giải pháp nhằm đặt
ra để giải quyết gấp vấn đề lao động trong xã hội cũng như đảm bảo công ăn
việc làm cho hàng ngàn người. Vấn đề này cần sự quan tâm của Đảng và nhà
nước ta. Vì vậy chúng em chọn đề tài " cơ sở lý luận của thất nghiệp và các
biện pháp làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở Viêt Nam ".


MỤC LỤC
Cơ sở lý luận về thất nghiệp
Khái niệm về thất nghiệp
Một số khái niệm cơ bản
Thế nào là thất nghiệp?
Tỷ lệ thất nghiệp
Phân loại thất nghiệp
Phân loại theo loại hình thất nghiệp
Phân loại theo lý do thất nghiệp
Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp
Phân loại theo phân ích hiện đại về thất nghiệp
Nguyên nhân của thất nghiệp
Tác động của thất nghiệp
Các biện pháp hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp
Đối với thất nghiệp tự nhiên
Đối với thất nghiệp chu kỳ
Cơ sở thực tiễn về tình hình thất nghiệp ở Viêt Nam
Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam 5 năm gần đây ( 2008 - 2012 )
Khái quát tình hình thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012
Tình hình thất nghiệp ở thành thị và nông thôn
Tình hình thất nghiệp theo các khu vực ở Việt Nam
Tình hình việc làm trên thị trường
Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp tại Viêt Nam

Các giải pháp giải quyết thất nghiệp của Chính phủ
Chính sách của Chính phủ về kinh tế
Các chính sách về quản lý Nhà nước ( bảo hiểm thất nghiệp )
Chính sách về giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động
Các chính sách khác
KẾT LUẬN


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẤT NGHIỆP
1. Một số khái niệm
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Lao động là hoạt động của con người nhằm mục đích tạo ra của cải
vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội.
Việc làm là mọi hoạt động của con người tạo ra của cải vật chất, tinh
thần mà không bị pháp luật cấm.
Độ tuổi lao động là lứa tuổi có khả năng lao động, do nhà nước quy
định, độ tuổi lao động là khác nhau giữa các quốc gia. Ở Việt Nam độ
tuổi này được quy định như sau: độ tuổi lao động của nam giới là từ 15
đến 60 tuổi, của nữ giới là từ 15 đến 55 tuổi. Những người trong độ tuổi
lao động có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định ghi trong Hiến
pháp.
Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có việc
hoặc chưa có việc làm nhưng tìm kiếm việc làm.
1.2. Thế nào là thất nghiệp?
Theo ILO (Tổ chức Lao động quốc tế - International Labor
Organization): "Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong
lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở
mức tiền công đang thịnh hành".
Theo định nghĩa của kinh tế học thì thất nghiệp là tình trạng người
lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm. Người thất

nghiệp là người chưa có việc làm nhưng mong muốn và đang tìm kiếm
việc làm.
Ngoài những người có việc làm và thất nghiệp, những người còn lại trong độ
tuổi lao động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm
người đi học, nội trợ gia đình và những người không có khả năng lao động do đau
ốm, bệnh tật và một bộ phận không muốn tìm việc làm với những lý do khác.

Có việc làm
Trong độ tuổi
lao động

Lực lượng lao
động
Ngoài lực lượng
lao động

DÂN SỐ
Ngoài độ tuổi
lao động

Thất nghiệp


1.3. Tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên
tổng số lực lượng lao động xã hội.
Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản ánh khái quát tình trạng thất
nghiệp của một quốc gia. Cũng vì thế còn có những quan niệm khác nhau về
nội dung và phương pháp tính toán, để có khả năng biểu hiện đúng và đầy đủ
đặc điểm của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặc biệt ở các nước đang phát

triển.
2. Phân loại thất nghiệp
2.1. Phân theo loại hình thất nghiệp
Phân loại thất nghiệp theo loại hình thực chất là việc xác định đối tượng
thất nghiệp thuộc bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào, giới tính, độ tuổi
nào. Cách phân loại này nhằm xác định tính chất, đặc điểm cũng như mức độ
tác hại của thất nghiệp trong thực tế nền kinh tế. Với mục đích đó, có thể
dùng những tiêu thức phân loại dưới đây:
- Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ)
- Thất nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi, nghề)
- Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn)
- Thất nghiệp chia theo ngành nghề (ngành kinh tế, nghề nghiệp)
- Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc.
2.2. Phân loại theo lý do thất nghiệp
Dựa vào lý do thất nghiệp, có thể chia theo thất nghiệp thành:
- Thất nghiệp do bỏ việc: Người lao động tự ý xin thôi việc vì những lí
do khác nhau như cho rằng lương thấp, không hợp nghề, hợp vùng...
- Thất nghiệp do mất việc: Các đơn vị kinh doanh cho người lao động
thôi việc do những khó khăn trong kinh doanh.
- Thất nghiệp do mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động
nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niêm đến tuổi lao động đang tìm kiếm
việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác,...).
- Thất nghiệp do tái nhập: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động
nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Phạm trù thất nghiệp không phải là vĩnh viễn và quy mô thất nghiệp luôn
biến động. Những người thất nghiệp sau một thời gian nào đó có thể quay
trở lại làm việc, tìm được việc làm mới hoặc rút khỏi lực lượng lao động vì
nhiều nguyên nhân khác nhau như mất hứng thú làm việc, điều kiện bản thân
không phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động,...
Như vậy, thất nghiệp là con số mang tính thời điểm, nó luôn biến đổi

không ngừng theo thời gian. Trong một thời kỳ nhất địn, có một bộ phận lực
lượng lao động trở thành thất nghiệp và cũng có một bộ phận người thất
nghiệp rời khởi thất nghiệp. Hiện tượng này được gọi là dòng thất nghiệp.


Khi số người trở thành thất nghiệp nhiều hơn só người rút khỏi thất nghiệp
thì quy mô thất nghiệp tăng lên và ngược lại, quy mô thất nghiệp giảm
xuống. Khi dòng thất nghiệp cân bằng thì quy mô thất nghiệp sẽ không đổi,
tỷ lệ thất nghiệp sẽ ổn định. Dòng thất nghiệp còn phản ánh sự biến động
của thị trường lao động.
Bên cạnh dòng thất nghiệp, quy mô thất nghiệp còn gắn với thời gian
thất nghiệp trung bình. Khoảng thời gian thất nghiệp trung bình là độ dài
bình quân thời gian thất nghiệp của toàn bộ số người thất nghiệp trong cùng
một thời kỳ. Khi dòng thất nghiệp cân bằng, nếu khoảng thời gian thất
nghiệp trung bình rút ngắn thì cường độ vận động của dòng thất nghiệp tăng
lên, thị trường lao động biến động mạnh.
2.3. Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp
- Thất nghiệp tạm thời
Thất nghiệp tạm thời là tình trạng thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển của
người lao động giữa các vùng, các địa phương, giữa các loại công việc hoặc
giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời
gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với ý muốn
riêng (lương cao hơn, gần nhà hơn...)
- Thất nghiệp cơ cấu
Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi có sự mất cân đối cung - cầu giữa các thị
trường lao động (giữa các nghành nghề, khu vực...). Loại này gắn liền với sự
biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường lao
động. Khi sự biến động này mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở nên trầm
trọng vaf chuyển sang thất nghiệp dài hạn.

Thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp tạm thời chỉ xảy ra ở mojt bộ phận của thi
trường lao động
- Thất nghiệp do thiếu cầu ( thất nghiệp chu kì)
Thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm. Loại
này còn được gọi là thất nghiệp chu kì bởi ở các nền kinh tế thị trường, nó
gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kì kinh doanh, xảy ra ở khắp mọi nơi
mọi nghành mọi nghề.
- Thất nghệp do yếu tố ngoài thị trường (thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển)
Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường xảy ra khi tiền lương được ấn định
không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức cân bằng thực tế của thi
trường lao động. Loại thất nghiệp này do các yếu tố chính trị-xã hội tác
động.
2.4. Phân loại theo phân tích hiện đại về thất nghiệp
- Thất nghiệp tự nguyện : chỉ những người tự nguyện khong muốn làm việc
do lương chưa phù hợp với mong muốn. Thất nghiệp tự nguyện bao gồm


những người thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu.
- Thất nghiệp không tự nguyện: chỉ những người muốn đi làm ở mức lương
hiện hành nhưng không được thuê. Đây chính là thất nghiệp thiếu cầu và thất
nghiệp theo lý thuyết hiện đại.
- Thất nghiệp tự nhiên: là mức thất nghiệp khi thị trường lao động ở trạng
thái cân bằng. Tại đó mức tiền lương và giá cả là hợp lý, các thị trường đều
đạt cân bằng dài hạn.
a. Nguyên nhân của thất nghiệp
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp, trong đó có cả
nguyên nhân khách quan đến từ thị trường lao động, thị trường kinh tế, các
chính sách kinh tế - chính trị xã hội, và có cả nguyên nhân chủ quan đến từ
phía của người lao động. Có thể khái quát những nguyên nhân chính dẫn
đếm tình trạng thất nghiệp bao gồm:

- Sự di chuyển tự do của lao động;
- Sự thay đổi trong cơ cấu dân số;
- Lạm phát tăng cao
- Tình hình kinh tế - chính trị không ổn định;
- Chính sách tiền lương tối thiểu của chính phủ
- Trình độ người lao động không đáp ứng được nhu cầu thị trường;
- Thay đổi quy mô và công nghệ theo hướng phát triển từ đó cần cắt giảm
nhân công;
- Do cơ cấu mùa vụ của công việc;
- Chi phí lao động quá cao nhưng sản xuất không hiệu quả;
- Do cơ cấu lao động trong sản xuất không hợp lí;
- ........
b. Tác động của thất nghiệp
Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị
trường cho dù quốc gia đó có trình độ kém phát triển hay phát triển cao.
Trước hết, thất nghiệp là đòn rất mạnh giáng vào tâm lý và đời sống của mọi
người và từ đó ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Từ đó dẫn đến việc gia tăng
các tệ nạn xã hội.
Thất nghiệp còn dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi, buôn lậu,
làm hàng giả,...gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, văn hóa và tài nguyên
môi trường của đất nước.
Thất nghiệp gây tổn thất cho nền kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội thấp, lãng
phí nguồn lao động. Người lao động không có thu nhập nên không thể tiêu
dùng sản phẩm, không thể kích thích các doanh nghiệp sản xuất, tỉ lệ thất
nghiệp càng cao thì nền kinh tế càng dễ bị suy thoái.
Thất nghiệp gây áp lực lên việc chi trả của bảo hiểm và các nguồn phúc lợi
xã hội do số người xin trợ cấp tăng khiến quỹ bảo hiểm phúc lợi xã hội ngày


càng giảm.

5. Các biện pháp hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp
5.1. Đối với thất nghiệp tự nhiên
Muốn giảm bớt thất nghiệp xã hội cần phải có thêm nhiều việc làm, đa dạng
hơn và có mức tiền công tốt hơn, đồng thời phải đổi mới, hoàn thiện thị
trường lao động để đáp ứng kịp thời, nhanh chóng cả yêu cầu của doanh
nghiệp và người lao động.
Do yêu cầu cạnh tranh mạnh mẽ của cơ chế thị trường, việc mở rộng sản
xuất tạo nhiều việc làm tốt, thu nhập khá và ổn định luôn gắn liền với năng
suất ngày càng cao. Ở mỗi mức tiền lương cao hơn sẽ thu hút nhiều lao
động hơn. Trong những điều kiện đó cầu về lao động sẽ tăng lên và khoảng
thời gian thất nghiệp cũng sẽ giảm xuống.
Để thúc đẩy quá trình này cần có những chính sách, khuyến khích đầu tư,
thay đổi công nghệ sản xuất. Điều này lại liên quan đến các chính sách tiền
tệ (lãi xuất), xuất nhập khẩu, giá cả (tư liệu sản xuất,...), thuế thu nhập,...
Ở những nước đang phát triển có lao động dư thừa nhiều, nhưng thiếu vốn,
có thể tạo ra nhiều việc làm với các doanh nghiệp nhỏ ( cá thể hoặc nhỏ về
vốn nhưng dùng nhiều lao động) bằng sự hỗ trợ vốn của Nhà Nước hoặc của
các tổ chức kinh tế, xã hội thông qua các " dự án việc làm".
Tăng cường và hoàn thiện các chương trình dạy nghề, đào tạo và tổ chức tốt
thị trường lao động sẽ tạo ra những điều kiện thuận lơi trong việc tìm kiếm
việc làm, có thể rút ngắn thời gian tìm việc bởi cơ cấu và trình độ của người
tìm việc ngày càng bám sát hơn với cơ cấu kinh tế và sự đòi hỏi từ các nhà
tuyển dụng.
5.2. Đối với thất nghiệp chu kỳ
Thất nghiệp chu kỳ thường là một thảm họa vì nó xảy ra trên quy mô lớn.
Tổng cầu và sản lượng suy giảm, đời sống người lao động bị thất nghiệp gặp
nhiều khó khăn. Gánh nặng này thường dồn lại vào những người nghèo nhất
(lao động giản đơn), khoảng cách giàu-nghèo và bất công xã hội như vậy
càng gia tăng.
Các chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng nhằm tăng tổng cầu sẽ dẫn đến

việc phục hồi nền kinh tế, từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ TÌNH HÌNH THẤT NGHIỆP Ở VIÊT NAM
1. Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam 5 năm gần đây (2008-2012)
1.1. Khái quát tình hình thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2008-2012. Hiện
nay Việt Nam là một trong 13 quốc gia đông dân nhất trên thế giới. Nguồn
lao động nước ta tương đối dồi dào và tăng nhanh. Bình quân mỗi năm có
trên một triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động và có nhu cầu làm việc.
Tính đến thời điểm 1/10/2012, cả nước có 53,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên


thuộc lực lượng lao động. Trong đó, có 52,1 triệu người có việc làm ( chiếm
98,11% ). Như vậy, có gần 1 triệu người thất nghiệp bởi nền kinh tế không
tạo đủ việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị trường và bộ phận lao động
thất nghiệp cũ.
Tuy nhiên, dựa trên số liệu thống kê tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của
Việt Nam trong 5 năm gần đây, có thể thấy sự giảm sút đáng kể tình trạng
thất nghiệp, cũng như thiếu việc làm ở Việt Nam. ( Tỷ lệ thiếu việc làm là tỷ
lệ phần trăm lao động thiếu việc làm trong tổng số lao động có việc làm,
trong đó, lao động thiếu việc làm là những người được xác định là có việc
làm nhưng có thời gian làm việc thực tế dưới 35 giờ/tuần, có nhu cầu sẵn
sàng làm thêm giờ.)
Bảng 1.1. Bảng thống kê lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở Việt Nam từ năm
2008-2012
Năm
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Tỷ lệ thiếu việc làm (%)

2008
2.38
5.1


2009
2.9
5.61

2010
2.88
3.57

2011
2.22
2.96

2012
1.99
2.8

1.2. Tình hình thất nghiệp ở thành thị và nông thôn
Theo cơ quan thống kê quốc gia, dân số trung bình năm 2018 của cả
nước ước tính 94,66 triệu người, bao gồm dân số thành thị 33,63 triệu người,
chiếm 35,5%; dân số nông thôn 61,03 triệu người, chiếm 64,5%; dân số nam
46,75 triệu người, chiếm 49,4%; dân số nữ 47,91 triệu người, chiếm 50,6%.
Trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên cuối cả nước đến thời điểm
1/7/2018 ước tính là 55,1 triệu người, tăng 594 nghìn người so với cùng thời
điểm năm 2017, bao gồm lao động nam 28,8 triệu người, chiếm 54,2%; lao
động nữ 26,3% triệu người, chiếm 47,8%. Xét theo khu vực, lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 17,7 triệu người, chiếm 32,2%;
khu vực nông thôn là 37,4 triệu người, chiếm 67,8%.
Cũng tính đến thời điểm trên, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước
tính là 48,4 triệu người, tăng 539,8 nghìn người so với cùng thời điểm năm

trước, trong đó, lao động nam 26,4 triệu người, chiếm 54,5%; lao động nữ
22 triệu người, chiếm 45,5%; lao động khu vực thành thị là 16,2 triệu người,
chiếm 33,5%; khu vực nông thôn là 32,2 triệu người, chiếm 66,5%.


Bên cạnh đó, “số lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong 6 tháng đầu
năm nay ước tính 54 triệu người, bao gồm 20,8 triệu người đang làm việc ở
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 38,5% tổng số; khu vực công
nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người, chiếm 26,7%; khu vực dịch vụ 18,8
triệu người, chiếm 34,8%”, Tổng cục Thống kê cho biết.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý II/2018 ước tính tương
đương quý I/2018 là 2,2%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2018 ước tính là 2,2%, trong đó, khu vực thành
thị là 3,12%; khu vực nông thôn là 1,74%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên
(từ 15-24 tuổi) 6 tháng năm 2018 ước tính là 7,1%, trong đó, khu vực thành
thị là 10,73%; khu vực nông thôn là 5,71%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý II/2018 ước tính là
1,50%.
Tính chung 6 tháng đầu năm nay ước tính là 1,51%, trong đó, tỷ lệ thiếu việc
làm khu vực thành thị là 0,64%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là
1,95% (tỷ lệ thiếu việc làm của 6 tháng đầu năm 2017 tương ứng là 1,73%;
0,85%; 2,15%).
Trước đó, "Bản tin thị trường lao động Việt Nam - Số 16, Quý 4 năm 2017”
do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố vào ngày 15/03/2018 cho
thấy, Quý 4/2017, cả nước có 1.071,2 nghìn lao động trong độ tuổi thất
nghiệp, giảm 3,6 nghìn người so với Quý 3. Tuy nhiên, cả nước vẫn có 215,3
nghìn người có trình độ đại học trở lên bị thất nghiệp, giảm 21,7 nghìn người
so với quý 3.
Cần nắm chắc thông tin về thị trường lao động, xem xét xu hướng tuyển
dụng hiện nay. Đồng thời, cần tập trung củng cố kỹ năng mà nhà tuyển dụng

cần, bởi các sinh viên mới chủ yếu được trang bị kỹ năng về lý thuyết. Cơ
quan này cũng dự báo, các ngành chế biến - chế tạo, ngành công nghệ cao,
công nghệ thông tin, phần mềm… vẫn khát lao động. Nếu các tân sinh viên
có trang bị tốt những kỹ năng như ngoại ngữ, kỹ năng mềm…, rất có thể sẽ
được nhận vào làm việc. Thông thường, các kỹ năng mà lao động
Việt Nam yếu là ngoại ngữ, khả năng làm việc nhóm, khả năng và tư duy
phản biện, sáng tạo, làm việc độc lập…
Bên cạnh đó, để giải quyết việc làm có hiệu quả cao, việc định hướng nghề
nghiệp cho thanh niên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường và giai đoạn lựa
chọn nghề nghiệp phù hợp là rất quan trọng. Đồng thời, Chính phủ và các
bộ, ngành cần tiếp tục điều Vì vậy, theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã


hội, các sinh viên sắp tốt chỉnh mô hình đào tạo giữa các bậc đại học, cao
đẳng, trung cấp; một mặt, tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nghề./.
1.3. Tình hình thất nghiệp theo các khu vực ở Việt Nam
Trên cả nước, khu vực Đông Nam Bộ có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất nước ta,
trong giai đoạn từ năm 2008-2011 tỷ lệ này luôn trên 3% cao hơn so với
trung bình cả nước khoảng 1%. Tiếp sau đó là khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Miền Trung, khu vực Đồng bằng Sông
Hồng. Hai khu vực có tỷ lệ thất nghiệp nhất nước ta là Trung du miền núi
Bắc Bộ và Tây Nguyên.
Bảng 1.3. Bảng thống kê tỷ lệ thất nghiệp theo khu vực từ năm 2008-2011
Năm

Cả nước

ĐB Sông
Hồng


Trung du
miền núi
phía Bắc

BTB và
Tây
duyên hải Nguyên
miền Trung

ĐNB

ĐB
SCL

2008

2,38

2,29

1,13

2,24

1,42

3,74

2,71


2009

2,90

2,69

1,38

3,11

2,00

3,99

3,31

2010
2011

2,88
2,22

2.61
1,99

1,21
0,87

2,94
2,28


2,15
1,31

3,91
3,20

3,59
2,77

Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp ở mỗi khu vực của nước ta cũng như tỷ lệ thất
nghiệp của cả nước có xu hướng giảm. Đặc biệt rõ nét trong năm 2011, tỷ lệ
thất nghiệp của đa số các khu vực đều giảm trên 0,6% so với năm 2010.
1.4. Tình hình việc làm trên thị trường
Theo báo cáo được Tổng cục Thống kê công bố tại Hà Nội với sự hỗ trợ của
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), số người có việc làm tăng thêm 1,1 triệu
trong vòng 3 quý đầu của năm 2012 nhưng đồng thời, lực lượng lao động
Việt Nam cũng tăng theo con số tương tự.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm, song xét về số tuyệt đối, số người thất nghiệp lại
tăng.
Hiện nền kinh tế không tạo đủ việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị
trường và bộ phận lao động thất nghiệp cũ với số người thất nghiệp hiện
khoảng 931 nghìn, số người thiếu việc làm là 1,45 triệu, tăng khoảng 195


nghìn người so với năm ngoái. Tình hình tại các doanh nghiệp: Cạn vốn, thu
hẹp sản xuất, nhiều doanh nghiệp rơi vào cảnh túng quẫn, thẳng thừng tuyên
bố nợ lương hay khuyến khích nhân viên tự nguyện nghỉ. Như vậy, chỉ trong
một thời gian ngắn, số lượng doanh nghiệp “chết” cao gấp 10 lần của những
năm về trước. Những tác động từ thực trạng nêu trên đã gây 12 ra nhiều hệ

lụy cho xã hội. Người lao động mất việc làm, doanh nghiệp nợ ngân hàng,
nợ bảo hiểm xã hội, nợ tiền điện, viễn thông, nước Điều này có nghĩa, khi
doanh nghiệp “chết” đi, lượng người thất nghiệp sẽ gia tăng theo quy luật
cung cầu của nền kinh tế. Những ngày cuối năm 2012, người lao động liên
tục phản ánh về tình trạng nợ lương kéo dài và nợ cả tiền bảo hiểm xã hội
cho thấy, việc chậm lương, nợ lương không còn là vấn đề cục bộ tại một số
đơn vị yếu kém về mặt quản lý như các năm trước mà đã phổ biến hơn do
khó khăn chung của nền kinh tế. Trong khi đó, số lượng các công ty bất
động sản làm ăn thua lỗ đóng cửa hàng loạt tăng mạnh, kéo theo đó số lượng
nhân sự bị cắt giảm cũng ồ ạt. Các ngân hàng, công ty tài chính cũng đang
lao đao bởi khủng hoảng nhân sự, số lượng nhân viên bị sa thải tăng mạnh.
Chế độ đảm bảo quyền lợi cho người lao động bị thôi việc đều bỏ ngỏ. Báo
cáo nhân lực trực tuyến do VietnamWorks công bố cho thấy trong năm 2012,
nhân lực ngành bất động sản giảm 50%, xây dựng giảm 49%. Theo đánh giá
của nhiều chuyên gia lao động, năm 2012 ngành Xây dựng có số lượng lao
động thất nghiệp lớn nhất và cũng là “con nợ” lớn nhất của ngành bảo hiểm
xã hội. Tình hình của những sinh viên đã tốt nghiệp: Hàng năm chúng ta có
hơn một triệu thí sinh thi tú tài, chỉ cần một nửa số này thi đậu vào đại học,
trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề thì số người còn lại (từ 18 đến
20 tuổi) sẽ tham gia vào lực lượng lao động phổ thông gia tăng hàng năm.
Những trường hợp sinh viên tốt nghiệp nhưng phải làm việc phổ thông, bán
hàng… được tính là sự chuyển dịch lao động giữa các ngành nghề. Kết thúc
2012 nền kinh tế được đánh giá là suy giảm, song số liệu điều tra của Tổng
cục Thống kê qua 3 chỉ số chính: tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ thiếu việc làm và thu
nhập, tiền lương vẫn được “cải thiện nhẹ”. Đồng thời, nếu không có thất
nghiệp thì nhiều người sẽ không có động lực làm việc, đặc biệt là những lao
động chân tay. Nếu không có thất nghiệp doanh nghiệp phải trả các khoản
lương cũng như đáp ứng tất cả các đòi hỏi, đôi khi rất bất hợp lý của người
lao động. Nếu không có thất nghiệp thì không thực hiện được việc tái cơ cấu
tổ chức…

2. Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam
Lực lượng lao động đang ra tăng với tỷ lệ nhanh chóng với hơn một triệu
việc làm mới mỗi năm. Tỷ lệ thất nghiệp giữa thanh niên đã trở thành một
vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam, nơi mà dân số dưới độ tuổi 24, chiếm phần


lớn trong số người thất nghiệp. Tỷ lệ của những người tìm việc làm lần đầu,
đa số họ là những người lao động trẻ và phụ nữ, trong tổng số người thất
nghiệp đã tăng lên trong thập kỷ qua.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa đã
làm suy giảm số người lao động hiện đang làm việc tại các xí nghiệp, hợp
tác xã quốc doanh. Trong vòng từ 3-5 năm tới, dự tính hơn 500.000 công
nhân sẽ bị mất việc làm tại các xí nghiệp quốc doanh, đấy là chưa tính số
công nhân về hưu trước tuổi. Tương tự như một số nước, việc tự do hoá nền
kinh tế và cải cách cơ cấu đã khuyến khích cho các doanh nghiệp nhỏ thuộc
khu vực phi chính quy và khuyến khích vuệc ký hợp đồng lao động. Những
yếu này được xem là sẽ tạo ra một thị trường năng động, tích cực hơn, giảm
các chi phí về lao động, năng suất cao hơn nhưng cũng là cách thức để lẩn
tránh các điều luật và quy định về lao động . Điều này dẫn tới mất sự bảo
đảm về nghề nghiệp, những lợi ích về kinh tế, xã hội và sự suy giảm có thể
về việc làm và điều kiện lao động cho công nhân.
Các cơ hội về việc làm bị suy giảm trong khu vực quốc doanh đối với những
người lao động mới và những sinh viên tốt nghiệp đại học bởi vì việc giảm
quy mô của khu vực dân sự và các doanh nghiệp quốc doanh. Trong năm
2000, Nhà nước đã tuyển dụng khoảng 1,4 triệu người vào làm việc, tăng
khoảng 2,5% so với năm 1999. Tuy nhiên, việc cắt giảm 15% người lao
động trong khu vực dịch vụ dân sự đã có trong kế hoạch với hơn 70.000
người lao động sẽ mất việc làm vào năm 2002. Trong khi đó, 8% số người
lao động trong bộ máy quản lý ở cấp trung ương cấp thành phố và cấp tỉnh 1
tỷ đồng cũng đang bị cắt giảm. Chính phủ đang bị cắt giảm và 72% số người

lao động trong các tổ chức nhà nước đã có kế hoạch dành hơn 1 tỷ tỷ Đồng
Việt nam cho việc cắt giảm chỗ làm việc trong khu vực dịch vụ dân sự.
Việt Nam cũng đang trong tình trạng thiếu những công nhân lành nghề và
bán lành nghề. Chỉ 22% trong tổng số người lao động đã được qua đào tạo
và chỉ 13,4% được đào tạo nghề. Cuộc điều tra lực lượng lao động được tiến
hành năm 1999 đã chỉ ra rằng 86% trong lực lượng lao động là không có tay
nghề. Ví dụ, tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT ) dự tính
rằng 50% trong số lao động của Tổng công ty là những người lao động
không có chuyên môn (chủ yếu những người làm công việc dịch vụ thư tín )
và họ cần được đào tạo. Hơn 100 xí nghiệp hoạt động tại miền nam có nhu
cầu tuyển dụng 17.000 kỹ sư vào làm việc, tuy nhiên họ không tuyển dụng
được những người lao động có trình độ và kinh nghiệm vào làm việc. Những
khu công nghiệp (IPs) được thành lập ở một số tỉnh ở Việt Nam đã tạo được


việc làm cho người lao động tại các khu vực tập trung, tuy nhiên thường thì
họ không tuyển dụng những người dân địa phương vào làm việc vì đó là
những người không có tay nghề, (Ví dụ các khu công nghiệp Bình Dương
tuyển dụng hơn 35.000 người lao động Việt Nam nhưng trong số này, chỉ có
13% là người tại địa phương. Đại đa số những người lao động đến từ những
tỉnh miền Bắc và miền Trung. Tỉnh Bình Dương đang đầu tư vào đất đai xây
nhà cho những người lao động đến từ các địa phương khác, nhưng phần lớn
họ vẫn sống ở những ngôi nhà ổ chuột. Bình Dương cũng đã đầu tư vào một
trung tâm đào tạo nghề để cung cấp một lao động có tay nghề cho các khu
công nghiệp). Việt Nam phải đầu tư một số lượng lớn hơn nữa vào việc dạy
nghề dựa trên các nhu cầu của người sử dụng lao động đối với các lao động
lành nghề để chuẩn bị những trách nhiệm mới và những việc làm mới cho
người lao động. Phụ nữ thì ít được đào tạo về mặt kỹ thuật hơn và thường
được tuyển dụng vào làm việc tại các xí nghiệp sản xuất, nơi tuyển dụng
những người lao động không có tay nghề. Phụ nữ thường ít tham gia vào các

công việc được trả lương, có nhiều phụ nữ đã tự đứng ra vận hành những
doanh nghiệp gia đình.
Phần lớn lực lượng lao động của việt nam vẫn làm việc trong khu vục nông
nghiệp, chiếm 62,56% trong lực lượng lao động. Trong khi đó,tỷ lệ này ở
ngành công nghiệp, xây dựng là 13,15%và khu vực dịch vụ là 24,29%.
Chính phủ đã đặt ra những mục tiêu mới là sẽ có 50% trong lực lượng lao
động làm việc trong khu vực nông nghiệp, 23% trong lĩnh vực công nghiệp/
xây dựng và 27% trong khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, tỷ lệ thiếu việc làm
cũng khá cao trong khu vực nông thôn chiếm hơn 25%. Số lượng đất đai
canh tác sẵn có không thể thu hút được nhiều lao động hơn. Theo số liệu do
Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội cung cấp, với khoảng 8,1 triệu
héc ta đất nông nghiệp và con số tối đa lao động trong ngành nông nghiệp
cần thiết là 19 triệu. Những việc làm ngoài thời gian mùa vụ cần sớm được
tạo để tránh tình trạng thất nghiệp ở vùng nông thôn đối với khoảng gần 10
triệu người. Khu vực kinh doanh ngoài quốc doanh trong nước của Việt Nam
chủ yếu tập trung ở những khu vực có thu nhập như là trồng trọt hộ gia đình
và những dịch vụ cửa hàng kinh doanh nhỏ, cả hai loại hình này đều không
tạo ra nhiều việc làm mới.
Tình trạng thất nghiệp ở thành thị cũng nảy sinh như là một vấn đề chính, vì
nhiều công nhân đã di chuyển ra các vùng đô thị để tìm việc làm. Việt Nam
dự đoán rằng dân số thành thị sẽ tăng lên từ 20% đến 45% vào cuối năm
2020 so với mức hiện nay (Con số dự đoán của ILO), và điều này có nghĩa
là hơn 30 triệu người từ các vùng nông thôn chuyển đến các thành phố để


tìm việc làm. Vấn đề này đang gây áp lực đối với các thành phố trong việc
tạo thêm những việc làm mới cho họ. Tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị đã tăng từ
6,5% năm 1999 lên 8% năm 2000. Tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên đang ở
mức cao nguy hiểm ở một số khu vực ở đô thị (tỷ lệ này là 52% đối với
những người trong độ tuổi từ 15- 24 ). Ngày càng nhiều thanh niên di

chuyển đến các thành phố với hy vọng tìm được việc làm và đôi khi họ làm
nghề bán hàng rong trên đường phố, bán bưu thiếp, đánh giày hoặc bán
thuốc lá để kiếm kế sinh nhai và gửi tiền về hỗ trợ gia đình.
Chiến lược về việc làm ở Việt Nam cũng phụ thuộc vào số công nhân đi lao
động ở nước ngoài. Việt Nam đã thành công trong lĩnh vực đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài. Trong khoảng thời gian từ 1995- 2000, hơn 95.000
người lao động đã được đưa đi làm việc ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan và Li bi. Những người lao động này đã gửi tiền lương của họ về để
giúp đỡ thân nhân trong nước với số tiền từ 80 triệu đến 220 triệu đồng mỗi
người mỗi năm. Tuy nhiên, thực tế là cũng có nhiều nước khác sẵn sàng đưa
lao động đi làm việc tại nước ngoài, do đó cũng chưa thể biết được liệu các
nước nhập khẩu lao động trong tương lai sẽ cần bao nhiêu lao động nước
ngoài.
Việc sắp xếp lại ngành công nghiệp và tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cũng
cần nhiều thời gian, vì thế, tỷ lệ thất nghiệp số học cũng gia tăng. Sự phát
triển nhanh của đầu tư tư nhân là cần thiết cho việc tạo việc làm. Sự tăng
trưởng về đầu tư tư nhân cũng đang ở dưới mức cần thiết để tạo ra số việc
làm cần thiết ỏ Việt Nam nhằm đáp ứng được nhu cầu của những người mới
bước vào lực lượng lao động mỗi năm. Cần có một khoảng thời gian đối với
một người tìm việc cho tới khi tìm thấy một việc làm thích hợp. Việt Nam
vẫn cần phải bắt đầu sự chuyển đổi từ các ngành công nghiệp cần nhiều lao
động sang một nền công nghiệp có tay nghề chuyên môn cao.
Thiên tai có thể ảnh hưởng đến một bộ phận lớn trong lực lượng lao động tại
những vùng bị thiệt hại bị mất việc làm cho tới khi họ có thể khắc và xây
dựng cuộc sống và kế sinh nhai của họ.
Bảo hiểm thất nghiệp không thể giải quyết tất cả về nguyên nhân thất nghiệp
nói trên. Tuy nhiên, nó có thể góp vào việc làm giảm đi những tác động của
thất nghiệp đối với công nhân và cũng đóng góp được cho chế độ bảo hiểm
xã hội. Các hình thức khác của trợ cấp thất nghiệp có thể được sử dụng như
là một phần của chiến lược việc làm hội nhập để hỗ trợ cơ bản về thu nhập

và đào tạo tay nghề để tạo cơ hội tốt hơn cho người lao động tìm được việc


làm. Các chính sách đều nhằm vào việc cải thiện chất lượng của lực lượng
lao động, thông qua đào tạo nghề và giáo dục, dường như sẽ làm giảm đi số
lượng người lao động có tay nghề kém trong thời gian tới. Mục đích của chế
độ trợ cấp thất nghiệp thường được xem như là biện pháp để tạo điều kiện
cho những người bị mất việc làm, không phải do lỗi của bản thân họ, một
khoản bồi thường đủ để đáp ứng được nhũng nhu cầu ngay lập tức của họ và
khoản thu nhập tương tự này sẽ giúp họ chi trả được những chi phí cần thiết
cho đến khi tìm được việc làm mới.
3. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT THẤT NGHIỆP CỦA CHÍNH PHỦ
3.1. Chính sách của chính phủ về kinh tế:
3.1.1. Gói kích cầu của chính phủ
Từ năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra các giải pháp, chính sách quan
trọng nhằm ngăn ngừa lạm phát và ngặn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển và tăng cường thực thi các chính sách đảm
bảo an sinh xã hội, trong đó có việc triển khia gói kích thích kinh tế 8 tỷ
USD (khoảng 9% GDO năm 2008). Trọng tâm của gói kích cầu từ chính phủ
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc " bơm vốn" và áp dụng các chính sách
ưu đãi cho khu vực doanh nghiệp này trước hết là nhằm kích thích sản xuất,
từ đó tạo ra việc làm. Bên cạnh đó, kích cầu bằng việc đầu tư vào phát triển
và hoàn thiện cơ sở hạ tầng đang được đánh giá là giải pháp tối ưu hơn cả.
Đây cũng là giải pháp mà các quốc gia đã từng áp dụng trước đây. Việc đẩy
nhanh tiến độ các công trình đang thi công và làm mới, cải tạo và nâng cấp
các công trình đã xuống cấp trên phạm vi rộng không chỉ giải quyết bài toán
yếu kém về cơ sở hạ tầng của nước ta như "phàn nàn" của nhiều nhà đầu tư
nước ngoài, mà hơn thế là sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giải
quyết vấn đề lao động dư do mất việc làm từ ảnh hưởng của suy thoái. Một
vấn đề yếu kém của cơ sở hạ tầng được giải quyết, cộng hưởng của chính

sách kinh tế vĩ mô khác thì việc thu hút vốn đầu tư nhà nước sẽ trở nên khả
quan hơn khi nền kinh tế thế giới phục hồi trở lại. Kết quả của việc thực hiện
gói kích cầu lần thứ nhất của chính phủ đã hỗ trợ cho 1.100 dự án, giúp ngăn
ngừa suy thoái kinh tế cho 76.000 doanh nghiệp, giải quyết việc làm cho 1,5
triệu lao động. Tiếp đó những thành tựu đạt được, chính phủ tiếp tục triển
khai gói kích cầu thứ hai đối với doanh nghiệp. Trong gói kích cầu này,
chính phủ đặt mục tiêu là hỗ trợ để có thể giảm bớt gánh nặng về chi phí,
giúp doanh nghiệp duy trì được công ăn việc làm cho người lao động.
3.1.2. Chính sách thu hút vốn đầu tư
Để giảm tỷ lệ thất nghiệp thì nhà nước cũng cần có các chính sách để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Trước hết, cần phải quyết liệt đẩy nhanh quá trình tái
cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy cổ phần hóa, cũng như phải có cơ


chế cụ thể các doanh nghiệp này minh bạch hóa hoạt động, niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Đây cũng là một kênh quan trọng để thu hút nguồn vốn
mới, tạo đà cho sự phát triển. Đồng thời, cần đẩy nhanh thực hiện tái cấu
trúc ngân hàng thương mại xử lý các ngân hàng yếu kém… Xem xét việc
cho phép các đối tác nước ngoài được mua cổ phần các ngân hàng thương
mại. Đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, yếu kém thuộc diện tái cơ cấu thì
phải đẩy nhanh thực hiện giải pháp này nhằm thu hút vốn mới, đồng thời
cũng tạo thêm sức mạnh cạnh tranh lành mạnh cho các ngân hàng trong
nước. Nhà nước cần thực hiện chính sách kinh tế mở cửa để hội nhập quốc tế
và đặc biệt là thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Thực hiện chính sách đối ngoại và thu hút đầu tư từ nước ngoài, hiện nay
nước ta đã giao lưu thương mại với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới. Lợi thế lớn của Việt Nam đó là nằm ở vị trí trung tâm của vùng
kinh tế Trung Quốc và các nước châu Á nên rất thuận lợi cho giao thương
quốc tế. Hơn nữa, Việt Nam còn có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên
phong phú, nền chính trị, văn hóa, xã hội ổn đinh, là một thị trường tiềm

năng trong khu vực.
3.1.3. Chính sách xuất khẩu lao động:
Nhằm đưa những quan điểm trên vào thực tiễn, Chính phủ đó sử dụng rất
nhiều cụng cụ cũng như chính sách khuyến khích nhằm tạo cho hoạt động
xuất khẩu lao động những con đường phát triển thuận lợi nhất. Thông qua
nghị định 81/2003/NĐCP, Chính phủ đó có quyết định về việc thành lập quỹ
hỗ trợ xuất khẩu lao động, theo đó quỹ này sẽ hỗ trợ chi phí cho việc phát
triển thị trường lao động mới, cho việc đào tạo người lao động, việc hỗ trợ
người lao động và doanh nghiệp giải quyết rủi ro cũng như việc thưởng cho
các cơ quan, đơn vị có thành tích trong hoạt động xuất khẩu lao động. Như
vậy, quỹ này ra đời sẽ góp phần phát triển thị trường lao động, nâng cao chất
lượng và khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao
động quốc tế, đồng thời hỗ trợ rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp
trong hoạt động chính sách được vay tối đa là 20 triệu đồng mà không yêu
cầu thế chấp tài sản, điều này đó tháo gỡ rất nhiều khó khăn cho người lao
động, nhất là đối với những lao động nghèo ở nông thôn – lực lượng chính
của xuất khẩu lao động, mà trước đây không có tiền để đóng góp chi phí
xuất khẩu lao động hoặc không có tài sản để thế chấp. Đồng thời với chính
sách này, hồ sơ thủ tục xin đi xuất khẩu lao động cũng đó được giảm bớt và
trở nên đơn giản thuận lợi hơn. Mặc dù chủ trương chính sách đó được ban
hành tương đối đồng bộ và từng bước hoàn thiện, nhưng vẫn cũn chậm để
triển khai vào cuộc sống, vẫn còn tình trạng một số ngành, địa phương đứng
ngoài hoạt động xuất khẩu lao động hoặc có tham gia nhưng thiếu triệt để. Ở
một số địa phương, cán bộ còn quan liêu, cửa quyền và sách nhiễu trong việc


giải quyết thủ tục đi xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, cũng nhiều khoản
mục khác cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng vẫn còn vắng
bóng. Ví dụ như chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với vấn đề tạo lập, giữ
vững và phát triển thị trường xuất khẩu lao động, vấn đề tư pháp quốc tế,

vấn đề bảo hộ họat động xuất khẩu lao động khi tham gia vào thị trường mới

3.1.4. Các chính sách khác:
- Trợ cấp một tỷ lệ nhất định trong quỹ lương ở các doanh nghiệp
- Cắt giảm thuế tiêu thụ
- Thông qua các tổ chức công đoàn thuyết phục người lao động và chủ
doanh nghiệp chấp nhận một mức cắt giảm trong tiền lương để duy trì số
công ăn việc làm trong doanh nghiệp
- Đào tạo nghề cho bà con ở nông thôn đặc biệt là con cái của họ - Mở rộng
thị trường xuất khẩu lao động
- Chú trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo
- Hạn chế tăng dân số
3.2. Các chính sách về quản lý nhà nước (bảo hiểm thất nghiệp):
Cuối tháng 6 năm 2006, chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã được đề cập tới
trong luật bảo hiểm xã hội và được Quốc hội thông qua. Ngày 12 tháng 12
năm 2008 chính sách này được cụ thể hóa bằng nghị định 127 của Chính
phủ. Và ngày 1 tháng 1 năm 2009, Bảo hiểm thất nghiệp chính thức được áp
dụng trên toàn quốc. Nội dung chính của bảo hiểm thất nghiệp là: - Đối
tượng nhận bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo hợp
đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định
thời gian hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng – 36 tháng với người sử
dụng lao động có từ 10 lao động trở lên. - Điều kiện để được hưởng bảo
hiểm thất nghiệp là phải đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong
vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động
theo quy định của pháp luật; đã đăng ký với cơ quan lao động khi bị mất
việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động và chưa tìm được việc làm sau 15
ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động theo quy định. Với quy định
này thì tối thiểu phải tới 1- 1- 2010 các lao động bị thất nghiệp có đóng bảo
hiểm thất nghiệp mới 16 bắt đầu được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Năm 2009
mới tiến hành thu phí bảo hiểm thất nghiệp là chính.

- Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền
lương, tiền công hàng tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề
trước khi người lao động thất nghiệp, Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp sẽ
là 3 tháng nếu có đủ 12 – dưới 36 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 6 tháng
nếu có đủ 36 – dưới 72 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 9 tháng nếu có từ
đủ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 12 tháng nếu có


từ đủ 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên. Ở các quốc gia, bảo hiểm
thất nghiệp đã được áp dụng từ lâu do nó có tác động lớn tới việc giải quyết
các vấn đề việc làm nhưng đến hiện nay nó mới được áp dụng ở Việt Nam.
Bảo hiểm thất nghiệp đảm bảo cho người lao động có một khoản thu nhập
bù đắp thu nhập bị mất do thất nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho người
lao động quay trở lại thị trường lao động. Tuy nhiên do mới được áp dụng
nên tác động của bảo hiểm thất nghiệp trong việc giải quyết việc làm ở Việt
Nam còn nhiều hạn chế.
3.3. Chính sách về giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động:
Một trong những nguyên nhân gây ra thất nghiệp là do chất lượng của
nguồn phát triển nguồn nhân lực.
- Thứ nhất, công tác giáo dục và đào tạo cần phải phù hợp với yêu cầu và
thực tế phát triển của nền kinh tế. Vì thế, ngành giáo dục – đào tạo phải
không ngừng cải cách chương trình, nội dung cũng như phương pháp giảng
dạy ở tất cả các cấp, mà đặc biệt quan tâm đến giáo dục ở bậc đại học và dạy
nghề cho phù hợp với thực tế. Đào tạo nghề cần căn cứ trên định hướng phát
triển kinh tế, định hướng và quy hoạch phát triển các ngành, coi trọng công
tác dự báo nhu cầu lao động theo các trình độ, chuyên môn nhằm tránh khỏi
tình trạng thừa ở một số ngành này, nhưng lại thiếu ở một số ngành khác.
- Thứ hai, thực hiện phương châm giáo dục và đào tạo không ngừng, suốt
đời. Việc giáo dục và đào tạo không chỉ trong quá trình học tập trên ghế nhà
trường, mà phải học cả ở thực tế, học ở ngoài xã hội. Không ngừng mở rộng

giao lưu quốc tế nhằm học hỏi các kinh nghiệm, nâng cao kiến thức. Người
lao động không chỉ hiểu biết chuyên sâu về một ngành nghề, mà còn phải
biết các kiến thức tổng hợp khác như: ngoại ngữ, vi tính, giao tiếp ngoài xã
hội…
- Thứ ba, nghiên cứu, ban hành các chính sách phân luồng học sinh ngay từ
khi tốt nghiệp phổ thông trung học như quy định đối tượng được phép tham
gia thi vào các trường đại học, cao đẳng thông qua điểm học tập; khuyến
khích tham gia vào các trường dạy nghề bằng các học bổng từ ngân sách nhà
nước… - Ngoài ra còn phải định hướng, tư vấn nghề nghiệp cho học sinh,
sinh viên. Kéo dài thời gian học nghề và nâng cao trình độ đào tạo trung
bình, đào tạo và đào tạo lại, đào tạo và nâng cao năng lực hệ thống quản lý
lao động - việc làm, hỗ trợ DN trong việc tạo điều kiện cho người lao động
học tập suốt đời.
3.4. Các chính sách khác:
- Chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Mở rộng liên
doanh liên kết với nước ngoài nhằm xuất khẩu lao động tại chỗ. Chú trọng
phát triển các danh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo ra nhiều chỗ làm việc cho
lao động. Về dịch vụ, không ngừng nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ


đặc biệt là phát triển du lịch, vận tải, bưu điện, tài chính, ngân hàng - những
ngành giữ vị trí chủ đạo và then chốt trong kinh tế khu vực thành thị. Về
nông nghiệp, chuyển dịch theo hướng tăng năng suất lao động, lấy mục tiêu
hiệu quả kinh tế làm chủ đạo. Đồng thời từng bước hình thành một nền nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch. Và từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thành thị theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
- Nhà nước cần đưa ra các chính sách nhằm khuyến khích thanh niên tự tạo
việc làm, tự lập nghề.
- Chính sách đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, biên giới, hải
đảo, vùng nông thôn nghèo.

- Chính phủ đưa ra giải pháp chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và
đảm bảo an sinh xã hội, giải pháp kích cầu và đầu tư tiêu dùng để thúc đẩy
sản xuất trở lại, tạo việc làm thêm cho người lao động.
- Các chính sách hỗ trợ lao động như:
+ Giảm tuổi về hưu: khi tuổi về hưu giảm sẽ tạo ra chỗ làm cho những người
khác đến tuổi lao động;
+ Giảm giờ làm: trước kia thay vì một tuần làm 48 tiếng thì nay sẽ giảm bớt
xuống còn 40 tiếng và sau có thể giảm xuống còn 35 tiếng. Giảm giờ làm sẽ
tạo ra số chỗ làm việc mới cho người lao động khác


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tình hình kinh tế cũng như chính trị Việt Nam hiện nay thì
chúng ta có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm.Song có lẽ vấn đề nóng
bỏng nhất hiện nay không chỉ có Việt Nam chúng ta quan tâm, mà nó được
cả thế giới quan tâm đó là vấn đề thất nghiệp.Với khả năng nhận thức cũng
như hạn chế của bài viết, chính vì thế mà bài viết này chúng ta không phân
tích kỹ từng vấn đề cụ thể. Như vậy từ những lý do phân tích ở trên, cũng
như tình hình thực tế
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, vấn đề đầu tiên cũng là cuối cùng
quyết định sức sống của một nền kinh tế, quyết định mức độ giàu nghèo của
xã hội vẫn là con người.Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã trở nên giàu
mạnh nhờ có chiến lược đào tạo nghề, bồi đắp nguồn nhân lực một cách bài
bản, lâu dài. Từ đó, họ chuyển dịch nền kinh tế theo cơ cấu hiện đại, lấy dịch
vụ làm động lực để tăng nhanh thu nhập, đặc biệt là từ đó tạo điều kiện cho
sức lao động có them giá trị gia tăng. Nước ta còn nghèo nàn, vốn đầu tư còn
phải đi vay, kỹ thuật – công nhệ còn phải đi mua. Nhưng ta lại có nguồn lực
lao động khá dồi dào, giá rẻ. Đây là những vấn đề cần được phân tích, trên
cơ sở khắc phục những mặt tồn tại, phát huy thế mạnh, để lực lượng lao
động mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhất, đồng thời góp phần bình ổn xã hội.

Thực tế đang thu hút và yêu cầu sự quan tâm từ phía Nhà nước, các ngành
kinh tê cũng như mỗi người lao động. Trong các vấn đề quan trọng hàng
đầu, nối cộm nhất là việc sử dụng lao động và thất nghiệp – 1 trong 5 đỉnh
của ‘‘ngũ giác mục tiêu’’ (tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp , thất
nghiệp ít, tỉ lệ nghèo thấp, cán cân thanh toán có số dư). Thất nghiệp không
chỉ là sự lãng phí mà còn làm cho thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán
của dân cư thấp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế trong nước, cũng như
việc ‘‘gọi’’ các nhà đầu tư nước ngoài. Thất nghiệp làm cho tỉ lệ nghèo cao
và sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục tăng. Bên cạnh những biện pháp chỉ đạo
của chính phủ thì chính con người chúng ta cũng là một nhân tố quyết định,
đặc biệt là thế hệ trẻ, những chủ nhân tương ali của đất nước phải luôn trao
dồi kiến thức; tận dụng thời gian và nâng cao năng lực để theo kịp với tiến
triển của nền kinh tế đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, một thế giới mới,
một thế giới của sự văn minh, giàu có và công bằng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2. o
3.
4.
5.
6. Giáo trình Kinh tế vĩ mô ĐH Kinh tế



×