Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG DOANH NGHIỆP DỰ ÁN XÂY DỰNG TRUNG TÂM HỘI NGHỊ HỘI AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.53 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
-----***-----

THU HOẠCH THỰC TẬP TỐT
NGHIỆP
PHÂN TÍCH ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DỰ
ÁN TRONG DOANH NGHIỆP - DỰ ÁN XÂY DỰNG TRUNG
TÂM HỘI NGHỊ HỘI AN

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Quốc Nhật
Mã sinh viên: 1413330051
Lớp: Khối 1 – Anh 2 – TCNH
Khóa: K53
Người hướng dẫn khoa học: Thạc sĩ Lê Thế
Bình

Hà Nội, tháng 5 năm 2018



MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng toàn cầu không
chỉ trong riêng lĩnh vực kinh tế mà còn trong cả văn hóa, chính trị xã
hội, điều này đã tạo ra rất nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp
phát triển. Tuy nhiên, kèm với đó cũng là những thách thức bởi sự gia
tăng trong sức ép cạnh tranh từ những đối thủ cạnh tranh trong


nước, các tập đoàn đa quốc gia gia nhập thị trường Việt Nam thay
những thay đổi liên tục từ phía các chính sách của chính phủ với nền
kinh tế và đặc biệt trong đó là sự thay đổi trong nhu cầu và đòi hỏi
khắt khe từ phía khách hàng. Bởi vậy muốn phát triển bền vững, tạo
dựng được chỗ đứng vững chắc trên thị trường các doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn phải ý thức được tầm
quan trọng của việc nghiên cứu phát triển các dự án đầu tư vào phát
triển sản phẩm mới, có tính cạnh tranh cao, tạo ra được sự khác biệt
trong chất lượng và khẳng định được giá trị trên thị trường.
Với các dự án mang tính chất đưa tới thị trường các sản phẩm
dịch vụ mang tính đi đầu, khác biệt mới lạ đồng nghĩa với việc gia
nhập một lĩnh vực mới của thị trường luôn là cơ hội lớn để đi trước
đón đầu và ít chịu sức ép cạnh tranh của đối thủ, đặc biệt là xu thế
hiện nay khi tại Việt Nam rất nhiều mô hình kinh doanh mới được
nghiên cứu học hỏi từ các quốc gia phát triển, nhất là trong lĩnh vực
thương mại điện tử và cách ngành dịch vụ. Tuy nhiên với những bài
học các thất bại với tổn thất to lớn về cả tài chính và thương hiệu
doanh nghiệp đòi hỏi các công ty phải nghiêm túc trong việc đặt vấn
đề khi triển khai các dự án đầu tư của mình. Để hạn chế rủi ro, bất kỳ
dự án nào cũng cần phải được phân tích, đánh giá một cách toàn
diện trên các khía cạnh phân tích thị trường, phân tích nguồn lực,
phân tích các vấn đề liên quan tới môi trường và kinh tế xã hội cũng
như đặc biệt là phân tích tài chính dự án. Trong điều kiện hết sức khó
khăn, nguồn lực khan hiếm thì việc có được những phân tích hiệu
quả tài chính của một dự án bài bản, thông tin đáng tin cậy sẽ là cơ
sở cho nhà doanh nghiệp sàng lọc và đưa ra quyết định tốt nhất với
một dự án đầu tư, có dự báo và kế hoạch ứng phó với các biến động
được dự báo.
Với sự ý thức được tầm quan trọng của các vấn đề kể trên cũng
như thông qua quá trình thực tập tại Cty cổ phần Gami Theme Park,



kết hợp các số liệu thực tế tại đơn vị và số liệu thu thập tổng hợp
nghiên cứu em quyết định hoàn thành báo cáo thực tập đề tài
“NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DỰ
ÁN TRONG DOANH NGHIỆP - DỰ ÁN XÂY DỰNG TRUNG TÂM
HỘI NGHỊ HỘI AN”.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TẠI DOANH NGHIỆP

1. Tổng quan về đầu tư và dự án đầu tư
1.1. Đầu tư
GS.TS.NGƯT. BÙI XUÂN PHONG (2006) nếu rõ “Hoạt động đầu tư
(gọi tất là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao
động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực
tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các
cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.”
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các
kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để
đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên
nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có thể là sự
tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và
nguồn lực.
Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại nhằm đêm lại cho nền kinh tế - xã hội những kết
quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được

các kết quả đó.
Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử
dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động
và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong một thời gian tương đối dài
nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
Một số đặc điểm của dự án đầu tư:

- Thời gian tương đối dài: thông thường dự án đầu tư kéo dài từ 2 năm
trở lên, có thể thấm chí tới 50 năm nhưng tối đa không quá 70 năm.
Những hoạt động ngắn hạn trong vòng 1 năm tài chính không được
xem là đầu tư.

6


- Hiệu quả hoạt động đầu tư: được đo lường trên 2 khía cạnh là lợi ích
tài chính (biểu hiện qua lợi nhuận, là thước đo lợi ích nhà đầu tư
nhận lại được) và lợi ích kinh tế xã hội (thể hiện thông qua các chỉ số
đóng góp vào kinh tế xã hội, thể hiện những tác động tới nền kinh tế

1.2.

và động đồng xã hội).
Dự án đầu tư
Khái niệm: Theo luật đầu tư thì dự án đầu tư là tập hợp các đề
xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên

-

địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.

Như vậy dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ khác nhau:
Về mặt hình thức nó là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách
chi tiết và có hệ thống các hoạt động cần triển khai và chi phí theo
một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những

-

mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý sử dụng
vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xã hội

-

trong một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển

-

kinh tế - xã hội, làm tiền đề cho cho các quyết định đầu tư và tài trợ.
Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên
quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định
bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định,
thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Các yêu cầu cơ bản với một dự án đầu tư cần có:

- Thứ nhất: Tính khoa học – Một bản dự án đầu tư cần phải cho thấy
quá trình nghiên cứu nghiêm túc kỹ càng, xem xét tính toán một
cách cẩn thận, chính xác từng nội dung của dự án đặc biệt là nội
dung về tài chính, nội dung về công nghệ kỹ thuật. Tính khoa học

còn thể hiện trong quá trình soạn thảo dự án đầu tư cần có sự tư vấn

-

của các cơ quan chuyên môn.
Thứ hai: Tính thực tiễn – Mỗi phần nội dung của một dự án cần phải
được nghiên cứu chuẩn bị một cách kỹ lương trong đó xem xét đánh

7


giá hợp lý các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể ảnh hưởng trực tiếp và

-

gián tiếp tới thực hiện dự án.
Thứ ba: Tính pháp lý: Dự án đầu tư cần có cơ sở pháp lý vững chắc,
đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật với lĩnh vực dự án đang
hướng tới. Muốn vậy nhà đầu tư, người tạo lập dự án… cần phải
nghiên cứu kỹ lưỡng và tham khảo chi tiết các văn bản pháp luật
cũng như các trường hợp tương tự đã thực hiện.
Phân loại dự án đầu tư:

- Theo chức năng quản trị vốn đầu tư: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
-

tiếp.
Theo nguồn vốn dự án: Vốn đầu tư ngân sách nhà nước, đầu tư tư
nhân, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, dự án đầu tư bằng nguồn


-

vốn hỗn hợp, dự án sử dụng nguồn viện trợ nước ngoài ODA...
Theo mục đích đầu tư: đầu tư mở rộng, đầu tư vào lĩnh vực mới, đầu
tư thay thế, đầu tư phát sinh. Đây là một tiêu chí quan trọng mà chủ
đầu tư hoặc các đơn vị cấp vốn hết sức quan tâm bởi nó liên quan
trực tiếp đến đánh giá hiệu quả của dự án đó nói riêng và các đối

1.3.
-

tượng chịu ảnh hưởng bởi dự án nói chung.
Các bước nghiên cứu và triển khai một dự án khả thi
Thứ nhất: Nghiên cứu phát hiện cơ hội đầu tư, có thể là tình cờ
ngẫu nhiên hoặc nhờ hoạt động dựa trên cơ sở phát hiện các nhu cầu
hiện tại và khả năng phát triển nhu cầu trong tương tai, phân tích
các mong muốn cụ thể, nghiên cứu tâm lý học hành vi tiêu dùng và
tâm lý học hành vi tài chính theo hướng nghiên cứu phân tích của
hoạt động R&D trong phương pháp marketing nhằm có một cái nhìn
toàn diện về vấn đề mục tiêu… tiếp theo đánh giá khả năng thực
hiện dự án trên cơ sở phân tích các nguồn lực sẵn có và có thể đạt
được, phân tích các chính sách và mục tiêu quốc gia dài hạn với các
dự án đầu tư tư chính phủ… và đưa ra một kể quả, mục tiêu cụ thể

-

sẽ có thể thu được khi hoàn thành dự án.
Thứ hai: Nghiên cứu tiền khả thi, sau khi nghiên cứu phát hiện được
một hoặc một số cơ hội đầu tư, bước tiếp theo là sàng lọc kỹ lưỡng


8


để loại bỏ các dự án không thực sự hiệu quả hoặc kém hiệu quả so
với phần còn lại. là bước nghiên cứu tiếp theo của các cơ hội đầu tư
có nhiều triển vọng đã được lựa chọn có quy mô đầu tư lớn, phức tạp
về mặt kỹ thuật, thời gian thu hồi vốn lâu, có nhiều yếu tố bất định
tác động. Bước này nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh mà khi xem
xét cơ hội đầu tư còn thấy phân vân chưa chắc chắn, nhằm tiếp tục
lựa chọn, sàng lọc các cơ hội đầu tư (đã được xác định ở cấp độ
ngành, vùng hoặc cả nước) hoặc để khẳng định lại cơ hội đầu tư đã
được lựa chọn có đảm bảo tính khả thi hay không. Mục đích nghiên
cứu tiền khả thi nhằm loại bỏ các dự án bấp bênh (về thị trường, về
kỹ thuật), những dự án mà kinh phí đầu tư quá lớn, mức sinh lợi nhỏ,
hoặc không thuộc loại ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội hoặc chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó các chủ
đầu tư có thể hoặc loại bỏ hẳn dự án để khỏi tốn thời gian và kinh

-

phí, hoặc tạm xếp dự án lại chờ cơ hội thuận lợi hơn.
Thứ ba: Nghiên cứu khả thi, là bước cuối cùng trong sàng lọc nghiên
cứu và ra quyết định lựa chọn đầu tư. Mọi khía cạnh nghiên cứu đều
được xem xét ở trạng thái động, tức là có tính đến các yếu tố bất
định có thể xảy ra theo từng nội dung nghiên cứu. Xem xét sự vững
chắc hay không của dự án trong điều kiện có sự tác động của các
yếu tố bất định, hoặc cần có các biện pháp tác động gì để đảm bảo
cho dự án có hiệu quả.

9





Nghiên cứu khả thi: sau sàng lọc phải tến hành nghiên cứu hoạch dự án một các cụ thể chi tết đánh giá kỹ lưỡng để đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng.
lọc sơ bộ.
Triển khai hoạt động R&D, phát hiện nhu cầu và cơ hội đầu tư, đánh giá tổng quan các nhân tố nguồn lực trong doanh nghiệp và tác động ngoài doanh nghiệp để sàng



Phải xem trọng vấn đề quản trị dự án để đảm bảo thực hiện theo tến độ và tránh lãng phí nguồn lực, liên tục kiểm soát điều chỉnh



Chuẩn bị đầu tư
khai.
Dựa trên kế hoạch cụ thể của dự án (đã xem xét đánh giá và dự báo các nhân tố gồm chi phí, tnh pháp lý, nhân lực, công nghệ, tến độ...) để phân bổ nguồn lực triển



Triển khai vận hành hàng loạt và thu hồi vốn, đảm bảo lợi nhuận mục têu.



Thực hiện đầu tư
ứng đón nhận từ công chúng.



Chạy thử và nghiệm thu sản phẩm cuối của dự án với các dự án liên quan tới xây dựng lắp đặt thi công ... hoặc đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ và đánh giá hiệu



Vận hành kết quả đầu

Sơ đồ 1.2. Quy trình triển khai dự án đầu tư
Đề dự án đầu tư có kết quả tốt và đạt được hiệu quả mong muốn
doanh nghiệp không được bỏ qua bước nào và cần cân nhắc hợp lý
cho từng giai đoạn, phân bổ chi phí và thời gian phù hợp. Giai đoạn
trước đầu tư, chi phí thường chiếm khoảng 3-20% của tổng chi phí
đầu tư tùy thuộc lĩnh vực dự án đầu tư đang triển khai tuy nhiên lại là
giai đoạn vô cùng quan trọng quyết định thành bại của dự án. Giai
đoạn thực hiện đầu tư luôn chiếm hầu hết tổng chi phí đầu tư.

1.4. Ý nghĩa của hoạt động đầu tư
1.4.1 Đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung
Hoạt động đầu tư dưới các mức độ khác nhau về giá trị hay
phạm vi đầu tư, dù dưới hình thức nhỏ lẻ hay là một tổ hợp của nhiều
dự án nhỏ đi kèm… thì vẫn luôn tạo ra những ảnh hưởng hết sức
quan trọng của cho nền kinh tế, đóng góp thúc đẩy nền kinh tế vận
hành liên tục, tạo việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp, gia
tăng sản lượng sản xuất. Một dự án đầu tư sẽ là một cú hích cho
nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thương mại … tham gia vào quá và
qua đó là động lực cho phát triển kinh tế quốc gia.
1.4.1.1 Đầu tư vừa tác động tới tổng cung vừa tác động
đến tổng cầu

10


- Về mặt cầu: đầu tư được xem như một hình thức chi tiêu nhằm đạt

được mục tiêu trong dài hạn, vì vậy với giá trị của khoản đầu tư
thường tương đối lớn cho với chi tiêu doanh nghiệp nên nó tạo ra ảnh
hưởng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cầu nền kinh tế. Theo số
liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% -28%
trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng
cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay
đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch
chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 -Q1 và giá
cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0-P1. Điểm cân bằng dịch

-

chuyển từ E0-E1.
Về mặt cung: Khi hoạt động đầu tư bắt đầu phát huy các hiệu quả
mục tiêu, các năng lực mới tạo ra đó đi vào hoạt động thì ắt sẽ tạo ra
nguồn cung nhất định, đặc biệt là cung trong dài hạn, vì thế là nhân
tố đóng góp vào tổng cung. Kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ
Q0-Q1 và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P0-P1. Sản lượng tăng, giá
cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại
tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn
gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập
cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã
hội.

Hình 1.1. Tác động của đầu tư lên tổng cung, tổng cầu

11


Một cách cụ thể hơn khi xem xét tác động của đầu tư lên vấn đề

cung, cầu của nền kinh tế rằng dù là sự gia tăng cung cầu đồng thời
hay không cũng đều tác động lên sự ổn định của nền kinh tế. Rõ
ràng nhất là theo lý thuyết cầu kéo chỉ rõ đầu tư tăng làm gia tăng
trong tổng cầu, dẫn đến sự tăng giá trong giá chi phí vốn, giá công
nghệ, lao động, vật tư đầu vào… dẫn đến gia tăng trong làm phát ở
mức độ nhất định. Và sự gia tăng làm phát này sẽ ảnh hưởng đến
kinh tế theo hai mặt, nếu mức độ gia tăng tổng cầu không vượt quá
xa khả năng của nền kinh tế (sản lượng tiềm năng) thì khi tổng cung
gia tăng theo sẽ làm tăng các yếu tố liên quan như giảm thất nghiệp,
sản xuất tăng trưởng, nâng cao đời sống xã hội, giảm tệ nạn xã hội…
Nhưng ở chiều ngược lại nếu vấn đề lạm phát vượt qua tầm kiểm
soát thì dẫn tới khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế đình trệ.
1.4.1.2 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế
Theo Harrod – Domar, đầu tư chính là nguồn gốc quan trọng
nhất, là động lực của phát triển kinh tế. Đối với các quốc gia đặt mục
tiêu có tăng trưởng mạnh điển hình như Việt Nam hay các quốc gia
đang phát triển, ưu tiên thu hút đầu tư theo chiều rộng từ các nguồn
vốn đầu tư trong và ngoài nước nhằm tăng khả năng sản xuất, tăng
trưởng sản lượng và giải quyết các vấn đề về lao động và công nghệ
dù cho phải đánh đổi với lạm phát. Điều này đóng vai trò như một cú
hích cho nền kinh tế.
1.4.1.2 Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo
hướng tiến bộ
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con dường tất
yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10% ) là tăng
trưởng đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và
dịch vụ. Đối với các nghành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế
về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng
từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình


12


dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở các nước nhằm đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân
đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát
triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế
so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... những vùng có
khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển.
1.4.1.3 Đầu tư làm tăng năng lực khoa học và công nghệ
quốc gia
Việc một hoạt động đầu tư được triển khai thì theo đó là các yêu
cầu về khoa học kỹ thuật được nghiên cứu để gia tăng hiệu quả, thúc
đẩy lợi nhuận. Điều đó yêu cầu một đội ngũ nhân lực có kỹ năng và
trình độ đáp ứng các tiêu chí đó kéo theo sự thúc đẩy mạnh mẽ trong
công tác đào tạo giảng dạy và nghiên cứu của hệ thống giáo dục,
các viện nghiên cứu quốc gia cũng như nhu cầu mong muốn tiến bộ
từ bản thân người lao động và học sinh sinh viên.
Có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát
minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự
nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có
vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn
vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. Và dù với cách thức
nào cũng đều tạo ra sự chuyển biến tích cực cho nền tảng khoa học
kỹ thuật trong nước.
1.4.2


Đầu tư tác động đến doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp thì đầu tư có vai trò quyết định dến cả
sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở nào cũng cần phải xây

13


dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy
móc trên nền bệ, tiến hành công tác xây dựng cơ bản và thực hiện
các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì của các
cơ sở vật chất kĩ thuật vừa được tạo tạo ra. Các hoạt động này chính
là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kĩ thuật
của các cơ sở này đã hao mòn, hư hoảng. Để duy trì dc sự hoạt động
bình thường cần định kì tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới để
thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kĩ
thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm
các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời,
cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Ra quyết định lựa chọn và triển khai một dự án đầu tư được xem là
một trong những quyết định quan trọng nhất của một doanh nghiệp
hay các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nguồn lực bỏ ra cho triển khai
một dự án đầu tư bao gồm vốn, nhân lực, … với mong muốn đạt
được mục tiêu tích cực nhưng các nhân tố chủ quan hoặc khách
quan chưa được tính toán kỹ lưỡng ảnh hưởng tới vấn đề tiến độ hay
hiệu quả cuối cùng có thể tác động tới sống còn của doanh nghiệp.
1.5.

Phân tích hiệu quả tài chính dự án đầu tư


1.5.1 Khái niệm
Phân tích hiệu quả tài chính dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động
nghiên cứu, phân tích, đánh giá các chỉ tiêu tài chính của một dự án
trên cơ sở dòng tiền dành cho và phát sinh từ dự án đầu tư, dựa trên
các quan điểm khác nhau của các chủ thể tham gia vào dự án.
Hoạt động phân tích tài chính dự án cũng phải được triển khai song
song với cả 3 quá trình thực hiện dự án là giai đoạn chuẩn bị, giai
đoạn thực hiện và giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Tuy nhiên bởi

14


hạn chế trong thời gian và giới hạn nghiên cứu báo cáo này tập trung
vào phân tích hiệu quả tài chinh của giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Với tầm quan trọng đã đề cập ở mục 1.3 của giai đoạn chuẩn bị đầu
tư từ tiền nghiên cứu khả thi tới nghiên cứu khả thi trong việc quyết
định thành bại của dự án, kết quả phân tích hiệu quả tài chính sẽ là
cơ sở tiền đề phục vụ sàng lọc và ra quyết định đầu tư của chủ
doanh nghiệp.
Tóm lược quá trình các bước phân tích:

- Xác định các thông số của dự án, ước lượng dòng tiền
-

dành cho và phát sinh theo dự án đó.
Xác định mức tỷ suất chiết khấu hợp lý cho dự án.
Tính toán, lựa chọn và phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu

-


quả tài chính của dự án.
Phân tích rủi ro của dự án dựa trên nhân tố quan trọng là
các chỉ số tài chính và đưa ra dự báo, giải pháp phù hợp.

1.5.2 Các chỉ tiêu đánh giá xem xét dưới quan điểm khác
nhau của các chủ thể tham gia vào dự án đầu tư

Quan điểm Tài chính

Kinh tế-xã Phân phối Nhu
cầu
hội
thu nhập
cơ bản

Ngân hàng
A
Chủ đầu tư B

quan C
ngân sách
Chính phủ
D
Bảng 1.1 Các quan điểm từ những bên

E
E
E


-

E
F
liên quan khi ra quyết định

đầu tư

- A. Ngân hàng

Quan điểm của ngân hàng hay quan điểm tổng đầu tư (TIPV –

Total Investment Point Of View) được diễn tả bằng trường hợp "A", là
nền tảng mà các thành viên liên quan dựa vào để đánh giá khả năng

15


thu lợi của họ. Một cách chính thức hơn, quan điểm của ngân hàng
có thể được diễn tả như sau:
A = Quan điểm tổng mức đầu tư = Lợi ích tài chính trực tiếp Chi phí tài chính trực tiếp - Chi phí cơ hội của các tài sản hiện có
Theo đó các ngân hàng xem xét tới dòng tài chính chi cho
dự án (kể cả phần trợ giá) và các lợi ích (bao gồm cả phần trả thuế)
với cả lợi ích và chi phí được xác định giá trị theo mức giá cả tài
chính của chúng. Từ sự phân tích của những dòng tài chánh tiềm
năng này, các ngân hàng sẽ xác định được tính khả thi tài chính của
dự án, nhu cầu cần vay vốn của dự án cũng như khả năng trả nợ vay
của dự án.

- B. Nhà đầu tư (EPV – Equity Investment Point of View)


Giống như ngân hàng, chủ đầu tư xem xét mức gia tăng thu

nhập ròng của dự án so với những gì họ có thể kiếm được trong
trường hợp không có dự án; vì vậy, chủ đầu tư xem những gì mà họ
bị thiệt mất khi thực hiện dự án như là chi phí. Khác với ngân hàng,
chủ đầu tư cộng vốn vay ngân hàng vào khoản thu, và trừ tiền trả lãi
và nợ gốc vào khoản chi.
Như vậy, đối với chủ đầu tư của dự án, ngân lưu ròng tương ứng
có thể được diễn tả như sau:
B = A + Vay ngân hàng -Trả lãi và nợ vay
C. Cơ quan ngân sách của chính quyền (Government
Budget Point of View)
Trường hợp "C" tính đến tác động của dự án đầu tư theo quan
điểm của cơ quan quản lý ngân sách chính quyền. Đối với cơ quan
ngân sách, các dự án có thể cần chi dưới dạng trợ giá hay các khoản
trợ cấp khác và cũng có thể tạo thu nhập từ phí sử dụng và thuế thu
trực tiếp hay gián tiếp. Do đó, đối với cơ quan quản lý ngân sách
chính quyền, thu nhập tài chính ròng do một dự án tạo ra có thể
được diễn tả như sau:
C = Thuế và phí sử dụng trực tiếp và gián tiếp - Trợ giá và trợ
cấp trực tiếp và gián tiếp
D. Quốc gia – Quan điểm kinh tế

16


Khi sử dụng phân tích kinh tế để tính toán mức sinh lợi của dự án
theo quan điểm của toàn quốc gia, các nhà phân tích phải sử dụng
giá cả kinh tế để xác định trị giá của các nhập lượng và xuất lượng

của dự án và thực hiện những điều chỉnh cần thiết khác. Những giá
cả kinh tế này đã có tính đến thuế và trợ giá. Ngoài ra, các nhà phân
tích phải bổ sung thêm về ngoại ứng hay các lợi ích hoặc chi phí mà
dự án tạo ra cho người hay cảnh vật bên ngoài vùng dự án. Theo
quan điểm của toàn quốc gia, các hoạt động phải hy sinh để thực
hiện dự án phải được tính là chi phí. Cuối cùng, thẩm định kinh tế
của một dự án còn điều chỉnh cho thuế và trợ giá, và không tính tới
vốn vay vì chúng chỉ thể hiện những dòng tiền chứ không phải là tài
nguyên thực sự. Vì vậy, lợi tức kinh tế của dự án, theo quan điểm của
toàn quốc gia, có thể được diễn tả như sau:
D = Tổng lợi ích kinh tế - Tổng chi phí kinh tế
E. Quan điểm phân phối thu nhập
Trong phân tích phân phối thu nhập (ký hiệu là E) được xây dựng
bằng tất cả ngoại ứng do dự án tạo ra làm thay đổi thu nhập của các
nhóm khác nhau trong xã hội. Và nhà phân tích tính toán lợi ích tài
chánh ròng mà dự án mang lại cho những nhóm đối tượng khác nhau
khi họ bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp bởi dự án, sau khi đã trừ
đi chi phí cơ hội của họ. Phân tích phân phối thu nhập được xây dựng
trên cơ sở các phân tích kinh tế và tài chánh với điều kiện chúng
được thực hiện theo quan điểm của mọi thành phần liên quan tới dự
án.
1.5.3. Ước tính các dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Mỗi dự án khi đi vào triển khai thực tế, do thời gian kéo dài và
liên tục phát sinh các khoản thu chi có thể đã được tính đoán trong
kế hoạch hoặc nảy sinh ngoài dự tính trong những khoảng thời gian
khác nhau. Các khoản thu và chi đó tạo thành dòng tiền của dự án.
Dòng tiền của dự án là những dòng thu nhập và chi phí tài chính
mà nó tạo ra trong suốt thời gian vận hành của dự án.

17



Xem xét dựa trên nguyên tắc giá trị thời gian của tiền, nên khi
đem các số liệu tài chính đó để tính toán, phân tích và so sánh thì
các số liệu tài chính đó cần phải được quy về chung một mốc thời
gian có thể là đầu kỳ hoặc cuối kỳ (thông thường được sử dụng
phương pháp hiện giá – quy về mốc thời gian đầu kỳ present value
PV)
Một số nguyên tắc hoạch định dòng tiền:

- Dòng tiền nên được đo lường trên cơ sở tăng thêm: cần lưu ý, khi
không có dự án vẫn có dòng tiền củacông ty. Do đó, khi xem xét dự
án chúng ta chỉ xem xét sự khác biệt giữa dòng tiền của công ty khi
có dựán và khi không có dự án. Nói khác đi, trong phân tích dự án
chúng ta chỉ chú ý đến dòng tiền tăng thêm,tức chỉ xem xét chênh
lệch giữa dòng tiền khi tăng thêm (dòng tiền ra) và lợi ích tăng thêm
(dòng tiền vào). Nếu hiện giá lợi ích tăng thêm lớn hơn hiện giá chi
phí tăng thêm thì dự án đáng được chấp nhận.
Dòng tiền nên được tính toán trên cơ sở sau thuế:
+ Vì đầu tư ban đầu cho một dự án đòi hỏi chi phí bằng
tiền mặt sau thuế, nên thu nhập của dự án cũng phải được tính
bằng cùng đơn vị, tức là các dòng tiền sau thuế.
+ đánh giá dòng tiền sau thuế sẽ chính xác hơn những lợi ích từ
lá chắn thuế.

- Các chi phí chìm không được tính toán vào dòng tiền của dự án: Về
mặt tính toán, do các chi phí này phát sinh trước thời điểm bắt đầu
triển khai dự án (thời điểm 0), còn xét ở chiều hướng khác, dù là chi
phí chìm đó có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực, sai lầm cho dự án
đang được nghiên cứu thì về bản chất nó là chi phí đã xảy ra trong

quá khứ không thể thay đổi được nên khi ra quyết định cần loại bỏ

-

chi phí đó để cân nhắc khách quan.
Giá trị các tài sản sử dụng trong một dự án nên được tính theo các
chi phí cơ hội của chúng: các chi phí cơ hội của tài sản là dòng tiền
mà các tài sản đó có thể tạo ra nếu chúng không được sử dụng trong
dự án đang xem xét. Chi phí cơ hội không phải là một khoản thực chi

18


nhưng vẫn được tính vào vì đó là một khoản thu nhập mà công ty
phải mất đi khi thực hiện dự án.
Công thức chung để xác định dòng tiền của dự án:
Phương pháp gián tiếp:
Dòng tiền của dự án
NCF = OFC + giá trị còn lại của tài sản cố định sau thuế - chi

-

tiêu vốn của dự án – Thay đổi vốn lưu động ròng
OFC = (1-t)×EBIT + D
OFC: dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của dự án.
EBIT: Lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
T: Thuế thu nhập doanh nghiệp.
D: khấu hao tài sản cố định của dự án.
Chi tiêu vốn (Capital expenditure): là các khoản chi tiêu tiền mặt
nhằm tạo ra lợi nhuận trong tương lai kéo dài hơn 1 năm ví dụ mua

sắm máy móc thiết bị. Chi tiêu vốn khác với chi tiêu hoạt động bình
thường là các khoản chi nhằm thu được lợi ích tiền mặt trong khoảng

-

thời gian ngắn trong giai đoạn năm tiếp theo.
Thay đổi vốn luân chuyển ròng: Vốn luân chuyển ròng bao gồm các
tài sản lưu động (Nguyên vật liệu, hàng tồn kho, tiền mặt) – Nợ ngắn
hạn. Nếu dự án xét theo giai đoạn hàng năm, thì thay đổi vốn luân
chuyển ròng giữa các năm trong giai đoạn hoạt động của dự án sẽ
được tính vào dòng tiền của dự án. Nếu thay đổi tăng, thì số chênh
lệch được tính trong dòng tiền ra của dự án, nếu thay đổi giảm thì số

-

chênh lệch sẽ được tính trong dòng tiền vào của dự án.
Giá trị còn lại của tài sản cố định sau thuế: Với bất kỳ tài sản cố định
nào khi hết vòng khấu hao đều được xem xét ở mức giá trị thanh lý.
Với một dự án đầu tư thì giá trị thanh lý đó được xem là đóng góp giá
trị thanh lý còn lại đó vào dòng tiền của dự án.
Trên cơ sở xem xét các yếu tố dòng tiền vào ra của dự án, ta sẽ
phân tích tính toán dự báo các dòng tiền qua từng năm theo bảng
dưới đây.

-

Năm
0
1
Dòng tiền NCF0

NCF
ròng
1
2
Trong đó:
- NCFt: dòng tiền ròng năm thứ t
n: Số năm vòng đời dự án hoạt động.

19

2
NCF




n
NCF
n


Phương pháp trực tiếp:
Người lập dự án liệt kê cẩn thận các dòng thu, chi của từng giai
đoạn cụ thể để tính dòng tiền trong suốt vòng đời dự án đầu tư.

-

Trong đó giá trị dòng tiền ròng được tính theo công thức:
NCFi = Bi - Ci
NCFi: dòng tiền ròng năm i.

Bi và Ci lần lượt là dòng tiền thực thu và thực chi của dự án năm i.
1.5.4 Xây dựng mức tỷ suất chiết khấu
Chiết khấu: Là một đại lượng được sử dụng để thể
hiện sự chênh lệch giá trị của đồng tiên theo thời gian. Áp dụng
phương pháp chiết khấu để tính toán các nhân tố tài chính cho dự án
đầu tư vì đồng tiền có chi phí cơ hội. Với đặc thù tỷ lệ chiết khấu
trong thời gian ngắn thường sấp xỉ bằng mức lãi suất tương đương
trên thị trường (trong thời gian ngắn các kênh đầu tư thường cho tỷ
lệ lãi suất khá tương đương) nhưng trong khoảng thời gian dài đặc
biệt là với hoạt động đầu tư (kéo dài từ vài năm tới 15-20 năm hoặc
thậm chí với đầu tư cơ sở hạ tầng xây dựng thậm chí vòng đời hoạt
động đầu tư có thể lên tới vài chục năm) vì vậy tỷ lệ chiết khấu có sự
khác biệt nhất định. Đặc thù của tỷ suất chiết khấu được tính toán
dựa trên 3 cơ sở: chi phí cơ hội (lạm phát và lãi suất trong quá trình
đầu tư), rủi ro và tỷ suất sinh lời (với hoạt động định giá hiệu quả đầu
tư).

Chi phí cơ hội: Chi phí cơ hội của đồng tiền thể hiện sự đánh đổi

khi lựa chọn sử dụng đồng tiền vào mục đích tốt hơn thay vì các cơ
hội đầu tư khác. Trong thị trường vốn có nhiều phương án đầu tư và
chi phí cơ hội của đồng tiền thể hiện thông qua sự đánh đổi: lãi suất
ngân hàng với rủi ro thấp, lãi suất từ các loại chứng khoán hay các
kênh đầu tư… Do đó cơ hội sinh lời rất đa dạng với các mức chi phí
cơ hội khác nhau.
Các phương pháp xác định tỉ suất chiết khấu của dự án:
Tỷ lệ chiết khấu là đại lượng dựa trên chi phí cơ hội của đồng
tiền khi xem xét hoạt động đầu tư, được tính toán cân nhắc dựa trên
nhiều nhân tố như lãi suất, lạm phát, rủi ro… Tuy nhiên để đưa ra


20


được một con số chính xác và đáng tin cậy khá khó khăn, phụ thuộc
rất nhiều vào vấn đề cơ cấu vốn của dự án.
Đa phần mọi người thường coi “Lãi suất chiết khấu = Lợi tức
phi rủi ro + phần bù rủi ro”. Tuy nhiên để hiểu và làm rõ cái đơn

-

giản này cần thông qua các phương pháp cụ thể dưới đây.
Phương pháp cơ cấu vốn:
Thứ nhất: Vốn đầu tư cho dự án toàn bộ là vốn nợ
Đối với những dự án mới, nếu vốn tài trợ cho dự án hoàn toàn là
nợ thì lãi suất chiết khấu được sử dụng để chiết khấu các dòng tiền

của dự án chính là:
Chi phí nợ sau thuế = (1- T)Kd
Trong đó:
 Kd: Chi phí nợ trước thuế.
 t: Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thứ hai: Vốn đầu tư cho dự án toàn bộ là vốn chủ sở hữu
Khi một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, lượng tiền mặt dư
thừa thì sẽ có 2 phương án: hoặc là trả cổ tức cho cổ đông, hoặc là
tiếp cận các dự án mới với dòng tiền dư thừa đó. Lựa chọn phương án
nào còn phụ thuộc vào chiến lược phát triển theo chiều sâu chiều
rộng của doanh nghiệp hay vào lợi nhuận sinh ra từ dự án trên mức
rủi ro tương đương. Tuy nhiên dù với lý do gì thì dự án sẽ được chấp
nhận chỉ khi mức lãi suất kỳ vọng của nó lớn hơn mức lợi tức kỳ vọng
của tài sản tài chính tương đương (tức là các loại chứng khoán có

cùng lợi nhuận và rủi ro như cổ phiếu của doanh nghiệp).
Xem xét dưới giác độ doanh nghiệp thì lợi tức kỳ vọng chính là
chi phí vốn chủ sở hữu. Thông qua mô hình CAPM ta xác định được
lợi tức kỳ vọng của cổ phiếu doanh nghiệp hiện tại:
Chi phí vốn chủ sở hữu = R = Rrisk-free + β × (Rmarket - Rrisk-free)
Tuy nhiên phương pháp này nếu xây dựng ở phạm vi doanh
nghiệp SME hoặc các dự án nhỏ khá phức tạp để có thể tính toán hệ

-

số β.
Thứ 3: Phương pháp bình quân gia quyền
Đây là phương pháp phổ biến áp dụng và được chấp nhận trong
thẩm định dự án đầu tư của cơ quan quản lý với trường hợp chung
các dự án có cơ cấu vốn phức hợp.

21


Ban hành kèm theo Thông tư sẻ 79/2016/TT-BTC ngày 6/6/2016
của Bộ Tài chính chỉ rõ phương pháp tính tỷ suất chiết khấu:
Trong trường hợp dự án được đầu tư bằng các nguồn vốn khác
nhau thì r được tính theo phương pháp bình quân gia quyền:
r= +
Trong đó:
- Vi,V2,... Các nguồn vốn vay trung, dài hạn
- Vtc: nguồn vốn tự có của chủ đầu tư
- r1, r2 ,..: Lãi suất tiền vay
- rtc: tỷ suất chiết khấu (tỷ suất chi phí vốn) mong muốn của chủ
dự án

Phương pháp lãi suất vốn vay
Là phương pháp mà các đơn vị đầu tư xem xét quan hệ giữa suất
chiết khấu của dự án với mức lãi suất vốn vay của họ (thường là lãi
suất vay dài hạn). Điều kiện là r≥rlv
Tuy nhiên phương pháp này thường được áp dụng không đúng
do các doanh nghiệp lại chọn ngay lãi suất vay ngân hàng làm lãi
suất chiết khấu cho dự án. Điều này dẫn đến sai lầm khi đánh giá dự
án vì nó bỏ qua ảnh hưởng của rủi ro và giá trị đó không phản ảnh
đúng ý nghĩa tỷ suất chiết khấu và lợi suất kỳ vọng của dự án.
1.6 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án
đầu tư
1.6.1 Tỷ số lợi ích trên chi phí của dự án (B/C)
Khái niệm: là tỷ lệ giữa hiện giá dòng lợi ích và hiện giá dòng
chi phí được xác định trong vòng đời dự án. Dự án chỉ có hiệu quả khi
chỉ số sinh lời >1
B/C =
Trong đó:
+ Ci: Tổng chi phí của dự án tại năm i
Ci = Iti + Coti
Iti: Tổng chi phí đầu tư (nếu có) năm i
Coti: Chi phí hoạt động hàng năm của dự án tại năm i
Coti = Cti - (Dti + Lti) + Tni
cti: Chi phí giá thành năm i của dự án
Dti Khấu hao tài sản cố định năm i của dự án
- Lti: Lã i vay vốn cố định tính vào giá thành s ản pham năm i
Tni : Các khoản thuế năm i (bao gồm: GTGT + Vk + Vtn)
Vbi: Giá t rị còn l ạ i chưa chi ế t khấu hế t hoặ c chưa chi ế t
khấu
+ Bi: Tổng lợi ích của dự án ở năm i


22


Với: là doanh thu hàng năm của dự án
là các khoản thu khác tại năm i
là giá trị còn lại của tài sản chiết khấu chưa hết hoặc
chưa chiết khấu của tài sản cố định tại năm cuối cùng dự án (năm i)
r: tỷ suất chiết khấu được chọn
Ý nghĩa:
Tỷ số lợi ích trên chi phí của dự án cho biết 1 đồng hiện giá chi
phí bỏ ra trong dự án có khả năng thu về bao nhiêu đồng hiện giá lợi
ích:

- Trường hợp B/C>1: dự án có hiệu quả về tài chính.
- Trường hợp B/C<1: dự án không có hiệu quả về tài chính.
1.6.2. Giá trị hiện tại ròng NPV
NPV (Net Present Value) là giá trị thu nhập ròng của dự án trong
tương lai được quy về thời điểm hiện tại.
NPV = giá trị hiện tại của dòng tiền vào (thu) - giá trị hiện tại
của dòng tiền ra (chi)
:

-

Bi: tổng lợi ích năm thứ i
Ci: tổng chi phí năm thứ i
R: lãi suất chiết khấu của dự án
I: năm tính dòng tiền
N số năm thực hiện dự án
Ý nghĩa: NPV đánh giá liệu rằng giá trị hiện tại ròng của khoản

thu nhập từ dự án trong tương lai có bù đắp được phần chi phí mà
hiện tại dự án chi ra hay không.

- Trường hợp 1: NPV>0 tức là hiệu quả thu về lớn hơn chi phí, dự án có
-

hiệu quả về tài chính và nên đầu tư.
Trường hợp 2: NPV<0 thì dự án có thể lỗ vốn khi triển khai, không có

-

hiệu quả về tài chính và không nên đầu tư.
Trong trường hợp sử dụng NPV ở bước đầu để đánh giá và loại trừ dự
án khi so sánh về hiệu quả thì sẽ lựa chọn dự án nào có NPV cao
nhất để đầu tư vì rõ ràng nó đem lại hiệu quả tài chính lớn nhất.

23


Ưu nhược điểm: NPV chỉ cho biết hiệu quả đầu tư là con số lãi
lỗ cụ thể, tuy nhiên lại không cho nhà đầu tư biết được tỉ lệ hiệu quả
hay chính là mức sinh lời (lãi suất) của dự án. Vì vậy để đo lường tỷ
lệ lãi suất của dự án ta dùng chỉ số IRR.
1.6.3 Tỷ suất thu hồi vốn nội bộ IRR (Internal Rate of
Return)
Khái niệm: Tỷ suất thu hồi vốn nội bộ IRR là một tỷ lệ chiết khấu
r của dự án mà tại mức lãi suất đó giá trị hiện tại ròng của dự án
bằng không, tức là hiện giá các dòng thu nhập trong tương lai của dự
án bằng với chi phí bỏ ra ban đầu.
NPV =

Có thể dễ dàng tính toán được hai chỉ số NPV và IRR thông qua
việc sử dụng Microsoft Excel bằng hàm NPV và IRR có sẵn và chỉ việc
cung cấp số liệu phù hợp.
Ý nghĩa: IRR là chỉ số phản ánh tốc độ tăng trưởng mà một dự
án có thể tạo ra, IRR cho biết mức độ chi phí vốn cao nhất có thể
được chấp nhận:

- Trường hợp dự án có IRR> tỷ suất chiết khấu r thì dự án có hiệu quả
-

về tài chính, IRR càng lớn thì hiệu quả đó càng cao.
Ngược lại dự án nào có IRR
-

quả về tài chính.
IRR là phương pháp đơn giản nhưng đối với các dự án dài hạn có
dòng tiền khác nhau và tỉ lệ chiết khấu khác nhau, các dự án có
dòng tiền không ổn định, thì IRR không phải là chỉ số tốt mà nên lựa

-

chọn NPV để đánh giá.
Dùng IRR để lựa chọn so sánh dự án đầu tư: giữa các dự án đang
được xem xét, dự án nào có IRR cao hơn sẽ được lựa chọn cũng như
luôn bỏ qua các dự án có IRR < r.
So sánh lựa chọn giữa NPV và IRR:
- Trường hợp chủ đầu tư dư thừa về nguồn vốn khi đó sẽ không
quan tâm tới vấn để tỷ suất thu lời bằng tổng số lời thu được, vì vậy
dự án nào có NPV càng lớn sẽ được lựa chọn


24


- Trường hợp chủ đầu tư có nguồn vốn hạn hẹp hoặc phải sử
dụng cả vốn vay cho các dự án của mình, khi đó vấn đề hiệu quả đầu
tư trên số vốn bỏ ra sẽ hết sức được quan tâm và bởi vậy chỉ số IRR
sẽ được xem xét lựa chọn dự án.
1.6.4 Chỉ tiêu chỉ số sinh lời PI (Profitability Index)
Chỉ số sinh lời PI hay chỉ số lợi ích – chi phí là tỷ lệ giữa giá trị
hiện tại của dòng tiền và giá trị đầu tư ban đầu của dự án. Nó cho
biết hiệu quả thu về trên một đồng vốn từ đó xem xét được hiệu quả
của dự án đó nói riêng và khi đem so sánh giữa các dự án đang được
cân nhắc nói chung. Tuy nhiên tương tự IRR thì PI cũng không giải
thích được quy mô dự án.
PI =
Trong đó PV là giá trị hiện tại của dòng tiền, I là vốn đầu tư ban
đầu.
Các dự án được chọn theo nguyên tắc:
PI>1 => Nên đầu tư, dự án nào có PI lớn nhất sẽ được lựa chọn.
PI<1 => Loại bỏ dự án vì không thu hồi vốn.
PI = 1 => Tùy thuộc nhà đầu tư.
1.6.5 Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn PP (Payback Period)
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn là thời gian cần thiết của dự án đó đủ để
dòng tiền thu hồi được bù đắp vốn đầu tư ban đầu.
Nhà hoạch định dự án cần thiết lập một mốc thời gian hoàn vốn yêu
cầu trên cơ sở đặc thù của loại hình đầu tư, áp lực thu hồi vốn và lãi
từ phía người góp vốn và trên cơ sở kỳ vọng về hiệu quả hoạt động
doanh nghiệp cũng như yêu cầu pháp lý từ cơ quan quản lý để tư đó
phân tích đưa ra thời gian hoàn vốn yêu cầu hợp lý.

Những dự án dù có NPV, IRR, PI, B/C … hiệu quả nhưng chỉ số PI
không đáp ứng được so với thời gian hoàn vốn yêu cầu thì cũng trở
nên vô nghĩa vì áp lực thời gian kéo dài dẫn đến những rủi ro biến
động lớn cả về mặt tài chính, thị trường và độ khả thi của dự án.

25


×