Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH MẶT HÀNG NÔNG SẢN CỦA PHÁP VÀ ẤN ĐỘ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại

CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH MẶT HÀNG NÔNG SẢN
CỦA PHÁP VÀ ẤN ĐỘ
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Văn Hoàng
Mã sinh viên: 1111110017
Lớp: Pháp 2 - Khối 2 KT
Khóa: 50
Người hướng dẫn khoa học: ThS. Nguyễn Minh Phúc

Hà Nội, tháng 5 năm 2015


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU .............................................................................................. i
DANH MỤC HÌNH VẼ............................................................................................ii
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH .................5
1.1. Khái quát chung về chuỗi cung ứng ......................................................................5
1.1.1. Khái niệm chuỗi cung ứng.....................................................................................5
1.1.2. Cấu trúc của chuỗi cung ứng ................................................................................7
1.1.3. Các tác nhân thúc đẩy chuỗi cung ứng ............................................................ 12
1.2. Khái quát chung về chuỗi cung ứng lạnh .......................................................... 18
1.2.1. Khái niệm chuỗi cung ứng lạnh ........................................................................ 18


1.2.2. Cấu trúc của chuỗi cung ứng lạnh.................................................................... 19
1.2.3. Lợi ích của chuỗi cung ứng lạnh....................................................................... 20
CHƯƠNG 2: CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH MẶT HÀNG NÔNG SẢN CỦA
PHÁP VÀ ẤN ĐỘ........................................................................................................... 23
2.1. Chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản của Pháp........................................ 23
2.1.1. Tổng quan về nền nông nghiệp của Pháp........................................................ 23
2.1.2. Chuỗi cung ứng lạnh nông sản của Pháp........................................................ 26
2.1.3. Bài học kinh nghiệm từ chuỗi cung ứng lạnh nông sản Pháp .................... 35
2.2. Chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản của Ấn Độ ..................................... 36
2.2.1. Tổng quan về ngành nông nghiệp của Ấn Độ................................................. 36
2.2.2. Chuỗi cung ứng lạnh nông sản của Ấn Độ ..................................................... 39
2.2.3. Bài học kinh nghiệm từ chuỗi cung ứng lạnh nông sản Ấn Độ .................. 46
2.3. Đánh giá chung về chuỗi cung ứng lạnh nông sản của Pháp và Ấn Độ...... 48
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH MẶT HÀNG
NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM DỰA TRÊN KINH NGHIỆM CỦA PHÁP VÀ
ẤN ĐỘ ............................................................................................................................... 53
3.1. Thực trạng chuỗi cung ứng lạnh nông sản của Việt Nam ............................. 53
3.1.1. Tổng quan về nền nông nghiệp của Việt Nam ................................................ 53
3.1.2. Thực trạng chung chuỗi cung ứng nông sản của Việt Nam ........................ 55
3.1.3. Thực trạng chuỗi cung ứng lạnh nông sản của Việt Nam............................ 58


3.2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản của
Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Pháp và Ấn Độ ............................................. 60
3.2.1. Sự cần thiết hoàn thiện chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản của Việt
Nam .................................................................................................................................... 60
3.2.2. Mô hình chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản đề xuất cho Việt Nam 62
3.2.3. Một số giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản của
Việt Nam............................................................................................................................ 67
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 76


i
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng, biểu đồ
Bảng 1.1. Dân số, hiệu năng lưu trữ kho lạnh và tỷ lệ loại bỏ lương thực

Trang
21

thực phẩm của thế giới, các nước phát triển và các nước đang phát triển
Bảng 2.1. Giá trị sản xuất một số loại nông sản Pháp năm 2014 và tăng

25

trưởng so với năm 2013
Bảng 2.2. Thống kê về kho bảo quản nông sản của Pháp

32

Bảng 2.3. Tỷ lệ sản lượng một số mặt hàng nông sản của Ấn Độ trong

39

tổng sản lượng thế giới năm 2013 (%)
Biểu đồ 2.1. Sản lượng một số cây lương thực, rau củ quả của Pháp qua

24


các năm (triệu tấn)
Biểu đồ 2.2. Sự thay đổi nhiệt độ bảo quản nông sản trong chuỗi cung

35

ứng lạnh nông sản Pháp (độ C)
Biểu đồ 2.3.Quy mô thị trường cung ứng lạnh của Ấn Độ qua các năm

39

(tỷ USD)
Biểu đồ 3.1. Cơ cấu GDP theo nhóm ngành kinh tế qua một số năm (%)

53

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ chi phí hoạt động logistics của Việt Nam và một số

56

quốc gia so với GDP (năm 2013)


ii
DANH MỤC HÌNH VẼ
Tên bảng, biểu đồ

Trang

Hình 1.1. Mô hình chuỗi cung ứng hội tụ - phân kỳ của doanh nghiệp


8

Hình 1.2. Cấu trúc ngang chuỗi cung ứng

9

Hình 1.3. Các mức độ quan hệ trong chuỗi cung ứng

10

Hình 1.4. Các dòng chảy trong chuỗi cung ứng

11

Hình 1.5. Các tác nhân thúc đẩy chuỗi cung ứng

13

Hình 1.6. Kiến thức về chuỗi cung ứng và trong chuỗi cung ứng

17

Hình 2.1. Mô hình chuỗi cung ứng lạnh nông sản của Pháp

28

Hình 2.2. Bản đồ phân bổ hiệu năng kho lạnh theo vùng của Ấn Độ (triệu

41


tấn)
Hình 2.3. Mô hình chuỗi cung ứng lạnh nông sản của Ấn Độ

42

Hình 2.4. Chi phí và lợi ích gắn liền với chuỗi cung ứng lạnh

50

Hình 2.5. Chi phí thuê kho bảo quản lạnh tại một số vùng của Pháp

51

(euro/m2)
Hình 3.1. Mô hình chuỗi cung ứng lạnh nông sản đề xuất cho Việt Nam

62


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp có thể xem là một ngành sản xuất
vật chất cơ bản và giữ vị trí vô cùng quan trọng ở hầu hết các nước, nhất là các
nước đang phát triển vẫn còn nghèo và đại bộ phận dân cư vẫn sống bằng nghề
nông. Còn đối với các quốc gia phát triển, mặc dù tập trung nhiều vào nền công
nghiệp lớn mạnh, tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP không cao nhưng
đồng thời vẫn tạo ra một khối lượng nông sản lớn nhằm đảm bảo đáp ứng được nhu
cầu về lương thực, thực phẩm của con người, đặc biệt trong bối cảnh dân số gia

tăng nhanh chóng và đòi hỏi nâng cao mức sống ngày càng cao.
Sản phẩm của ngành nông nghiệp, hay gọi chung là nông sản, là yếu tố đầu
tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước.Tuy nhiên, nông sản lại phải chịu tác động thường xuyên của
rất nhiều yếu tố bên ngoài, như biến đổi khí hậu, sâu hại, nấm mốc,..., đồng thời
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức khác: chưa có quy hoạch tổng thể; sự
liên kết giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng nông sản còn lỏng lẻo; còn có quá
nhiều khâu trung gian tham gia, gây thất thoát lớn sau thu hoạch,… Nhiều vấn đề
cần được nghiên cứu và quan tâm liên quan đến sản xuất và tiêu thụ chuỗi nông sản
nhằm xây dựng và quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả từ đầu vào đến đầu ra.
Việt Nam là nước nông nghiệp truyền thống. Theo thống kê sơ bộ năm 2013
của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động tại khu vực nông thôn là 60,3% tổng dân số,
và theo dự báo, đến năm 2015, lao động nông thôn vẫn chiếm đến 66,4% dân số
quốc gia (Báo cáo của Liên Hiệp Quốc, 2010). Vì vậy, bất kỳ tác động nào đến
ngành cũng gây ra những ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Mức độ hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng cao hơn, nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và quốc
tế ngày càng thay đổi khi họ quan tâm nhiều hơn đến nguồn gốc cũng như tên tuổi
của sản phẩm. Điều này sẽ dẫn đến sự cạnh tranh giữa các chuỗi cung ứng nông
sản, và chuỗi cung ứng nào càng tạo ra thêm nhiều giá trị mới, càng đảm bảo chất
lượng thì càng có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Kinh nghiệm hàng
nghìn năm về sản xuất nông nghiệp vừa là thế mạnh, nhưng cũng đồng thời là điểm
yếu của chúng ta. Với sự thay đổi nhanh chóng về mọi mặt: khí hậu biến đổi, công


2
nghệ hiện đại, toàn cầu hóa và tự do thương mại, sẽ không còn phù hợp nếu Việt
Nam vẫn đi theo lối mòn về cách thức sản xuất, cơ sở hạ tầng,... Thực tiễn cho thấy
nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu rõ được tầm quan trọng đặc biệt của chuỗi
cung ứng trong môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày nay (Nghiên cứu chuỗi cung
ứng và giải pháp để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia chuỗi cung ứng

toàn cầu, Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự, 2011). Trong khi đó, trên thế giới, chuỗi
cung ứng là một khái niệm không mới, và chuỗi cung ứng trên thế giới phát triển
ngày càng đa dạng.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về chuỗi cung ứng mặt hàng
nông sản là một vấn đề cần thiết được đặt ra không chỉ với những nhà nghiên cứu
mà còn đối với Chính phủ, ban ngành liên quan. Sự yếu kém của chuỗi cung ứng
đòi hỏi phải đổi mới, nghiên cứu những mô hình đã thành công của các quốc gia để
đẩy mạnh hiệu quả của chuỗi cung ứng. Và lựa chọn phát triển chuỗi cung ứng lạnh
mặt hàng nông sản là một hướng đi tốt cho Việt Nam hiện nay. Thông qua đó,
chúng ta sẽ tạo nên được môi trường thông thoáng, hiệu quả cho sự phát triển của
chuỗi cung ứng, đem lại lợi ích cho các chủ thể trong chuỗi cung ứng, giảm thiểu
tổn thất toàn chuỗi.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là đề xuất định hướng và giải pháp nhằm
xây dựng chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản của Việt Nam, dựa trên kinh
nghiệm của các quốc gia đi trước và đã đạt được thành công.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, khóa luận xác định các nhiệm vụ
cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về chuỗi cung ứng lạnh
- Phân tích chuỗi cung ứng lạnh, kinh nghiệm và thực trạng chuỗi cung ứng
lạnh nông sản tại các quốc gia trên thế giới
- Phân tích thực trạng và khả năng xây dựng chuỗi cung ứng lạnh nông sản
của Việt Nam


3
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng chuỗi cung ứng lạnh
nông sản của Việt Nam

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông
sản.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Phạm vi tìm hiểu là chuỗi cung ứng lạnh nông sản của
Pháp, một quốc gia phát triển có tốc độ tăng trưởng chuỗi lạnh nhanh và Ấn Độ,
một nước nông nghiệp có dân số đông và cũng có sự tăng trưởng chuỗi cung ứng
lạnh mạnh mẽ thời gian gần đây.
Về mặt thời gian: Các thông tin, số liệu về nông nghiệp và chuỗi cung ứng
lạnh mặt hàng nông sản của các quốc gia thu thập được và sử dụng trong khoá luận
chủ yếu nằm trong giai đoạn từ 2010 trở lại đây để đảm bảo tính cập nhật của thông
tin số liệu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp định tính cụ thể là các phương
pháp sau: phương pháp phân tích so sánh và so sánh, phương pháp thống kê và
phương pháp tổng hợp.
Thông tin, số liệu được thu thập trong các giáo trình, tài liệu, báo cáo của cơ
quan quản lý chuyên ngành, thông tin trên các báo, tạp chí.
5. Kết cấu khoá luận
Ngoài Mục lục, Danh mục các bảng biểu hình vẽ, Lời nói đầu, Kết luận và
Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận “Chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông
sản của Pháp và Ấn Độ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” được kết cấu
thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về chuỗi cung ứng lạnh
Chương 2: Chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông sản tại Pháp và Ấn Độ
Chương 3: Đề xuất giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng lạnh mặt hàng nông
sản của Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Pháp và Ấn Độ



4
Qua Khoá luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy
giáo - Th.S Nguyễn Minh Phúc, người đã tận tình giúp đỡ em trong suốt thời gian
thực hiện đề tài này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ và hỗ trợ
quý báu từ phía nhà trường, thầy cô, gia đình và bạn bè.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng do hạn chế về mặt thời gian, kinh nghiệm
và kiến thức, đề tài Khoá luận tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót về nội
dung và hình thức. Em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy cô và các
anh chị để khóa luận được hoàn thiện hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Hoàng


5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH
1.1. Khái quát chung về chuỗi cung ứng
1.1.1. Khái niệm chuỗi cung ứng
Toàn cầu hoá, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử,
đang đặt các doanh nghiệp đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Theo nhận
định của nhiều chuyên gia kinh tế, ngày nay, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau
bằng chuỗi cung ứng chứ không còn cạnh tranh bằng giá, hay bằng chất lượng sản
phẩm như trước nữa. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tìm cách làm sao để
kiểm soát được dòng nguyên vật liệu, cách thức đóng gói, vận chuyển, bảo quản và
đưa đến tay người tiêu dùng cuối cùng, tức là phải xây dựng một chuỗi cung ứng
của riêng mình, trong đó thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà sản xuất với
nhà cung cấp và giữa nhà sản xuất với khách hàng.
Thuật ngữ “chuỗi cung ứng” đã xuất hiện từ những năm 80 của thể kỉ trước
và trở nên phổ biến vào những năm 1990. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về
chuỗi cung ứng theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau và có nhiều định nghĩa khác

nhau về thuật ngữ “chuỗi cung ứng”.
Trong cuốn “Giới thiệu về quản lý chuỗi cung ứng”, Ram Ganesham và
Terry P. Harrison viết: “Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và
phân phối, nhằm thực hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên
liệu thành bán sản phẩm, thành phẩm và phân phối chúng cho khách hàng”
(Ganesham và Harrison, 1995). Qua khái niệm này, bản chất của chuỗi cung ứng
được thể hiện là một quy trình khép kín, từ lúc tìm nguyên liệu đầu vào, qua quá
trình sản xuất và phân phối để sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, khái
niệm này vẫn chỉ nhìn nhận chuỗi cung ứng theo nghĩa hẹp, tức là sự tích hợp của
các quy trình với nhau mà thiếu đi tác nhân tạo nên mối liên kết giữa chúng.
Lambert, Stock và Ellram trong cuốn “Nguyên tắc cơ bản về quản lý
logistics” đã đưa ra định nghĩa “Chuỗi cung ứng là sự liên kết các công ty nhằm đưa
sản phẩm hay dịch vụ vào thị trường” (Lambert, Stock và Ellram, 1998). Ở khái
niệm này, nhóm tác giả đã chỉ ra được những thành phần tham gia trong một chuỗi
cung ứng, cũng như nhiệm vụ của chuỗi cung ứng là “đưa sản phẩm hay dịch vụ
vào thị trường”, tuy nhiên có thể thấy khái niệm này mới chỉ phản ánh được chuỗi


6
cung ứng ở một phạm vi hẹp, chỉ đơn giản là gộp các công ty lại với nhau để cùng
thực hiện nhiệm vụ đó.
Trong khi đó Sunil Chopra và Peter Meind trong cuốn “Quản lý chuỗi cung
ứng” (2001) lại định nghĩa chuỗi cung ứng “bao gồm mọi công đoạn có liên quan,
trực tiếp hay gián tiếp, đến việc đáp ứng nhu cầu khách hàng” và “không chỉ bao
gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn bao gồm cả nhà vận chuyển, kho bãi,
người bán lẻ và bản thân khách hàng” (Chopra và Meind, 2001). Đến khái niệm
này, ta có thể thấy các nhân tố tham gia vào một chuỗi cung ứng đã được mở rộng
hơn rất nhiều. Hay hiểu một cách đơn giản, chuỗi cung ứng là sự kết nối các nhà
cung cấp, khách hàng, nhà sản xuất và các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến
quá trình kinh doanh. Không chỉ tập hợp các thành phần tham gia vào chuỗi cung

ứng, Chopra và Meind còn bổ sung: “Trong mỗi tổ chức, như nhà sản xuất, chuỗi
cung ứng bao gồm (nhưng không hạn chế) việc phát triển sản phẩm mới, marketing,
điều hành sản xuất, phân phối, tài chính và dịch vụ khách hàng” (Chopra và Meind,
2001).
Còn trong “Giáo trình Logistics và vận tải quốc tế”, GS. TS Hoàng Văn
Châu có viết: “Một chuỗi cung ứng là một mạng lưới (có thể lựa chọn) về phương
tiện vận tải và phân phối để thực hiện các chức năng thu mua nguyên, phụ liệu...
chuyển hoá chúng thành sản phẩm trung gian và cuối cùng, rồi phân phối sản phẩm
đó tới khách hàng” (Hoàng Văn Châu, 2009).
Theo Hội đồng tổ chức chuỗi cung ứng (2010), chuỗi cung ứng “bao gồm
mọi hoạt động liên quan đến việc sản xuất và phân phối một sản phẩm hoặc dịch vụ
hoàn chỉnh, bắt đầu từ nhà cung cấp đầu tiên đến khách hàng cuối cùng”.
Từ các định nghĩa đã trích dẫn, có thể rút ra một chuỗi cung ứng là một chuỗi
liên kết các nhân tố trong đó có 3 hoạt động cơ bản:
 Cung cấp: tập trung vào các hoạt động gồm cách thức mua nguyên vật liệu,
nguồn cung cấp và thời gian cung cấp nguyên vật liệu nhằm phục vụ hiệu quả quá
trình sản xuất.
 Sản xuất: là quá trình chuyển đổi các nguyên liệu thành sản phẩm cuối cùng.


7
 Phân phối: là quá trình đảm bảo các sản phẩm sẽ được phân phối đến khách
hàng cuối cùng thông qua mạng lưới phân phối, kho bãi, bán lẻ một cách kịp thời và
hiệu quả.
Như đã đề cập, chuỗi cung ứng ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết, và khi bước vào quá trình đổi mới kinh tế và cạnh tranh toàn cầu thì chuỗi cung
ứng này sẽ phải đối đầu với chuỗi cung ứng khác. Xây dựng chuỗi cung ứng không
chỉ là chiến lược đối với mỗi doanh nghiệp mà cũng là chiến lược để các ngành
kinh tế của các nước áp dụng, sản xuất hàng hoá trên quy mô lớn, thúc đẩy chuyên
môn hoá, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

1.1.2. Cấu trúc của chuỗi cung ứng
Trong một chuỗi cung ứng thông thường, mỗi thành viên là một mắt xích của
một hay nhiều chuỗi đan xen tạo thành một mạng lưới. Trong mỗi doanh nghiệp đều
có những bộ phận chức năng phối hợp hoạt động với nhau để thực hiện mục tiêu
của tổ chức, đó là những chuỗi cung ứng nhỏ bên trong. Trong chuỗi luôn tồn tại
một nhân tố trung tâm - một doanh nghiệp trung tâm với một sản phẩm chủ lực.
Khi nghiên cứu về cấu trúc của chuỗi cung ứng, người ta thường xét đến hai
thành phần: cấu trúc vật lý và các mối quan hệ cùng các dòng chảy bên trong.
1.1.2.1. Cấu trúc vật lý
Chuỗi cung ứng liên kết nhiều doanh nghiệp độc lập với nhau, mỗi doanh
nghiệp có cấu trúc, tổ chức riêng bên trong tương ứng với đặc điểm hoạt động và
mục tiêu riêng. Đồng thời, cấu trúc doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu liên kết hoạt
động với các thành viên khác trong chuỗi thông qua mối quan hệ với khách hàng ở
phía trước, nhà cung cấp ở phía sau và các doanh nghiệp hỗ trợ xung quanh. “Các
doanh nghiệp thực hiện các quá trình tạo ra sản phẩm/dịch vụ được gọi là thành
viên chính của chuỗi. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm, tư vấn, cho
thuê tài sản cho những thành viên chính gọi là các thành viên hỗ trợ” (Stock và
Lambert, 2001).
a, Cấu trúc dọc của chuỗi
Cấu trúc dọc của một chuỗi cung ứng được tính bằng số lượng các thành
viên dọc theo chiều dài chuỗi. Theo đó doanh nghiệp trung tâm sẽ nằm ở giữa các
nhà cung cấp và các khách hàng; cụ thể, nguyên vật liệu được dịch chuyển từ nhà


8
cung cấp, qua doanh nghiệp trung tâm thành sản phẩm và đến tay khách hàng. Trên
thực tế, doanh nghiệp trung tâm thường lấy nguyên vật liệu từ nhiều nhà cung cấp,
và sau đó cũng cung cấp sản phẩm đầu ra cho nhiều cấp độ khách hàng. Từ đây ta
có thể phân chuỗi cung ứng thành hai loại: chuỗi cung ứng hội tụ và chuỗi cung ứng
phân kỳ. Chuỗi cung ứng hội tụ khi nguyên vật liệu dịch chuyển giữa các nhà cung

cấp. Chuỗi cung ứng phân kỳ khi sản phẩm dịch chuyển xuyên suốt các khách hàng.
Hình 1.1. Mô hình chuỗi cung ứng hội tụ - phân kỳ của doanh nghiệp

Nguồn: Nguyễn Công Bình, 2008

b, Cấu trúc ngang của chuỗi
Khi xét cấu trúc ngang của chuỗi cung ứng, ta chia các doanh nghiệp thành
các lớp. Các doanh nghiệp này được sắp xếp thành các lớp chức năng khác nhau,
doanh nghiệp trung tâm nằm ở chính giữa chuỗi.


9
Hình 1.2. Cấu trúc ngang chuỗi cung ứng

Nguồn: Nguyễn Công Bình, 2008

Trong cấu trúc ngang của chuỗi cung ứng, doanh nghiệp trung tâm sẽ liên kết
với các chủ thể khác trong chuỗi (thành viên chuỗi) và cả các chủ thể ngoài chuỗi.
Tính chất của mối liên kết với các chủ thể khác nhau là khác nhau.
Với lớp khách hàng và nhà cung cấp thứ nhất (là hai lớp gần với doanh
nghiệp trung tâm nhất): doanh nghiệp trung tâm trực tiếp quản lý các quá trình hoạt
động mua và bán của hai lớp này.
Với các lớp thứ hai trở đi: doanh nghiệp trung tâm giữ vai trò giám sát hoạt
động để bảo đảm cho quá trình sản xuất của mình.
Với những lớp xa hơn: doanh nghiệp trung tâm khó giám sát hơn, thường có
sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trung gian.


10
1.1.2.2. Các mối quan hệ trong chuỗi cung ứng

Mỗi thành viên trong chuỗi giữ mối quan hệ với những thành viên khác theo
chiều ngang và cả chiều dọc. Làm thế nào để thiết lập các mối quan hệ giữa các
thành viên trong chuỗi và gắn chúng vào mục tiêu chung của tổ chức là một vấn đề
được các nhà quản lý sản xuất luôn hướng đến.
Có 5 mức độ quan hệ trong chuỗi dựa vào mức độ tích hợp, theo thang đo
tương đối này, một cực là mức độ tích hợp rất thấp (dạng thị trường rời rạc thuần
túy), một cực là hệ thống tổ chức cấp bậc thuần túy (nơi các tổ chức tích hợp dọc
hoàn toàn theo chức năng) (Tạp chí quốc tế về sản xuất IJPR, 2003). Các mối quan
hệ bao gồm: mối quan hệ ngắn hạn, mối quan hệ trung và dài hạn. Ngoài ra còn thể
hiện dưới dạng liên kết để chia sẻ lợi nhuận, liên minh dài hạn và tham gia mạo
hiểm. (Hình 1.3)
Hình 1.3. Các mức độ quan hệ trong chuỗi cung ứng

Nguồn: IJPR, 2003

Nhìn chung xét trong tương quan mối quan hệ, mỗi thành viên trong chuỗi
phụ thuộc rất lớn vào nhau, mức độ chia sẻ thông tin liên quan đến quyết định thông
tin nào được chia, ai được chia sẻ và chia sẻ như thế nào.
1.1.2.3. Dòng chảy trong chuỗi cung ứng
Trong một chuỗi cung ứng, có ba dòng chảy chính: dòng hàng hoá, dòng
thông tin và dòng tài chính. Sự phối hợp nhịp nhàng của ba dòng chảy này đảm bảo
cho chuỗi cung ứng hoạt động một cách tốt nhất.


11
Hình 1.4. Các dòng chảy trong chuỗi cung ứng

Nguồn: Nguyễn Công Bình, 2008

Dòng sản phẩm là dòng nguyên liệu từ nhà cung cấp đến nhà sản xuất, và

dòng sản phẩm dịch vụ từ nhà sản xuất đến khách hàng. Dòng nguyên liệu đi từ nhà
cung cấp đầu tiên được xử lý qua các trung gian và được chuyển đến doanh nghiệp
trung tâm để sản xuất ra thành phẩm, sau đó chuyển đến tay khách hàng thông qua
các kênh phân phối. Như vậy, mắt xích quan trọng nhất chính là doanh nghiệp trung
tâm. Khi dòng sản phẩm được vận hành liện tục thì doanh nghiệp sẽ tránh được tình
trạng tồn kho, do đó giảm được chi phí tồn kho, tăng lợi nhuận cho toàn bộ chuỗi.
Dòng tài chính là hệ thống tài chính từ người mua tới người bán hay các
thành phần trong chuỗi hỗ trợ và chia sẻ cho nhau. Như vậy, dòng tài chính được
đưa vào chuỗi duy nhất bởi khách hàng khi họ đã nhận được sản phẩm/dịch vụ hoặc
đầy đủ các chứng từ hợp lệ. Dòng tài chính lưu thông càng nhanh thì hiệu quả của
chuỗi càng tăng, do dòng lưu chuyển tiền tệ không bị gián đoạn. Dòng tài chính có
chiều ngược lại với dòng hàng hoá và dòng thông tin từ nhà cung cấp tới khách
hàng.
Dòng thông tin bao gồm hệ thống thông tin trao đổi giữa các thành viên
trong chuỗi và sự phản hồi từ khách hàng. Nói cách khác, dòng thông tin có tính hai
chiều: Là dòng đặt hàng từ phía khách hàng về phía trước của chuỗi, mang những


12
thông tin thị trường, đặc điểm sản phẩm, nhu cầu của khách hàng và những ý kiến
phản hồi của khách hàng sau khi sử dụng sản phẩm/dịch vụ; Là dòng phản hồi từ
phía các nhà cung cấp, được nhận và xử lý thông qua bộ phận thu mua, các thông
tin phản hồi này phản ánh tình hình của thị trường nguyên vật liệu. Dòng thông tin
có vị trí rất quan trọng, là yếu tố quyết định đến việc lập kế hoạch sản xuất và liên
kết các hoạt động trong chuỗi cung ứng. Thông tin càng chính xác và kịp thời thì
quyết định càng chính xác; ngược lại, thông tin không được cung cấp đầy đủ và sai
lệch sẽ khiến khả năng đáp ứng của chuỗi càng lâu, vì thế không thể thoả mãn nhu
cầu của khách hàng một cách tốt nhất. Mức độ chia sẻ thông tin phụ thuộc đối tác
được chọn lựa để chia sẻ, dạng thông tin và chất lượng của thông tin. Có nhiều dạng
thông tin trong chuỗi cung ứng: dạng thông tin chiến lược, chiến thuật, vận hành.

Những thông tin được chia sẻ thường mang lại lợi ích cho các thành viên trong
chuỗi, nhất là trong việc cải thiện dịch vụ khách hàng và công tác tồn kho. Việc xử
lý chậm thông tin gây ảnh hưởng đến tốc độ đáp ứng của dòng sản phẩm tới khách
hàng, do vậy ảnh hưởng đến cả dòng tài chính phía sau.
Tóm lại, cấu trúc chuỗi cung ứng gồm hai thành phần cơ bản là cấu trúc
(phần cứng) và cơ sở hạ tầng (phần mềm). Phần cứng thường ổn định, tạo thành bộ
khung cho các hoạt động của chuỗi và quyết định khối lượng sản xuất của chuỗi,
cũng như ảnh hưởng đến những quyết định lựa chọn nhà cung cấp. Phần mềm là cơ
cấu tổ chức, các định chế hoạt động, các mối quan hệ, các dòng chảy... dễ biến
động.
Như vậy, chuỗi cung ứng là một mô hình động theo hướng thích nghi với
môi trường sản xuất kinh doanh.
1.1.3. Các tác nhân thúc đẩy chuỗi cung ứng
Mỗi chuỗi cung ứng của mỗi sản phẩm có những đặc thù riêng, với những
mục tiêu thị trường khác nhau. Mặc dù vậy, các chuỗi cung ứng vẫn có những đặc
điểm chung, bao gồm năm tácn hân thúc đẩy cơ bản nhất:
 Sản xuất
 Hàng tồn kho
 Vị trí
 Vận chuyển


13
 Thông tin.
Hình 1.5 dưới đây thể hiện các tác nhân thúc đẩy chuỗi cung ứng và mối liên
hệ qua lại giữa các tác nhân đó.
Hình 1.5. Các tác nhân thúc đẩy chuỗi cung ứng

Nguồn: Nguyễn Công Bình, 2008


 Sản xuất
Sản xuất là năng lực của chuỗi cung ứng để tạo ra và tồn trữ sản phẩm. Các
phương tiện sản xuất là các nhà máy và kho. Các quyết định của doanh nghiệp sẽ
xoay quanh các vấn đề, bao gồm loại sản phẩm mà thị trường có nhu cầu, số lượng,
thời gian sản xuất. Hoạt động sản xuất bao gồm việc lập kế hoạch sản xuất chính
theo công suất nhà máy, cân đối công việc, quản lý chất lượng và bảo trì thiết bị.
Có hai phương pháp sản xuất:
 Tâm điểm sản xuất: Đi theo phương pháp này các doanh nghiệp sẽ thực hiện
các hoạt động sản xuất khác nhau để tạo ra các dòng sản phẩm khác nhau và kết hợp
lại để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Phương pháp này có xu hướng đi sâu vào việc
phát triển một sản phẩm với sự đặc biệt hóa một số chức năng nào đó.


14
 Tâm điểm chức năng: Phương pháp này đi sâu vào việc chuyên môn hóa một
vài hoạt động sản xuất để tạo ra những bộ phận nhất định. Các chức năng này có thể
áp dụng để sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Không giống như phương pháp
tâm điểm sản xuất, phương pháp này lại chú trọng về các chức năng cụ thể thay vì
chuyên về một sản phẩm sẵn có.
Mỗi phương pháp sản xuất đều có ưu điểm và nhược điểm nên doanh nghiệp
cần lựa chọn phương pháp sản xuất phù hợp với các giai đoạn khác nhau để tối đa
hoá công suất nhưng đồng thời vẫn có sự chuyên môn hóa để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng.
 Hàng tồn kho
Hàng tồn kho là yếu tố tồn tại xuyên suốt chuỗi cung ứng, từ khâu nguyên
vật liệu đến bán thành phẩm và cuối cùng là sản phẩm được các nhà sản xuất, phân
phối và bán lẻ trong chuỗi nắm giữ. Hàng tồn kho có chức năng đảm bảo tính ổn
định cho chuỗi. Tồn kho ít tức là sản phẩm sản xuất ra vừa đủ để đáp ứng nhu cầu
thị trường, sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần xem xét giữa
tính hiệu quả với việc sẵn sàng đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng. Tồn

kho một lượng nguyên liệu lớn sẽ giúp chuỗi cung ứng đáp ứng nhanh với những
yêu cầu mới của khách hàng.
Trong mỗi mắt xích của chuỗi cung ứng, ta luôn phải xác định được mặt
hàng, thời điểm và số lượng hàng cần tồn kho. Điều đó cũng phụ thuộc rất nhiều
vào năng lực lưu kho cũng như hệ thống trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho
việc bảo quản hàng tồn kho.
 Vị trí
Vị trí là việc tìm kiếm và lựa chọn nơi cung cấp các nguồn nguyên vật liệu
sản xuất, địa điểm sản xuất và nơi tiêu thụ tốt nhất. Ở đây, sự cân nhắc giữa tính đáp
ứng nhanh và hiệu quả sản xuất được nhìn thấy trong việc ra các quyết định tập
trung các hoạt động ở một vài nơi nhất định nhằm đạt được hiệu quả sản xuất theo
quy mô hay việc phân bổ các hoạt động ra nhiều nơi khác nhau để tiếp cận gần với
khách hàng và nhà cung cấp nhằm giảm chi phí phân phối… Nhìn chung, các quyết
định về vị trí bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: chi phí vận chuyển, chi phí nhân công, sự
sẵn có về lao động, điều kiện cơ sở vật chất, sự thuận lợi về khí hậu, địa hình,...Vị


15
trí tốt sẽ giúp quy trình sản xuất được tiến hành một cách nhanh chóng và hiệu quả
hơn. Đồng thời qua đó cũng phản ánh được chiến lược của doanh nghiệp trong việc
xây dựng, phát triển và phân phối sản phẩm trong dài hạn.
 Vận chuyển
Vận chuyển là việc di chuyển các nguyên vật liệu, bán thành phẩm cũng như
các sản phẩm giữa các vị trí khác nhau trong chuỗi cung ứng. Trong việc vận
chuyển, thông qua việc lựa chọn phương thức vận chuyển có thể thấy được mối liên
hệ giữa khả năng đáp ứng nhu cầu vận chuyển và hiệu quả công việc.
Hiện nay có 6 phương thức vận chuyển phổ biến mà các doanh nghiệp có thể
sử dụng:
 Đường biển: giá cước rẻ, mất nhiều thời gian vận chuyển nhất và bị giới hạn
về địa điểm giao nhận.

 Đường sắt: giá cước rẻ, thời gian vận chuyển trung bình, bị giới hạn về địa
điểm giao nhận.
 Đường bộ: tương đối nhanh, linh hoạt, chi phí dễ biến động do chi phí nhiên
liệu biến động và chất lượng đường xá thay đổi.
 Đường hàng không: thời gian vận chuyển nhanh, giá thành cao, bị giới hạn
bởi địa điểm giao nhận và công suất vận chuyển.
 Dạng điện tử: giá thành rẻ, mất ít thời gian vận chuyển nhất nhưng bị giới
hạn về loại hàng hoá vận chuyển (chỉ dành cho dữ liệu, âm thanh, hình ảnh, nhạc,
văn bản…).
 Đường ống: tương đối hiệu quả nhưng bị giới hạn loại hàng hoá (chỉ sử dụng
được khi hàng hóa là chất lỏng, chất khí…).
Mỗi phương thức vận chuyển có những ưu và nhược điểm nhất định. Do đó,
các doanh nghiệp phải lựa chọn được các phương thức tốt nhất trên cơ sở cân bằng
giữa chi phí và lợi nhuận của mình nhưng phải đảm bảo chất lượng hàng trong suốt
quá trình vận chuyển.
 Thông tin
Là cơ sở để có được những quyết định liên quan đến sản xuất, vận chuyển,
tồn kho và định vị. Nếu thông tin chuẩn xác, hệ thống quản trị chuỗi cung ứng sẽ
mang lại những kết quả chuẩn xác, các mắt xích trong chuỗi cung ứng sẽ đưa ra


16
được các quyết định phù hợp nhất với hoạt động của họ. Ngược lại, với những
thông tin sai lệch, hệ thống quản trị chuỗi cung ứng sẽ không thể phát huy hết tác
dụng. Thông tin cần được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau và cần phải cố gắng
thu thập nhiều nhất lượng thông tin cần thiết.
Trong chuỗi cung ứng, thông tin được sử dụng với hai mục đích. Đầu tiên,
thông tin được sử dụng để ra các quyết định phục vụ cho hoạt động hàng ngày như
kế hoạch thu mua nguyên vật liệu, sản xuất, lượng tồn kho, lộ trình vận chuyển,...
Thứ hai, thông tin dùng để dự đoán và lên kế hoạch sản xuất dài hạn, thỏa mãn nhu

cầu trong trong tương lai, mở rộng hay thu hẹp quy mô, thâm nhập thị trường mới.
Xét về tổng thể, trong một chuỗi cung ứng, các thông tin về cung cầu, phản hồi từ
khách hàng, dự báo thị trường và kế hoạch tương lai mà các mắt xích trao đổi với
nhau càng nhiều thì hoạt động của toàn chuỗi càng hiệu quả.
Ngoài năm tác nhân nói trên, còn có một số tác nhân khác đóng vai trò quan
trọng trong chuỗi cung ứng, đó là cơ chế hợp tác giữa các thành phần trong chuỗi,
năng lực của các chủ thể tham gia chuỗi và vai trò của chính phủ trong việc đề ra
chính sách, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển, tính hiệu quả của chuỗi cung ứng.
 Cơ chế hợp tác giữa các chủ thể trong chuỗi
Việc thiết lập cơ chế hợp tác trong toàn bộ chuỗi đảm bảo tính lưu thông của
dòng sản phẩm, dòng thông tin và dòng tài chính của chuỗi cung ứng.
Co chế hợp tác gồm cơ chế hợp tác trong sản xuất, cơ chế hợp tác dự trữ
hàng tồn kho, cơ chế định vị, cơ chế trao đổi thông tin và cơ chế vận chuyển.
 Năng lực của các chủ thể tham gia chuỗi
Để phát triển một mô hình chuỗi cung ứng đạt hiệu quả cao nhất, cần một
lượng kiến thức chuyên môn sâu về chuỗi để xác định được chiến lược phù hợp,
tăng tính cạnh trạnh cho chuỗi cung ứng, đồng thời đáp ứng được nhu cầu từ phía
khách hàng.
Các kiến thức này cần bao gồm cả về chuỗi cung ứng và ngay cả bên trong
chuỗi cung ứng. (Hình 1.6)


17
Hình 1.6. Kiến thức về chuỗi cung ứng và trong chuỗi cung ứng

Nguồn: Jan van Roekel và cộng sự, 2002
Với việc nắm chắc các kiến thức chuyên sâu, các thành phần trong chuỗi có
thể đối phó với những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển, quản lý
chuỗi. Sự hiểu biết về tổ chức chuỗi giúp cho việc tìm kiếm đối tác phù hợp. Nhưng
nếu chỉ có những kiến thức chuyên môn thì vẫn chưa đủ, những kiến thức về nội bộ

toàn chuỗi mới đảm bảo được cho sự phát triển bền vững của chuỗi. Kiến thức
trong chuỗi liên quan đến việc thực hiện các chức năng như logistics, thông tin,... có
vai trò quan trọng cho sự thành công trong việc thiết lập quan hệ đối tác và hội
nhập.
 Vai trò của chính phủ
Trong việc phát triển chuỗi cung ứng, sự hỗ trợ từ chính phủ là vô cùng quan
trọng cho sự phát triển của chuỗi để tạo ra môi trường hoạt động thuận lợi.
Tuy nhiên ở các nước đang phát triển và những nền kinh tế mới nổi, thiếu sự
hỗ trợ của chính phủ cho cơ sở hạ tầng, dịch vụ mở rộng và nghiên cứu nông nghiệp


18
khiến việc phát triển chuỗi cung ứng gặp khó khăn. Thực tế thì chính phủ có thể trợ
giúp bằng việc tổ chức các buổi hội thảo cho khu vực công (nhà nước) và khu vực
tư trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Bên cạnh đó, chính phủ cũng có thể đề ra các
chính sách như khuyến khích sử dụng nguồn lực hợp lý để sản xuất bền vững, trợ
cấp cho các dự án có rủi ro cao...
1.2. Khái quát chung về chuỗi cung ứng lạnh
1.2.1. Khái niệm chuỗi cung ứng lạnh
Chuỗi cung ứng lạnh là một khái niệm quen thuộc tại các quốc gia có nền
nông nghiệp phát triển.
Chuỗi cung ứng lạnh “là chuỗi cung ứng trong đó sản phẩm được vận
chuyển qua các biện pháp và dịch vụ hỗ trợ ở nhiệt đô thấp nhằm đảm bảo tính toàn
vẹn của sản phẩm sau sản xuất” (Rodrigue, 2014). Nói cách khác, chuỗi cung ứng
lạnh là một tập hợp các hoạt động logistics và các hoạt động bổ trợ (vận chuyển,
đóng gói, lưu kho) nhằm duy trì một hay nhiều sản phẩm ở một mức nhiệt độ thấp.
Chuỗi cung ứng lạnh có khả năng kiểm soát và duy trì nhiệt độ thích hợp với các
loại hàng hóa có yêu cầu bảo quản lạnh khác nhau, nhằm bảo đảm và kéo dài tuổi
thọ của các mặt hàng nhạy cảm với nhiệt độ cao như sản phẩm nông nghiệp, thủy
hải sản, hàng đông lạnh chế biến, hoa tươi cắt cành, các sản phẩm dược phẩm đặc

biệt là vắc-xin.
Thuật ngữ “chuỗi cung ứng” trong chuỗi cung ứng lạnh là nhằm nhấn mạnh
đến sự liên tục và đồng nhất của các bước trong chuỗi, bởi lẽ chỉ một bước không
đảm bảo đúng quy định về kiểm soát nhiệt đô thấp cũng có thể gây ra những vấn đề
nghiêm trọng cho sức khoẻ của người tiêu dùng khi sử dụng sản phầm.
Chuỗi cung ứng lạnh có thể xem như vừa là một môn khoa học, vừa là công
nghệ và cũng đồng thời là một quy trình. Là khoa học bởi chuỗi cung ứng lạnh cần
vận dụng các kiến thức hoá học và sinh học liên quan đến sự phân huỷ vật chất hữu
cơ. Là công nghệ bởi nó liên quan mật thiết đến vật lý, cụ thể là việc kiểm soát
nhiệt độ trên toàn chuỗi cung ứng. Là quy trình vì chuỗi cung ứng lạnh bao gồm
một chuỗi các nhiệm vụ kết hợp với nhau, từ khâu chuẩn bị, lưu kho, vận chuyển và
kiểm soát nhiệt độ.


19
Nội dung khoá luận này tập trung nghiên cứu chuỗi cung ứng lạnh trong lĩnh
vực thực phẩm, cụ thể là với mặt hàng nông sản.
1.2.2. Cấu trúc của chuỗi cung ứng lạnh
Về cơ bản, cấu trúc của các chuỗi cung ứng lạnh gồm hai hệ thống logistics
cơ bản: mạng lưới nhà kho lạnh và hệ thống vận tải lạnh.
 Mạng lưới nhà kho lạnh được kiểm soát tốt về nhiệt độ để bảo quản các mặt
hàng nhạy cảm và dễ hỏng. Mạng lưới kho lạnh gồm có kho lạnh của các doanh
nghiệp cung cấp, thu gom, kho lạnh của doanh nghiệp sản xuất, kho lạnh của doanh
nghiệp phân phối, các quầy lạnh bán và trưng bày hàng và hệ thống giữ lạnh gia
dụng. Các kho lạnh trong mạng lưới khi xây dựng đều phải được tính toán để có thể
đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật.
 Hệ thống vận tải lạnh bao gồm các loại phương tiện chuyên chở như xe tải
chuyên dụng, container lạnh, các thiết bị chuyên dụng cho hoạt động vận chuyển và
giao nhận kiểm tra, duy trì nhiệt độ lạnh cần thiết.
Với hai hệ thống logistics trên được vận hành thống nhất và chặt chẽ, chuỗi

cung ứng lạnh sẽ cung cấp các khoảng nhiệt độ khác nhau cho các loại sản phẩm
khác nhau sao cho phù hợp với đặc tính, mục đích sử dụng, thời gian và quãng
đường vận chuyển hàng hoá, đồng thời vẫn đảm bảo những yêu cầu trong toàn bộ
quá trình cung ứng sản phẩm.
Các tiêu chuẩn nhiệt độ phổ biến gồm:
 Đông lạnh sâu (Deep Frozen) từ -28 đến -30 độ C. Đây là mức nhiệt độ lạnh
nhất chủ yếu dành cho vận chuyển thuỷ, hải sản.
 Đông lạnh (Frozen) từ -16 đến -20 độ C, chủ yếu dành cho vận chuyển thịt
gia cầm, gia súc.
 Lạnh (Chiller) từ +2 đến +4 độ C, là mức chuẩn nhiệt độ trong tủ lạnh và
thường được sử dụng để vận chuyển trái cây và rau quả để có được thời hạn sử
dụng tối ưu.
Ngoài ra mức từ +12 đến +14 độ C thích hợp cho chuỗi cung ứng chuối, là
một trong những loại trái cây sản xuất và vận chuyển nhiều nhất thế giới.
Ở các chuỗi cung ứng lạnh phát triển, thường là của các nước có trình độ kỹ
thuật tiên tiến, các thiết bị theo dõi, kiểm soát và điều chỉnh nhiệt độ là ưu tiên hàng


20
đầu vì nó cho phép các hàng hóa bảo quản có được các điều kiện bảo quản chính
xác trong những điều kiện mong muốn.
Chuỗi cung ứng lạnh không chỉ chú ý tới các điều kiện về nhiệt độ và độ ẩm
tạo ra cho hàng hóa, mà nhân tố thời gian cũng được kiểm soát khá chặt chẽ, chính
vì vậy các chuỗi cung ứng lạnh có tốc độ cung ứng rất kịp thời. Để tạo ra những lợi
thế này, về mặt tổ chức các chuỗi cung ứng lạnh thường tập trung vào 4 hợp phần
chính là:
 Trang bị các thiết bị dự trữ và vận chuyển hàng hóa an toàn đồng bộ trong
điều kiện khí hậu được kiểm soát
 Đào tạo các nhà quản lý và nhân viên có chuyên môn trong điều hành, sử
dụng và duy trì các thiết bị chuyên dụng

 Xây dựng các thủ tục để quản lý các quá trình vận hành, quy trình kiểm soát
và sử dụng các thiết bị tối ưu
 Tạo mối liên kết chặt chẽ, trao đổi thông tin kịp thời, chính xác giữa các
thành viên trong chuỗi cung ứng lạnh
1.2.3. Lợi ích của chuỗi cung ứng lạnh
Cung ứng lạnh là một phương thức rất hiệu quả trong việc giảm tổn thất sau
thu hoạch. Mặc dù lý thuyết chuỗi cung ứng lạnh rất phổ biến nhưng việc áp dụng
nó theo tiêu chuẩn cao đến nay lại chưa thực sự được chú trọng: Viện nghiên cứu
kiểm soát nhiệt độ thấp quốc tế (IIR) ước tính sản xuất lương thực toàn cầu (bao
gồm thủy sản) đạt khoảng 5.500 triệu tấn, tuy nhiên chỉ có 7% được bảo quản và
cung ứng qua chuỗi lạnh.
Tại tất cả các quốc gia, tỷ lệ thất thoát nông sản là vấn đề luôn được quan
tâm, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển - tập trung 80% dân số thế giới
và thường xuyên bị thất thoát sản phẩm do không có hoặc không sử dụng hiệu quả
chuỗi cung ứng lạnh. Gần 400 triệu tấn nông sản đã bị hư hỏng sau thu hoạch mỗi
năm (IRR, 2009).


×