Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

kinh nghiệm phát triển thương mại công bằng đối với mặt hàng gạo của thái lan và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.91 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
o0o
Công trình tham dự Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học Trường Đại học Ngoại thương
2014
Tên công trình
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
CÔNG
BẰNG ĐỐI VỚI MẶT HÀNG GẠO CỦA
THÁI LAN
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Mã ngành: KD 3
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Danh mục từ viết tắt tiếng Việt Chữ Viết Tắt
Tiếng Việt
CNH – HĐH
HTX
NNPTNT
TMCB
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Hợp tác xã
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Thương mại Công bằng
Danh mục từ viết tắt tiếng Anh Chữ Viết Tắt
Tiếng Anh Tiếng Việt
Organic Agriculture
Certification
Chứng nhận Nông nghiệp Hữu cơ
ACT


ATO
ADB
Thailand
Alternative Trade Organization
Asian Development Bank
tại
Thái Lan
Tổ chức Thương mại Thay thế
Ngân hàng Phát triển châu Á
European Fair Trade
Association/
EFTA/EFTO Organization
Hiệp hội Thương mại Công bằng
châu
Âu
ENF
FAO
FLO/FI
GNC
Earth Net Foundation
Food and Agriculture Organization
of the United Nations
Fairtrade Labeling Organization/
Fairtrade International
Green Net Cooperative
Quỹ Earth Net
Tổ chức Lương thực Thế giới
Tổ chức Thương mại Công bằng
Quốc tế
HTX Green Net

International Federation of Organic Liên đoàn phong trào nông nghiệp
IFOAM
SFS
USDA
Agriculture Movement
Surin Farmers Support
United States Department of
Agriculture
hữu cơ quốc tế
Tổ chức hỗ trợ nông dân Surin
Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
ii
WFTO
World Fair Trade organization
Tổ chức Thương mại Công bằng thế
giới
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. So sánh đặc điểm TMCB và thương mại thông thường 19
Bảng 1.2. Khối lượng và giá trị tiêu thụ của một số hàng hóa TMCB 2006-2012 26
Bảng 1.3. Giá trị bán lẻ hàng hóa TMCB ở một số quốc gia (đơn vị: Euro) 27
Bảng 1.4. Ý kiến người tiêu dùng về việc trả mức giá cao hơn cho sản phẩm TMCB . 32
Bảng 1.5. Giá tối thiểu một số loại gạo hữu cơ và gạo thông thường TMCB (EURO) 34
Bảng 2.1. Dân số, lao động của Thái Lan 2000-2004 38
Bảng 2.2. Giá một số loại gạo TMCB của Thái Lan hiện nay 48
Bảng 3.1. Quy mô lao động trong nông nghiệp giai đoạn 2005-2012 62
Bảng 3.2. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cho nông nghiệp theo giá hiện hành năm
2012
63
Bảng 3.3. Giá xuất khẩu một số loại gạo 66
Bảng 3.4. Một số thị trường xuất khẩu gạo lớn năm 2012 67

Bảng 3.5. Thu nhập bình quân năm của dân cư 70
Bảng 3.6. Số lượng HTX và thành viên tại Thái Lan giai đoạn 2000-2010 77
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Một số nhãn hiệu TMCB cho sản phẩm 11
Hình 1.2. Nhãn hiệu chương trình TMCB 11
Hình 1.3. Mô hình phân phối sản phẩm TMCB 15
Hình 1.4. Tổng sản lượng và sản lượng TMCB xuất khẩu của HTX Conacado (1999 –
2007)
21
Hình 1.5. Doanh thu toàn cầu của hàng hóa TMCB 25
Hình 1.6. Sản lượng gạo TMCB 32
Hình 2.1. Tình hình sử dụng đất ở Thái Lan năm 2008 36
iii
Hình 2.2. Năng suất lúa của Thái Lan giai đoạn 1999 – 2012 40
Hình 2.3. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Thái Lan 41
Hình 2.4. Cơ cấu thị trường gạo xuất khẩu Thái Lan năm 2011 42
Hình 2.5. Một số nhãn hiệu TMCB mặt hàng gạo tại Thái Lan 47
Hình 2.6. Kênh phân phối gạo TMCB tại Thái Lan 49
Hình 2.7. Quá trình bán gạo TMCB 57
Hình 3.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam (1990-2012) 65
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƯƠNG MẠI CÔNG
BẰNG VÀ THƯƠNG MẠI CÔNG BẰNG VỀ MẶT HÀNG GẠO TRÊN THẾ
GIỚI 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của Thương mại Công bằng 5
1.1.1. Bối cảnh ra đời của TMCB 5
1.1.2. Khái niệm 7
1.1.3. Nguyên tắc TMCB 8
1.1.4. Đặc điểm của TMCB 9

1.2. Vai trò của TMCB với các nước đang và chậm phát triển 19
1.2.1. Về kinh tế 19
1.2.2. Về xã hội 20
1.2.3. Về môi trường 22
1.3. Thực tiễn chung về phát triển TMCB và TMCB bằng đối với mặt hàng gạo .22
trên thế giới 22
1.3.1. Thực tiễn Thương mại Công bằng từ năm 1990 đến nay 22
1.3.2. Sự phát triển Thương mại Công bằng về gạo trên thế giới 27
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI CÔNG BẰNG ĐỐI
VỚI MẶT HÀNG GẠO TẠI THÁI LAN TRONG GIAI ĐOẠN 1990 – 2013 33
2.1. Tổng quan về sản xuất và thương mại đối với mặt hàng gạo tại Thái Lan 33
2.1.1. Tổng quan về sản xuất mặt hàng gạo 33
2.1.2. Tổng quan về thương mại mặt hàng gạo tại Thái Lan 39
iv
2.2. Thực trạng phát triển TMCB tại Thái Lan 40
2.2.1. Tổng quan TMCB tại Thái Lan 40
2.2.2. Thực trạng phát triển TMCB mặt hàng gạo tại Thái Lan 41
2.3. Một số dự án điển hình về TMCB đối với gạo Thái Lan giai đoạn 1990 – 52
2.3.1. Sự hỗ trợ của HTX Green Net trong phát triển TMCB về gạo tại Thái
Lan 53
2.3.2. Sự hỗ trợ của Quỹ gạo Surin trong phát triển TMCB về gạo tại tỉnh Surin,
Thái Lan 55
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ TMCB GẠO CỦA THÁI
LAN VÀ ĐỀ XUẤT DỰA TRÊN BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM57
3.1. Tổng quan ngành gạo và triển vọng phát triển TMCB gạo tại Việt Nam 57
3.1.1. Tổng quan về gạo tại Việt Nam 57
3.1.2. Sự cần thiết phát triển TMCB gạo tại Việt Nam 64
3.1.3. Triển vọng phát triển TMCB gạo tại Việt Nam 67
3.2. Một số bài học kinh nghiệm từ Thương mại Công bằng về gạo của Thái
Lan 71

3.2.1. Thành công của Thái Lan trong việc phát triển nông nghiệp hữu cơ 71
3.2.2. Bài học từ thành công của Thái Lan trong việc phát triển TMCB về gạo 72
3.2.3. Bài học từ hạn chế của Thái Lan trong phát triển TMCB về gạo 75
3.3. Một số giải pháp nhằm phát triển Thương mại Công bằng gạo ở Việt Nam 76
3.3.1. Giải pháp phát triển nền nông nghiệp hữu cơ 76
3.3.2. Giải pháp phát triển TMCB mặt hàng gạo 77
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
PHỤ LỤC 91
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nông nghiệp đóng vai trò quan
trọng, đem lại thu nhập cho phần lớn người dân, đặc biệt là nông nghiệp sản xuất lúa
gạo. Tuy nhiên, thực trạng sản xuất gạo tại Việt Nam nhiều năm nay chủ yếu tập trung
phát triển chiều rộng mà vẫn bỏ ngỏ vấn đề phát triển theo chiều sâu, khiến cho sản
lượng gạo Việt Nam xuất khẩu khá cao nhưng giá trị thu được lại thấp. Hơn nữa, hiện
nay, kênh phân phối truyền thống mặt hàng gạo của nước ta khá rắc rối với rất nhiều
chủ thể tham gia; và hệ quả là khi giá gạo tăng thì người nông dân thu được ít lợi
nhuận nhất nhưng khi giá giảm thì họ lại bị thiệt thòi và bị ép giá thu mua. Ngoài
những vấn đề kinh tế, môi trường nông thôn đang ngày một ô nhiễm do rất nhiều
nguyên nhân từ việc sản xuất gạo của nông dân. Dưới những áp lực sản xuất và thương
mại truyền thống, TMCB ra đời hướng tới lợi ích của người nông dân, đồng thời vẫn
đảm bảo các yếu tố môi trường và mục tiêu phát triển bền vững.
Với mục đích tạo ra một mối quan hệ trao đổi có lợi cho cho các các chủ thể
tham gia, TMCB đã và đang giúp đỡ những nhà sản xuất nhỏ tại các quốc gia đang
phát triển có thể phát triển một cách bền vững bằng cách tạo dựng mối quan hệ thương
mại trực tiếp giữa các quốc gia, hỗ trợ cho những nhà sản xuất nhỏ tiếp cận được với
thị trường quốc tế, đảm bảo cho họ mức thu nhập xứng đáng với công sức họ bỏ ra.
Và vì thế, đây là một trong những giải pháp góp phần giải quyết những vấn đề bất

bình đẳng do Thương mại truyền thống gây ra.
Không chỉ là một trong những nước đứng đầu về sản xuất gạo trên thế giới,
Thái Lan còn đi tiên phong trong việc áp dụng TMCB với các sản phẩm gạo nhằm
cải thiện mức sống cho người nông dân, đồng thời nâng cao thương hiệu gạo Thái
trên thị trường thế giới. Do vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm của Thái Lan trong phát
triển TMCB mặt hàng gạo, phân tích trong điều kiện cụ thể của Việt Nam sẽ là những
căn cứ cụ thể đề xuất những giải pháp vận dụng những kinh nghiệm này vào thực tiễn
sản xuất và thương mại mặt hàng gạo tại Việt Nam.
Từ những phân tích trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn đề tài “Kinh nghiệm
phát triển Thương mại Công bằng đối với gạo của TháiLan và bài học cho Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu tổng thể về lý thuyết tổng quan về
TMCB bằng như:
· Thương mại Công bằng: Tổng quan, tác động và những thách thức, 2000,
Trường Đại học Tổng hợp Oxford, Anh.
· Stiglitz, JE & Charlton, A 2005, Thương mại Công bằng dành cho mọi người:
Cách để thương mại thúc đẩy sự phát triển,Nhà xuất bản trường Đại học Oxford,
Oxford, Anh.
· Rice, J 2010, ‘Tự do hóa thương mại, Thương mại Công bằng và sự bất bình
đẳng giới tính ở các nước kém phát triển’, Tạp chí Sustainable Development, số 18
năm 2010, trang 42 – 50.
· Hutchens, A 2010, ‘Trao quyền cho người phụ nữ qua TMCB: Bài học từ Châu
Á’, Tạp trí Third World Quarterly, số 31 năm 2010, trang 449 – 467.
· Hanson, L & các cộng sự, ‘Giới tính, sức khỏe và Thương mại Công bằng:
Góc nhìn từ những dự án nghiên cứu tại Nicaragua’, tạp chí Development in Practice,
Số 22 tháng 4/2012.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về tổng quan lý thuyết về TMCB trên thế giới
hiện nay vẫn còn rời rạc, chưa có cái nhìn toàn diện về đặc điểm, tác động của hình

thức thương mại này trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra, phần đông nghiên cứu chỉ tập
trung vào những tác động mang tính xã hội về TMCB mà ít đề cập tới khía canh
thương mại (chỉ có tài liệu của TS. Lê Thu Thủy đề cập đến vấn đề này), tức là phân
tích những đặc điểm nổi bật của TMCB khác biệt so với thương mại truyền thống,
đặc biệt trong khâu kiểm định dán nhãn, kiểm tra và kiểm soát sau khi dán nhãn
TMCB.
Một số nghiên cứu về TMCB gạo tại Thái Lan:
· Udomkit, N. & Winnett, 2002, Fair trade in organic rice: a case study from
Thailand, Tạp chí Small Enterprise Development, Số 13 09/2012, trang 45 – 53.
· Patrawart, J. 2009, ‘Bước tiên mới của Hợp tac xã và sự phát triển của Thương
mại Công bằng’, Research Report, Thailand Research Fund.
· Becchetti, L.&Conzo, P.và Gianfreda,G. 2011, ‘Tiếp cận thị trường, nông
nghiệp hữu cơ và sản xuất: ảnh hưởng của việc Thương mại Công bằng liên kết với
3
các nhóm nông dân sản xuất ở Thái Lan’,The Australian Journal of Agricultural and
Resource Economics, số 56, trang 117–140.
· Edwardson, W.& Santacoloma, P., 2013, ‘Chuỗi cung ứng hữu cơ tạo ra thu
nhập cho các hộ nông dân sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triểnNghiên cứu trường
hợp ở Ấn Độ, Thái Lan, Brazil, Hungary và châu Phi’, Tổ chức lương thực thế giới
(FAO).
Những nghiên cứu về gạo ở Thái Lan thường là những nghiên cứu tập trung
trong một số lĩnh vực cụ thể như HTX hay chuỗi cung ứng trong TMCB. Tuy nhiên,
những nghiên cứu này cũng chưa đưa ra được bức tranh tổng quát về TMCB mặt hàng
gạo tại đây và tiềm năng phát triển của hình thức này.
Còn tại Việt Nam, những nghiên cứu về TMCB còn rất ít:
· TS. Lê Thu Thủy, 2008, ‘Thương mại Công bằng và các giải pháp phát triển
tại Việt Nam’, Trường Đại học Ngoại thương.
· Nguyễn Mai Trang, 2009, Fair Trade Rice in Thailand and lessons for
Vietnam, trường Đại học Ngoại thương.
· Nguyen Stevenin, Quynh Tram 2011, MDI - Betterday Sản phẩm TMCB: Giúp

nâng cao chất lương, sức khỏe cộng đồng, Chương trình phát triển Liên hợp quốc.
Những nghiên cứu về TMCB tại Việt Nam nói chung và TMCB mặt hàng gạo nói
riêng còn rất khiêm tốn, đồng thời vẫn chưa đề cập trực tiếp nhiều đến khía cạnh
thương mại trong TMCB.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm áp
dụng TMCB về gạo đã thành công ở Thái Lan để áp dụng vào Việt Nam là vấn đề
cần thiết trong việc phát triển nền nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng
một cách bền vững.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Đề tài nghiên cứu kinh nghiệm phát triển TMCB mặt hàng gạo tại Thái
Lan và tìm kiếm những giải pháp phát triển TMCB gạo tại Việt Nam nhằm cải thiện
đời sống cho người nông dân sản xuất gạo ở Việt Nam thông qua phát triển TMCB
đối với mặt hàng gạo hướng tới phát triển bền vững nông nghiệp tại Việt Nam.
Nhiệm vụ: Nhằm đạt được những mục tiêu nghiên cứu nói trên, đề tài tự xác định các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
4
Thứ nhất , làm rõ những vấn đề lý luận chung về Thương mại Công bằng và tính cấp
thiết phát triển Thương mại Công bằng đối với mặt hàng gạo của Việt Nam.
Thứ hai , nghiên cứu thực trạng Thương mại Công bằng của Thái Lan đối với mặt
hàng gạo và rút ra bài học kinh nghiệm.
Thứ ba, nghiên cứu thực trạng sản xuất và thương mại gạo Việt Nam, từ đó đánh giá
tính khả thi của việc áp dụng những kinh nghiệm của Thái Lan vào điều kiện thực tế
của Việt Nam và đề xuất giải pháp phát triển Thương mại Công bằng đối với gạo Việt
Nam.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Kinh nghiệm phát triển TMCB đối với mặt hàng gạo của
Thái Lan và giải pháp nhằm phát triển TMCB gạo cho Việt Nam.
Khách thể nghiên cứu: Thực trạng phát triển TMCB mặt hàng gạo của Thái Lan.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu tập trung vào hai nước Việt Nam và Thái

Lan. Tuy nhiên, nghiên cứu có thể đề cập tới một số quốc gia khác để minh hoạ rõ
hơn cho những lý luận của mình.
Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu tập trung vào số liệu thương mại mặt hàng
gạo Thái Lan từ năm 1990 đến 2013. Thương mại Công bằng mặt hàng gạo ở Thái
Lan bắt đầu được triển khai từ năm 2002, vì vậy số liệu từ năm 2002-2013 sẽ phản
ánh được tình hính phát triển Thương mại Công bằng ở Thái Lan.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển Thương mại Công bằng đối với gạo
của Thái Lan trong giai đoạn 1990 – 2013 đề tài sẽ tập trung phân tích khả năng áp
dụng đối với Việt Nam và đề xuất các giải pháp phù hợp cho kế hoạch 10 năm 2014
– 2024.
Phạm vi về nội dung: Đối tượng chính trong nghiên cứu là TMCB đối với mặt
hàng gạo. Các mặt hàng khác được nhắc tới trong bài chỉ là một yếu tố minh hoạ, bổ
sung cho việc nghiên cứu mặt hàng gạo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trên, đề tài dự kiến sẽ sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp thực tiễn: phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu, phương
pháp so sánh đối chiếu, phương pháp diễn giải- quy nạp, phương pháp dự báo.
5
Phương pháp lý thuyết: phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp, phương
pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, phương pháp hệ thống hoá phương pháp
nghiên cứu điển hình, phương pháp ý kiến chuyên gia, phương pháp mô hình hoá.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Từ việc nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển TMCB đối với gạo ở Thái
Lan, nhóm nghiên cứu dự kiến sẽ rút ra 5 bài học kinh nghiệm có khả năng áp dụng
đối với Việt Nam và đề ra khoảng 10 giải pháp để phát triển Thương mại Công bằng
đối với gạo trong 10 năm tới (2014-2024). Nếu những giải pháp này được tiến hành
trên thực tế, TMCB mặt hàng gạo ở Việt Nam sẽ phát triển nhanh hơn, từ đó không
những góp phần gia tăng giá trị cho những sản phẩm lúa gạo của Việt Nam mà còn
cải thiện đời sống của người nông dân sản xuất gạo ở Việt Nam, đóng góp tích cực

trong việc xây dựng và phát triển một nền sản xuất lúa gạo bền vững.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Thương mại Công bằng và sự phát triển Thương
mại Công bằng về gạo trên thế giới
Chương 2: Thực trạng phát triển Thương mại Công bằng đối với mặt hàng
gạo tại Thái Lan trong giai đoạn 1990 – 2013
Chương 3: Một số bài học kinh nghiệm từ TMCB gạo của Thái Lan và đề
xuất dựa trên bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƯƠNG MẠI CÔNG
BẰNG VÀ THƯƠNG MẠI CÔNG BẰNG VỀ MẶT HÀNG GẠO TRÊN THẾ
GIỚI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của Thương mại Công bằng
1.1.1. Bối cảnh ra đời của TMCB
Về mặt thời gian và địa lí, có hai quan điểm chính cho rằng Thương mại Công
bằng bắt đầu ra đời tại hai khu vực là Bắc Mỹ (1946) và Châu Âu (1950) (Fair Trade
Resource Network, 2009).
Ở khu vực Bắc Mỹ, sự ra đời TMCB được đánh dấu bằng sự xuất hiện của 2
tổ chức là Ten Thousand Villages (1946) (trước đây là Self Help Crafts) chuyên mua
6
các sản phẩm dệt may của Puerto Rico thông qua hội Thánh và SERRV1 (1949 –
1950) chuyên giao dịch đồng hồ gỗ từ dân tị nạn nước Đức sau thế chiến thứ hai.
Ở Châu Âu, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng TMCB là sáng kiến của
các tổ chức phi chính phủ và có manh nha vào năm 1950, khi giám đốc Oxfam UK2
sang thăm Hồng Kông và nảy ra ý định thu mua thú nhồi bông của những người tị
nạn Trung Quốc tại đây để giúp họ tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên cũng có nhà nghiên
cứu lựa chọn mốc ra đời TMCB là năm 1957, khi một tổ chức tên là SOS Wereld
Handel được một số thanh niên công giáo ở miền nam Hà Lan thành lập với mục đích
nhập khẩu các sản phẩm của các nước đang phát triển với mức giá công bằng.

Năm 1964, tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển tại
Giơnevơ, Thụy Sĩ, một số thành viên các nước thuộc địa cũ hoặc đang trong phong
trào đấu tranh đã đưa ra khẩu hiểu “trade not aid”, tức là phải tiến hành thương mại
chứ không phải thuần túy là viện trợ đối với các nước này. Các nước này mong muốn
thiết lập mối quan hệ thương mại để mở rộng thị trường cho những người sản xuất
nhỏ tại đây, vì thiếu kinh nghiệm và khả năng tài chính mà bị cô lập. Khẩu hiệu trên
được đưa ra trong bối cảnh các nước phát triển thường chỉ nói đến trợ giúp nhân đạo,
viện trợ phát triển hay cho vay, nhằm lẩn tránh bàn bạc đến các vấn đề then chốt như
giá cả nguyên vật liệu, mở cửa thị trường cho các nước đang phát triển. Tiếp tục tinh
thần của khẩu hiệu “trade not aid”, người ta tiến hành phát triển một phương thức
thương mại với mục đích làm cho thương mại được công bằng hơn trong các quan hệ
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Phương thức thương mại này
được gọi là “thương mại thay thế” (Alternative Trade) sau này được đổi tên thành
TMCB nhằm thay thế thương mại truyền thống, thương mại quy ước hay thương mại
chạy theo lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản.
Đến tháng 4 năm 1969, “Cửa hàng thế giới” (World Shop) đầu tiên mở cửa ở
Hà Lan cùng với sự giúp đỡ của Oxfam và các tổ chức nhân đạo ở châu Âu, đánh dấu
sự ra đời của chuỗi phân phối sản phẩm TMCB đầu tiên trên thế giới. Kể từ đó chuỗi
phân phối này mở rộng và phát triển nhanh chóng ra khắp 16 nước châu Âu, Mỹ,
Một tổ chức nhân đạo phi lợi nhuận do nhà thờ vùng Brethren thành lập năm 1946 để cứu trợ những người tỵ
nạn sau chiến tranh thế giới II, đến nay đã phát triển với mạng lưới TMCB kết nối hàng ngàn thợ thủ công ở
các nước đang phát triển.
Oxfam khởi nguồn từ Ủy ban Oxford về cứu trợ được thành lập tại Anh vào năm 1942 để viện trợ lương thực
cho thường dân trong chiến tranh thế giới thứ II. Đến nay Oxfam đã trở thành tổ chức nhân đạo đi đầu trong
việc cung cấp các viện trợ khẩn với hơn 17 tổ chức thành viên.
7
Canada và Nhật Bản (International Fair Trade Association, 2005). “Cửa hàng thế
giới” kinh doanh hàng hóa của các nước thế giới thứ ba, những hàng hóa mà trước
đây đã không thể thâm nhập thị trường các nước phát triển do hàng rào thuế quan.
Ngoài chức năng thương mại, các “Cửa hàng thế giới” trở thành những địa điểm

quảng bá hình ảnh cho TMCB.
Năm 1988, Liên đoàn quốc tế về thương mại thay thế (International Federation
of Alternative Trade) được thành lập nhằm đảm bảo việc xúc tiến TMCB và tạo thuận
lợi cho việc hợp tác giữa các tổ chức TMCB địa phương. Hai năm sau, một tổ chức
tương tự của châu Âu, Liên đoàn châu Âu về thương mại thay thế (European
Federation of Alternative Trade) cũng ra đời. Cũng vào năm 1988, nhãn hiệu TMCB
đầu tiên mang tên Max Havelaar ra đời với mục đích chứng nhận các sản phẩm có
nguồn gốc từ TMCB. Năm 1997, Tổ chức dán nhãn Thương mại Công bằng –
Fairtrade Labelling Organisation (FLO) được thành lập nhằm điều phối các nhãn hiệu
TMCB và các tổ chức cấp giấy chứng nhận TMCB trên thế giới. FLO ra đời đảm bảo
uy tín cho các nhãn hiệu TMCB cũng như đảm bảo các tiêu chuẩn này mang tính toàn
cầu.
Tóm lại, TMCB bắt nguồn từ ý thức của công dân tiến bộ ở châu Âu muốn có
cơ hội để góp phần nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của những người sản
xuất ở các nước đang phát triển một cách bền vững. Tiêu dùng đối với họ không chỉ
là một hành động tiêu thụ mà là sự tiêu dùng có ý thức, tối thiểu phải đáp ứng được
ba yêu cầu: giúp đỡ những nhà sản xuất ở các nước đang phát triển, tôn trọng một số
chuẩn mực xã hội, giữ gìn và bảo vệ môi trường.
1.1.2. Khái niệm
Vào năm 1988, tổ chức FINE gồm bốn tổ chức là tổ chức dán nhãn TMCB
(FLO, nay là FI), hiệp hội TMCB thế giới (IFAT, nay là WFTO), mạng lưới “Cửa
hàng thế giới” tại châu Âu (NEWS) và hiệp hội TMCB châu Âu (EFTA) đã định
nghĩa TMCB là: “Quan hệ đối tác kinh doanh dựa trên nền tảng của đối thoại, minh
bạch, sự tôn trọng đối với con người và môi trường tự nhiên, tìm cách để trở nên công
bằng hơn trong thương mại quốc tế. TMCB góp phần vào sự phát triển bền vững bằng
cách đề ra những điều kiện thương mại lành mạnh hơn và bảo đảm quyền lợi của các
nhà sản xuất và công nhân”. (Fair Trade Resource Network, 2009)
Dưới góc nhìn của FINE, TMCB hướng tới mục tiêu thiết lập hệ thống quản
lý công khai và minh bạch với những nguyên tắc rõ ràng, cụ thể để hình thành nên
8

các mối quan hệ thương mại bình đẳng, tôn trọng các đối tác. TMCB đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển về mặt xã hội, kinh tế và môi trường của các nhà sản xuất và chủ
đất quy mô nhỏ ở các nước đang phát triển. Hay nói cách khác, TMCB không chỉ là
một hình thức thương mại đơn thuần mà nó góp phần hình thành nên sự công bằng
trong thương mại quốc tế. Nó làm nổi bật sự cần thiết phải thay đổi các quy tắc và tập
quán của thương mại truyền thống.
Theo tổ chức phi chính phủ Oxfam năm 1998, TMCB được định nghĩa là:
“Thương mại thúc đẩy phát triển bền vững nhờ nâng cao cơ hội tiếp cận thị trường
cho những nhà sản xuất kém lợi thế. TMCB tạo điều kiện vượt qua đói nghèo nhờ sự
hợp tác giữa những chủ thể tham gia vào quá trình thương mại (nhà sản xuất, người
tiêu dùng, trung gian thương mại)” (Mayoux L. & Williams, P. 2001).
Dưới góc nhìn của một tổ chức phi chính phủ hoạt động với mục đích nhân
đạo như Oxfam, TMCB là một hình thức thương mại mang ý nghĩa đạo đức, hướng
tới sự phát triển bền vững đồng thời chống lại sự bất công trong thương mại quốc tế
và sự bành trướng của các công ty đa quốc gia. Ở các nước đang phát triển, TMCB
hỗ trợ người sản xuất bằng cách xác định mức giá công bằng cho sản phẩm của họ,
hình thành các nhóm sản xuất để nâng cao năng lực sản xuất và xúc tiến thị trường.
Ở các nước phát triển, TMCB hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Giai đoạn đầu TMCB kêu gọi
người tiêu dùng mua với một giá cao hơn để giúp người sản xuất ở các nước đang
phát triển, sau đó tìm biện pháp để cải tiến chất lượng và người tiêu dùng trả giá đúng
với chất lượng của hàng hóa.
Có rất nhiều khái niệm về TMCB, tuy nhiên để phù hợp với đối tượng và nhiệm
vụ của đề tài khoa học này, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng, đánh giá TMCB dưới góc
độ là một hình thức thương mại quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững cho các nhà
sản xuất có hoàn cảnh khó khăn thông qua các điều kiện kinh doanh tốt hơn. Các tổ
chức TMCB và người tiêu dùng có ý thức cùng nhau hướng tới một hệ thống thương
mại thế giới công bằng, tốt đẹp hơn.
1.1.3. Nguyên tắc TMCB
Các nguyên tắc của TMCB đảm bảo mức thu nhập, tạo công ăn việc làm cho
người nông dân, đồng thời đảm bảo công bằng trong giá cả, bình đẳng về giới, bảo vệ

quyền trẻ em và bảo vệ môi trường.
Cụ thể 10 nguyên tắc của TMCB được trình bày trong PHỤ LỤC 1.
9
1.1.4. Đặc điểm của TMCB
1.1.4.1. Hàng hóa TMCB
Mặt hàng nào cũng có thể được dán nhãn TMCB nếu đảm bảo được các tiêu
chuẩn của TMCB3. Tuy nhiên do mục tiêu của TMCB là hướng tới những nhà sản
xuất tại các nước đang và chậm phát triển nên hàng hóa TMCB chủ yếu là hàng nông
sản, hàng thủ công mỹ nghệ trong khi đối với thương mại thông thường, hàng nông
nghiệp chỉ chiếm dưới 15% kim ngạch xuất nhập khẩu thế giới (WTO, 2012, pp.1).
Hiện nay, trên thế giới có hơn 15 loại hàng TMCB, mỗi loại hàng này lại bao gồm rất
nhiều dòng sản phẩm và sản phẩm bên trong (Products, 2011). Ví dụ như hạt ngũ cốc
thì bao gồm 3 dòng sản phẩm: hạt fonio, quinoa và gạo; trong dòng sản phẩm gạo lại
bao gồm 22 sản phẩm phân biệt (FLO, 2014, pp. 1-2). Sản phẩm TMCB được chia
thành hai loại: sản phẩm đơn chất và sản phẩm hỗn hợp
(composite) (Fairtrade Mark, 2011)
Các sản phẩm đơn chất: là các sản phẩm thô, chưa qua chế biến như chuối, bông,
hoa, hoa quả tươi, vàng, mật, gạo, gia vị.
Các sản phẩm hỗn hợp: là các sản phẩm đã qua chế biến với nguyên liệu từ các
sản phẩm TMCB. Các sản phẩm hỗn hợp này sẽ được cấp chứng nhận TMCB khi và
chỉ khi mọi nguyên liệu (có trong danh mục sản phẩm TMCB) đều là sản phẩm
TMCB. Tùy từng tổ chức TMCB mà họ có thể đưa ra các quy định về hàm lượng
nguyên liệu TMCB tối thiểu như với FLO là 20% (FLO, 2011, pp. 10). Ví dụ như
thanh sô cô là một sản phẩm hỗn hợp được làm từ ca cao, bơ ca cao, đường và nhiểu
nguyên liệu khác, phụ thuộc vào loại sô cô la. Nếu ca cao, bơ ca cao và đường là sản
phẩm của TMCB thì thanh sô cô la đó sẽ được dán nhãn TMCB với điều kiện hàm
lượng 3 loại nguyên liệu trên trong thanh sô cô la lớn hơn hoặc bằng 20%.
1.1.4.2. Nhãn hiệu TMCB:
Nhãn hiệu TMCB là một bằng chứng cho việc sản phẩm hoặc tổ chức phù hợp
với các tiêu chuẩn của TMCB. Trong khi các loại nhãn hiệu thông thường dùng để

chứng nhận về chất lượng, về môi trường, thì nhãn hiệu TMCB lại là nhãn hiệu duy
nhất trên thế giới hiện nay chứng nhận cho tính công bằng về thương mại. Nhãn hiệu
TMCB gồm 2 loại: nhãn hiệu dành cho sản phẩm và nhãn hiệu dành cho nhà sản xuất.
Chú ý: Tất cả các tổ chức TMCB đều tuân theo bộ 10 nguyên tắc chung của TMCB. Tuy nhiên đối với một
số tổ chức dán nhãn riêng có thể phát triển bộ tiêu chuẩn của riêng họ, tuy nhiên vẫn phải dựa trên nền 10
nguyên tắc chung TMCB của thế giới. Ví dụ: FLO phát triển bộ tiêu chuẩn Fairtrade standard năm 2011.
10
1.1.4.2.1. Nhãn hiệu TMCB dành cho sản phẩm
Nhãn hiệu TMCB dành cho sản phẩm là một biểu tượng dùng để phân biệt
giữa sản phẩm TMCB và những sản phẩm thông thường khác. Đối với người tiêu
dùng, nhãn TMCB giúp họ chọn được đúng những sản phẩm TMCB, qua đó giúp đỡ
những người nông dân và công nhân tại các nước đang phát triển. Đối với người sản
xuất và trung gian, nhãn TMCB là sự chứng nhận cho việc sản phẩm và quy trình sản
xuất, phân phối của họ tuân thủ đúng các tiêu chuẩn TMCB (The fair trade mark,
2011).
Mỗi tổ chức TMCB có thể có những nhãn hiệu riêng cho hệ thống của mình.
Hiện nay, hai nhãn hiệu TMCB phổ biến trên toàn thế giới là nhãn hiệu TMCB của
FLO và WFTO. Việc sử dụng nhãn hiệu của các đơn vị được cấp phép (nhà sản xuất,
trung gian) được điều chỉnh bởi các bản hợp đồng và cam kết giữa họ và FLO hoặc
WFTO (Using the fair trade mark, 2011).
Hình 1.1. Một số nhãn hiệu TMCB cho sản phẩm
Nhãn hiệu TMCB của FLO
Nhãn hiệu TMCB của WFTO
1.1.4.2.2. Nhãn hiệu cho nhà sản xuất
Để tạo thêm cơ hội cho các doanh nghiệp mong muốn được sử dụng nguyên
liệu TMCB nhưng các sản phẩm của họ chưa đủ điều kiện để được dán nhãn sản
phẩm, trong thời gian sắp tới, FLO dự định áp dụng thêm một loại nhãn hiệu mới là
“nhãn hiệu chương trình TMCB”. Nhãn hiệu chương trình TMCB có 3 loại tương ứng
đối với ba mặt hàng là ca cao, đường và sợi bông.
Để được cấp phép sử dụng nhãn hiệu, các công ty chỉ cần cam kết sử dụng một

tỷ lệ nhất định nguyên liệu TMCB trong quá trình sản xuất. Ví dụ, một công ty có thể
cam kết mua 30% khối lượng ca cao nguyên liệu là ca cao TMCB để sản xuất kẹo.
Nhãn hiệu chương trình TMCB có thể được dùng trên mặt trước và mặt sau của
bao bì sản phẩm nhưng chỉ đi kèm với tên công ty, không đi kèm với nhãn hiệu sản
phẩm. Công ty được công khai nhãn hiệu thông qua trang web của công ty, trên các
báo cáo hàng năm, báo cáo trách nhiệm xã hội để cho người tiêu dùng biết là họ tham
gia mua những sản phẩm TMCB (Using the fair trade mark, 2011).Chương trình này
11
tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho doanh nghiệp khi muốn tham gia vào chuỗi cung ứng
TMCB. Người tiêu dùng cũng có thể hỗ trợ cho người nông dân khi mua sản phẩm
từ những công ty tham gia chương trình TMCB. Còn người nông dân thì bán được
nhiều sản phẩm TMCB hơn. (The Fair trade program Mark, 2011).
Hình 1.2. Nhãn hiệu chương trình TMCB
Trên đây là 3 nhãn hiệu chương trình TMCB, tương ứng với ba mặt hàng:
đường, sợi bông và ca cao.
1.1.4.2.3. Kiểm tra và dán nhãn
Để đảm bảo mọi sản phẩm được dán nhãn đều tuân thủ các tiêu chuẩn của
TMCB thì việc kiểm tra các nhà sản xuất là cần thiết. Việc kiểm tra bao gồm kiểm tra
ban đầu và kiểm tra định kỳ.
Kiểm tra ban đầu được tiến hành với các nhà sản xuất mong muốn được sử
dụng nhãn hiệu TMCB. Đầu tiên, các nhà sản xuất phải nộp hồ sơ đăng ký theo quy
định của tổ chức cấp phép. Sau đó, tổ chức cấp phép sẽ tiến hành kiểm tra thực tế và
nếu tất cả các tiêu chuẩn TMCB đều được đảm bảo thì nhà sản xuất sẽ dán nhãn cho
sản phẩm họ đã đăng ký. Tổ chức sản xuất sẽ phải trả phí cho toàn bộ quá trình kiểm
tra ban đầu.
Kiểm tra định kỳ được thực hiện với các nhà sản xuất đã được quyền sử dụng
nhãn hiệu. Tùy theo quy định của tổ chức cấp phép mà việc kiểm tra có thể được thực
hiện theo hình thức giấy tờ hoặc kiểm tra thực tế. FLO tiến hành kiểm tra các nhà sản
xuất mỗi năm 1 lần, đối với các tổ chức hoàn thành tốt việc kiểm tra trong nhiều năm
liền, họ sẽ được tin tưởng và chỉ phải kiểm tra 3 năm 1 lần. Trong khi đó, quy trình

kiểm tra định kỳ của WFTO gồm 3 loại: bản tự đánh giá nộp 2 năm 1 lần, kiểm tra
thực tế từ 2 - 6 năm 1 lần, kiểm tra chéo từ 2 - 6 năm 1 lần (Cetifying fair trade, 2011).
1.1.4.3. Giá công bằng
Để đạt được mục tiêu giúp đỡ, bảo vệ và cải thiện đời sống của người nông dân
và công nhân tại các nước đang phát triển, TMCB cần phải giải quyết được một vấn
đề cơ bản là giá bán công bằng cho nhà sản xuất. Bởi một mức giá hợp lý sẽ đem lại
những thay đổi căn bản và quan trọng trong đời sống của họ. Trong tiêu chuẩn TMCB,
12
đối với mọi sản phẩm TMCB, giá bán của người nông dân luôn bao gồm khoản giá
tối thiểu và/hoặc giá phúc lợi (FLO, 2011, pp. 16-18).
Giá công bằng thường được áp dụng cố định (do các tổ chức hỗ trợ ấn định)
trong một thời gian dài, thậm chí có thể lên tới 10 năm như trường hợp của xoài Nam
Phi có giá tối thiểu là 2,42 Zar/kg, giá phúc lợi là 0,21 Zar/kg, áp dụng từ ngày
23/6/2004 cho đến nay vẫn không thay đổi (FLO, 2014, pp. 11). Đây là điểm khác
biệt lớn nhất của giá công bằng và giá thị trường.
1.1.4.3.1. Giá tối thiểu
Giá tối thiểu là mức giá nhỏ nhất mà người mua phải trả cho người sản xuất
cho mỗi sản phẩm để tuân thủ các tiêu chuẩn của TMCB. Mức giá tối thiểu là mức
giá sàn đảm bảo mức sống cho người sản xuất; chi trả đủ cho chi phí sản xuất trung
bình nhằm cho phép họ tiếp tục sản xuất một cách bền vững mà không phải chịu lỗ.
Giá tối thiểu sẽ bảo vệ nhà sản xuất khỏi việc bị ép bán sản phẩm với giá rẻ khi
giá thị trường thấp hơn giá tổi thiểu. Trong trường hợp giá tối thiểu chưa được xác
định hoặc giá thị trường cao hơn giá tối thiểu thì người mua phải trả ít nhất bằng giá
thị trường. Với mỗi hợp đồng, một sản phẩm chỉ được định một mức giá tối thiểu.
Giá tối thiểu có thể được xem xét lại nếu các bên liên quan trong các khâu sản xuất
sản phẩm đó đều đồng ý. Việc điều chỉnh sẽ xem xét tới tỷ giá hối đoái và chỉ số giá
tiêu dùng. Ví dụ: giá EXW chuối hữu cơ tươi xuất xứ Đông Nam Á có giá tối thiểu
là 10,18$/kg, áp dụng từ ngày 01/01/2012. (FLO, 2014, pp. 8)
Giá tối thiểu bao gồm giá nhân công; nguyên liệu và các dịch vụ đầu vào; chi
phí vốn, chi phí đầu tư cho việc thành lập tổ chức, chi phí khấu hao tài sản hữu hình,

khấu hao đất, chi phí quản lý, chi phí thu hoạch và sau thu hoạch, chi phí sơ chế (nếu
có), chi phí chuẩn bị hàng và chi phí đóng gói (nếu có); và một mức lợi nhuận hợp lý.
1.1.4.3.2. Giá phúc lợi
Giá phúc lợi là một khoản tiền mà người sản xuất được nhận thêm từ người mua
để đầu tư cho cộng đồng, cuộc sống, công việc kinh doanh của người sản xuất (với
các tổ chức của người sản xuất nhỏ) hoặc đầu tư cho phát triển điều kiện kinh tế xã
hội cho công nhân và cộng đồng của họ (trong trường hợp công nhân làm thuê). Mục
đích cụ thể sẽ do những người sản xuất quyết định một cách dân chủ. Giá phúc lợi có
thể được thể hiện bằng một con số tuyệt đối hoặc một tỉ lệ tương đối tùy vào từng
trường hợp. Ví dụ: giá phúc lợi của gạo jasmine Thái Lan là 19,14 EUR/tấn; giá phúc
13
lợi của đường mía hữu cơ áp dụng toàn thế giới là 15% giá thị trường (áp dụng từ
ngày 12/03/2009)(FLO, 2014, pp.1).
1.1.4.4. Thanh toán và hỗ trợ tài chính
Thực tế cho thấy, những người sản xuất TMCB tại các nước đang phát triển
chủ yếu là những người sản xuất nhỏ lẻ và thường xuyên ở trong tình trạng thiếu vốn.
Để giải quyết vấn đề này, các tổ chức TMCB đưa ra tiêu chuẩn về hỗ trợ tài chính.
Hỗ trợ tài chính là một khoản tài chính ngắn hạn, cho phép tổ chức tài trợ vốn
cho các nhà sản xuất thành viên. Mục tiêu của nó là giúp người sản xuất có thể tiếp
cận được nguồn vốn một cách hợp lý để có thể thực hiện được những đơn hàng. Mức
hỗ trợ này là do trung gian hoặc công ty chế biến cung cấp theo hợp đồng được ký
với nhà sản xuất. Với các thành viên của FLO, khi người sản xuất yêu cầu và không
có quy định khác, tỷ lệ hỗ trợ tài chính trước có thể đạt đến mức trần là 60% trị giá
hợp đồng với mức lãi suất hợp lý4. Mức tối thiểu sẽ cho nhà sản xuất quy định. Như
vậy, nhà sản xuất có thể yêu cầu hỗ trợ tối đa là 60% trị giá hợp đồng và người mua
sẽ bắt buộc phải cung cấp được. Các khoản hỗ trợ này có thể dưới dạng trả trước hoặc
cung cấp giống cây cho người sản xuất (FLO, 2011, pp. 14 – 16). Đối với WFTO, tỷ
lệ hỗ trợ tối thiểu là 50%; lãi suất 0% với hàng thủ công và lãi suất hợp lý với mặt
hàng thực phẩm (WFTO, 2014, pp. 7/23). So sánh với lãi suất trả trước trong thương
mại thông thường (được tính theo lãi suất thị trường cộng thêm mức lãi để bù đắp rủi

ro) thì mức lãi suất của hỗ trợ tài chính trong TMCB thấp hơn rất nhiều.
Trên thực tế, trong hệ thống TMCB, hỗ trợ tài chính trước của người mua chỉ
đáp ứng được một phần nhu cầu vốn ngắn hạn của người sản xuất. Tình trạng thiếu
vốn sản xuất vẫn xảy ra, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
1.1.4.5. Phân phối sản phẩm công bằng
1.1.4.5.1. Mô hình phân phối
Một trong những điều kiện cơ bản trong TMCB là tối giản hóa khâu trung gian
để giảm chi phí. Việc giảm thiểu khâu trung gian là yếu tố tiên quyết để đảm bảo mức
giá của sản phẩm công bằng không quá cao đồng thời vẫn duy trì được mức giá tối
thiểu cho người sản xuất. Tuy nhiên, giảm trung gian không có nghĩa là không có
trung gian mà là thay các trung gian thương mại thông thường bằng các tổ chức
TMCB với chi phí thấp hơn nhiều. Vì chủ yếu nhà sản xuất TMCB ở tại các nước
Lãi suất hợp lý là lãi suất nhỏ hơn lãi suất mà nhà sản xuất có thể vay từ bên thứ ba.
14
đang phát triển, trong khi người tiêu dùng hàng hóa TMCB lại thường là người tiêu
dùng tại các nước phát triển, nên kênh phân phối TMCB chính là kênh xuất khẩu.
Hình 1.3. Mô hình phân phối sản phẩm TMCB
Nhà sản
xuất đơn lẻ
TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI
Tổ chức
của người
sản xuất
Nhà
xuất
khẩu
Nhà
nhập
khẩu
Tổ

chức
bán lẻ
Người tiêu
dùng có ý
thức
Công ty
sản xuất
Tổ chức
hỗ trợ
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tổng hợp
Trong mô hình trên, chiều của mũi tên thể hiện dòng chảy của hàng hóa từ tay
người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Ban đầu, các sản xuất đơn lẻ trực tiếp sản
xuất hàng hóa TMCB. Hàng hóa này sẽ được các tổ chức của người sản xuất thu mua,
sau đó chuyển qua nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, tổ chức bán lẻ trước khi tới được
tay người tiêu dùng. Đối với các sản phẩm hỗn hợp thì kênh phân phối còn có thêm
sự tham gia của công ty sản xuất. Trong mô hình phân phối trên, một tổ chức có thể
đồng thời đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau. Ví dụ như tổ chức sản xuất có thể đồng
thời là nhà xuất khẩu hay nhà nhập khẩu có thể kiêm thêm nhiệm vụ bán lẻ. Các tổ
chức hỗ trợ không tham gia vào phân phối hàng hóa, tuy nhiên, nó có vai trò điều
phối và kiểm soát chung cho cả quá trình.
1.1.4.5.2. Các chủ thể trong hệ thống phân phối của TMCB
Hệ thống phân phối của TMCB bao gồm các chủ thể chính là: nhà sản xuất,
trung gian thương mại, tổ chức hỗ trợ, người tiêu dùng.
a. Nhà sản xuất
Nhà sản xuất trong mô hình phân phối bao gồm 3 chủ thể: nhà sản xuất đơn lẻ,
tập hợp của nhà sản xuất, công ty sản xuất (WFTO, 2014, pp. 2/23).
Các nhà sản xuất đơn lẻ là người trực tiếp tham gia sản xuất ra các sản phẩm
TMCB đơn chất. Họ chính là những người nông dân, thợ thủ công và công nhân đơn
lẻ - chủ thể hưởng lợi chính từ sự phát triển của TMCB. Nhờ vào sự xuất hiện của
15

TMCB mà các nhà sản xuất có cơ hội đầu tư vốn cho nghiên cứu và sản xuất các sản
phẩm phù hợp hơn với thị trường; đồng thời bán được những sản phẩm TMCB với
một mức giá công bằng hơn.
Tổ chức các sản xuất là một tập hợp những nhà sản xuất, đại diện thương mại
và pháp lý cho các thành viên trong các mối quan hệ với các chủ thể khác trong chuỗi
cung ứng TMCB và quyết định mục đích sử dụng của giá phúc lợi thông qua biểu
quyết dân chủ giữa các thành viên. Các tổ chức sản xuất có thể là các HTX, các hiệp
hội, các cửa hàng gia đình, các công ty nhỏ, các doanh nghiệp xã hội có ý thức trách
nhiệm hoặc cũng có thể là các tổ chức phi chính phủ. Tổ chức người sản xuất được
chia thành nhiều cấp. Tập hợp các nhà sản xuất đơn lẻ tạo thành tổ chức cấp 1, tập
hợp các tổ chức cấp 1 tạo thành tổ chức cấp 2.
Nhiệm vụ của các tổ chức sản xuất là thu mua sản phẩm từ các nhà sản xuất
đơn lẻ, bán lại cho các trung gian TMCB theo hợp đồng dài hạn, đảm bảo điều phối
hoạt động của các thành viên, giám sát việc thực hiện các nguyên tắc, tiêu chuẩn của
TMCB trong quá trình sản xuất, đưa ra các quyết định về đầu tư cho các dự án xã hội
từ nguồn lợi nhuận TMCB. Ngoài ra, trong một số trường hợp, tổ chức sản xuất có
thể đảm nhận thêm giai đoạn chế biến, đóng gói sản phẩm, xuất khẩu hoặc tự bán lẻ
thông qua hệ thống cửa hàng riêng. Ví dụ, GNC là tổ chức của người sản xuất nhưng
lại trực tiếp xuất khẩu hàng hóa cho các nhà nhập khẩu tại châu Âu. (Edwardson, W.
& Santacoloma, P. 2013, pp. 14)
Hoạt động theo nhóm cho phép những người sản xuất có điều kiện và khả năng
thực hiện những dự án mang tính cộng đồng có quy mô lớn mà nếu hoạt động riêng
lẻ, họ không thể làm được. Ngoài ra, việc tập hợp các nhà sản xuất nhỏ lẻ thành các
nhóm, HTX sẽ tạo ra sức mạnh của người bán, tránh bị ép giá.
Các công ty sản xuất TMCB là các tổ chức, công ty tư nhân mua nguyên liệu
TMCB để sản xuất sản phẩm TMCB hỗn hợp. Sản phẩm của các công ty này có thể
là các sản phẩm đơn chất hoặc các sản phẩm hỗn hợp. Ngoài việc tuân thủ các quy
định về sản phẩm hỗn hợp được dán nhãn cho sản phẩm, họ phải tuân theo đúng tiêu
chuẩn dành cho các tổ chức thuê lao động, cụ thể là đáp ứng 3 điều kiện vể quản lý
giá phúc lợi, đảm bảo quyền tự do liên kết và điều kiện làm việc. (Standard for hired

labour, 2011).
16
b. Trung gian thương mại
Tương tự như thương mại thông thường, các sản phẩm TMCB được phân phối
tới người tiêu dùng thông qua các trung gian TMCB. Tuy nhiên, cơ chế hoạt động của
các tổ chức này phải đáp ứng những tiêu chuẩn của TMCB5 và được chứng nhận bởi
các tổ chức TMCB quốc tế. Các tổ chức trung gian mua hàng hóa TMCB trực tiếp từ
các tổ chức sản xuất theo hợp đồng dài hạn, thanh toán và hỗ trợ tài chính theo đúng
quy định của TMCB và cung cấp các hỗ trợ khác. Khác với thương mại truyền thống,
giữa nhà sản xuất và trung gian thương mại, TMCB hướng tới giảm dần và tiến tới
xóa bỏ quan hệ đối đầu về giá, chất lượng, thanh toán cũng như các điều khoản khác.
Trung gian TMCB gồm hai nhóm chính: tổ chức bán buôn và tổ chức bán lẻ
(WFTO, 2014, pp. 2/23).
Tổ chức bán buôn là các tổ chức, công ty mua bán hàng hóa TMCB với số
lượng lớn. Tổ chức bán buôn bao gồm: nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, công ty thương
mại trong nước,…trong đó quan trọng nhất là nhà xuất khẩu và nhập khẩu.
Nhà xuất khẩu là những tổ chức, công ty, cá nhân mua sản phẩm TMCB từ tổ
chức sản xuất và tiến hành xuất khẩu các sản phẩm này ra nước ngoài. Nhiệm vụ của
tổ chức xuất khẩu là kết hợp chặt chẽ với các tổ chức sản xuất, nghiên cứu thị trường,
kết nối các nhà sản xuất hoàn cảnh khó khăn với các tổ chức nhập khẩu ở các nước
đang phát triển và hỗ trợ họ trong việc đáp ứng những yêu cầu và các nguyên tắc của
TMCB.
Nhà nhập khẩu nhập khẩu sản phẩm TMCB từ các tổ chức sản xuất hoặc từ các
tổ chức xuất khẩu. Nhà nhập khẩu thường là các doanh nghiệp tại các nước phát triển.
Họ giúp đỡ các đối tác sản xuất TMCB trong quá trình phát triển sản phẩm, đào tạo
các kỹ năng và cũng hỗ trợ thêm trong điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Tại quốc
gia của mình, các tổ chức nhập khẩu hoạt động như những nhà bán buôn, bán lẻ, hoặc
đôi khi là sự kết hợp của cả hai (Nguyễn Mai Trang, 2009, pp. 13-17).
Ví dụ như công ty Claro Fair trade, thành viên của WFTO, vừa đóng vai trò là người
nhập khẩu sản phẩm TMCB để bán lại cho các cửa hàng bán lẻ trên khắp thế giới,

vừa đóng vai trò là tổ chức bán lẻ với hơn 126 cửa hàng bán lẻ Claro trên khắp Thụy
Sĩ.
Tiêu chuẩn dành cho tổ chức thương mại do tổ chức cấp phép quy định, như của FLO là Fairtrade trade standard
hoặc của WFTO là tiêu chuẩn dành cho thành viên thương mại tại Quarantee system
17
Tổ chức bán lẻ là các tổ chức trực tiếp bán sản phẩm TMCB tới người tiêu
dùng. Tổ chức bán lẻ thường là các doanh nghiệp tại các nước phát triển, họ phân
phối hàng thông qua hệ thống các cửa hàng, siêu thị, Các cửa hàng, siêu thị này có
thể chỉ phân phối hàng TMCB hoặc cũng có thể phân phối đồng thời hàng hóa TMCB
và hàng hóa thông thường.
Theo báo cáo của WFTO năm 2010 (Mark, B. 2010, pp. 31) hiện nay có 11 loại
hình tổ chức bán lẻ tham gia vào hệ thống phân phối TMCB. Theo đó, loại hình tổ
chức bán lẻ có quy mô lớn nhất là hệ thống các cửa hàng thương mại đơn lẻ với 635
cửa hàng chiếm 33%.
c. Người tiêu dùng có ý thức
Người tiêu dùng có ý thức tạo ra sự khác biệt khi mua sản phẩm TMCB. Nhận
thức được sự bất bình đẳng gây ra cho các nhà sản xuất bởi hệ thống thương mại hiện
nay, họ đã sẵn sàng trả thêm giá phúc lợi để đảm bảo công bằng và cải thiện cuộc
sống của các cá nhân có hoàn cảnh khó khăn hơn. Người dùng sản phẩm TMCB
không chỉ tiêu dùng một cách có ý thức mà còn phản đối các hoạt động thương mại
không công bằng thông qua các phong trào nhân đạo, gây sức ép đến chính phủ và
các doanh nghiệp, hướng tới sự phát triển bền vững trong thương mại.
d. Các tổ chức hỗ trợ TMCB
Các tổ chức hỗ trợ TMCB là tổ chức được thành lập và được tài trợ bởi các
chủ thể khác trong hệ thống TMCB. Mục tiêu chính của các tổ chức này là ủng hộ và
quảng bá cho TMCB thông qua tuyên truyền về ý tưởng TMCB, xây dựng bộ tiêu
chuẩn TMCB, Ví dụ nhiệm vụ chính của FLO là thiết lập bộ tiêu chuẩn TMCB
mang tính quốc tế, hỗ trợ nhà sản xuất trên khắp thế giới, phát triển chiến lược TMCB
toàn cầu và thúc đẩy công bằng trong thương mại toàn cầu. (Mark, B. 2010, pp.28)
Các tổ chức hỗ trợ lớn nhất hiện nay là FLO, WFTO, EFTO với hệ thống riêng

các tổ chức hỗ trợ thành viên. Các thành viên này đều phải được cấp chứng nhận
thành viên và tuân theo các quy định của tổ chức “mẹ” mà mình trực thuộc. Các tổ
chức hỗ trợ không tham gia vào kênh phân phối hàng hóa TMCB mà chỉ có vai trò là
người điều phối và quản lý chung.
Ngoài ra, các công ty chế biến, công ty dịch vụ logistics có thể tham gia vào
chuỗi phân phối sản phẩm TMCB, tùy thuộc vào từng mặt hàng cụ thể (Edwardson,
W., 2013, pp. 18).
18
Bảng 1.1. So sánh đặc điểm TMCB và thương mại thông thường
Tiêu chí
TMCB
Thương mại thông thường
Chủ yếu là nông sản, hàng thủ Đa dạng nhưng sản phẩm nông
Hàng hóa
công nghiệp.
nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ, dưới
10%
Nhãn hiệu TMCB chứng nhận Nhãn hiệu công ty, nhãn hiệu của
Nhãn hiệu
Giá
Thanh toán
tính công bằng về thương mại do các tổ chức quản lý
chất lượng
tổ chức TMCB cấp. độc lập cấp.
Cao hơn và ổn định. Giá được Biến động, do thị
trường quyết
đàm phán trên cơ sở giá tổi thiểu định, các chủ thể ít
có khả năng
và giá phúc lợi được tổ chức can thiệp.
TMCB định sẵn.

Thanh toán với nhiều ưu đãi và Điều kiện thanh toán
tự thỏa
nhiều hỗ trợ tài chính khác theo thuận, phụ thuộc vào
quyền lực
quy định của tổ
chức TMCB
mua bán giữa hai bên.
Đặc
Tối giản trung gian, phân phối có Thường nhiều
trung gian, phân
điểm
kiểm soát phối tự do.
Nhà sản Hoạt động trong các tổ chức sản Thường hoạt động đơn lẻ, độc lập
xuất
Trung
gian
thương
xuất trên cơ sở hợp tác và dân và cạnh tranh lẫn
nhau.
chủ.
Quan hệ với tổ chức sản xuất theo Quan hệ mua bán
thông thường,
hợp đồng dài hạn, tránh đối đầu dễ xảy ra đối đầu lợi
ích với
và cung cấp nhiều hỗ trợ khác. người sản xuất.
mại
Người Người tiêu dùng có ý thức, quan Người tiêu dùng thông thường tiêu tâm
tới quyền lợi của người sản phần lớn chưa quan tâm tới dùng xuất. quyền lợi
của người sản xuất.
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tổng hợp

×