Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Nghiên cứu hiệu quả của phác đồ amoxicillin clarithromycin rabeprazol 14 ngày về lâm sàng, nội soi, tiệt trừ helicobacter pylori và mô bệnh học ở cá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 99 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

I HC HU
TRNG I HC Y DC HU

Vế THNH NAM BèNH

NGHIÊN CứU HIệU QUả CủA PHáC Đồ AMOXICILLINCLARITHROMYCIN-RABEPRAZOL 14 NGàY


CáC BệNH NHÂN VIÊM Dạ DàY MạN
Có NHIễM HELICOBACTER pylorI

LUN N CHUYấN KHOA CP II

HU - 2013


B GIO DC V O TO

B Y T

I HC HU
TRNG I HC Y DC HU

Vế THNH NAM BèNH

NGHIÊN CứU HIệU QUả CủA PHáC Đồ AMOXICILLIN
CLARITHROMYCINRABEPRAZOL 14 NGàY ở CáC BệNH


NHÂN VIÊM Dạ DàY MạN Có NHIễM HELICOBACTER pylorI

LUN N CHUYấN KHOA CP II
Chuyờn ngnh: Ni khoa
Mó s: CK 62 72 20 01

Ngi hng dn khoa hc
PGS.TS TRN VN HUY

HU - 2013


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm dạ dày mạn là bệnh khá phổ biến ở Việt Nam cũng như nhiều nước
trên thế giới. Ở Mỹ viêm dạ dày mạn chiếm 50% những người trên 50 tuổi và
38% dân số. Ở Nhật Bản có tới 79% người trên 50 tuổi bị viêm dạ dày mạn. Ở
Pháp tỉ lệ viêm dạ dày mạn là 50% dân số. Ở Châu Âu số người trên 60 tuổi bị
viêm dạ dày mạn chiếm 30-50%. Ở Việt Nam qua một số kết quả nghiên cứu
gần đây của Nguyễn Thị Hòa Bình cho thấy tỉ lệ mắc bệnh này khá cao 48,54%
[4],và 59,9%[11]
Bệnh viêm dạ dày mạn tiến triển tiềm tàng, thời gian mang bệnh kéo dài
và gây ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống của người bệnh. Viêm dạ dày mạn
được quan tâm nghiên cứu khá nhiều không chỉ vì số lượng người mắc bệnh
lớn mà cho đến nay vẫn chưa có thuốc gì điều trị đặc hiệu, hơn nữa bệnh lại
khá nguy hiểm vì có nguy cơ dẫn đến ung thư [13],[17],[25], [94].
Trước năm 1983 có nhiều yếu tố như: ăn uống, sinh hoạt, thời tiết…
được coi là nguyên nhân gây viêm dạ dày nhưng chưa một yếu tố nào được
chứng minh một cách thuyết phục. Năm 1983 Marshal và Warren đã tìm thấy

vi

khuẩn Helicobacter pylori (Hp) tại dạ dày và chứng minh được vai trò gây

bệnh của vi khuẩn này trong viêm dạ dày, loét dạ dày tá tràng, đặc biệt là những
cải thiện mô bệnh học sau khi điều trị làm sạch Helicobacter pyloriđã làm thay
đổi các quan điểm trước đây về nguyên nhân cơ chế bệnh sinh và cách điều trị
viêm dạ dày mạn. [5], [18],[25],[37], [69].
Bệnh nhân viêm dạ dày mạn có Helicobacter pylori nếu được chẩn đoán
sớm, được điều trị và theo dõi chặt chẽ sẽ giảm được nguy cơ gây ung thư dạ
dày đã giúp cho việc chẩn đoán bệnh lý ở dạ dày tá tràng ngày càng chính xác
hơn.


2

Hệ thống Sydney (ra đời năm 1990, bổ sung năm 1994) đã đưa ra những
tiêu chuẩn chẩn đoán viêm dạ dày mạn bằng hình ảnh nội soi và mô bệnh học
được đánh giá là hoàn chỉnh nhất trong những cách phân loại viêm dạ dày trên
thế giới [24].
Chúng tôi nhận thấy ở khu vực Nam trung bộ bệnh nhân viêm dạ dày đến
khám tại các phòng khám chiếm tỉ lệ khá cao, hiệu quả điều trị chưa đánh giá
được một cách đầy đủ. Ở Việt nam có nhiều đề tài nghiên cứu tỷ lệ tiệt trừ
Helicobacter pylori nhưng còn rất ít nghiên cứu về hiệu quả của tiệt trừ
Helicobacter pylori lên hình ảnh nội soi, mô bệnh học. Đây là hướng nghiên
cứu rất quan trọng, là cơ sở khoa học cho dữ liệu dự phòng ung thư dạ dày ở
bệnh nhân viêm dạ dày mạn do nghi ngờ có ung thư.
Liệu những những hình ảnh nội soi, mô bệnh học có thay đổi sau khi
điều trị Helicobacter pylori không? Phác đồ điều trị với RabeprazoleAmoxcilin-Clarithromycin (RAC) kéo dài 14 ngày sẽ đạt hiệu quả như thế nào?
Để trả lời các câu hỏi này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu

hiệu quả của phác đồ Rabeprazole-Amoxicillin-Clarithromycin 14 ngày ở
các bệnh nhân viêm dạ dày mạn có nhiễm Helicobacter pylori.” với mục tiêu
sau:
1. Xác định tỷ lệ điều trị tiệt trừ Helicobacter pyloricủa phác đồ
Rabeprazole - Amoxicillin - Clarithromycin 14 ngày ở các bệnh nhân viêm dạ
dày mạn.
2.

Đánh giá hiệu quả của phác đồ về phương diện lâm sàng, nội soi, mô

bệnh học và tác dụng phụ của thuốc.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. DỊCH TỄ HỌC HELICOBACTER PYLORI
Helicobacter pylori là trong các vi khuẩn có tỷ lệ lây nhiễm phổ biến
nhất trên thế giới. Ở các nước công nghiệp phát triển, trung bình có khoảng 2030% dân số bị nhiễm khuẩn này và tăng nhanh tới trên 50% ở tuổi 60. Tỷ lệ
nhiễm cao và kéo dài dẫn đến viêm dạ dày (VDD) mạn tính trong đó có những
người bị chuyển thành loét dạ dày tá tràng (DDTT), một số chuyển thành ung
thư dạ dày (UTDD) [4], [6]. Tỷ lệ nhiễm Hp của trẻ em ở miền Tây Virginia
(Mỹ) được coi là rất cao với 35% trước 15 tuổi; ở Mexico 1 tuổi là 20% và 10
tuổi là 50% và trong cùng một thành phố tỷ lệ nhiễm ở người có độ tuổi về hưu
(80-85 tuổi) chiếm 34,8%. Tỷ lệ nhiễm Hp trong nhân dân Mỹ khoảng 45%.
[20], [63]. Ở các nước Đông Nam Á (bao gồm Việt Nam), tỷ lệ nhiễm trong
quần thể khoảng 55-60%. Mitchell và Bohane thấy rằng tỷ lệ nhiễm Hp tăng
cao trong những gia đình đã có người bị nhiễm Hp trước đó.

Graham và CS đã xét nghiệm Hp cho 485 người tình nguyện ở Mỹ bằng
xét nghiệm huyết thanh và test thở, thấy rằng tỷ lệ nhiệm Hp trong nhóm người
da đen rất cao 70% so với 34% ở nhóm người da trắng. Nhiễm Hp ở trẻ em da
đen cũng cao gần gấp đôi so với trẻ em da trắng, tỷ lệ tương ứng là 80% và
43% [63], [75], [88].
Các nghiên cứu về dịch tễ học cũng cho thấy tình hình nhiễm Hp ở trẻ
em như sau: Bardhan khảo sát ở 14 nước đang phát triển thấy tỷ lệ nhiễm Hp ở
tuổi 15 là 80%. Ở Bangladesh tỷ lệ Hp (+) là 61% ở trẻ 1-3 tháng, 33% ở trẻ 1
tuổi, > 80% ở trẻ > 5 tuổi. Ở Nicaragua, 63% ở trẻ > 2 tuổi có Hp (+). Nghiên


4

cứu ở Châu Âu như Đức chỉ có 40/647 trẻ ở lứa tuổi 5 - 8 tuổi có Hp (+) chiếm
tỷ lệ 6,1%; 27.6% trẻ em ở các nước khác có Hp (+) [73], [88].


Việt Nam (2001), sử dụng kỹ thuật ELISA phát hiện tỷ lệ nhiễm Hp ở

528 người khỏe mạnh cho thấy: Tỷ lệ nhiễm Hp trong quần thể nghiên cứu là
75,2%. Tỷ lệ nhiễm giữa nam và nữ là như nhau. Trẻ nhỏ nhiễm Hp thấp hơn
người lớn, xuất hiện ở cả 1- 2 tuổi. Tỷ lệ nhiễm Hp ở các địa phương cũng khác
nhau[4], [20].
Tỷ lệ nhiễm tăng theo tuổi qua nghiên cứu xét nghiệm huyết thanh của
những nhóm người cùng hoàn cảnh kinh tế - xã hội ở các nước phát triển cũng
giống như ở các nước đang phát triển. Trong một nghiên cứu gồm 3000 người
không có triệu chứng thuộc 17 quần thể, tỷ lệ nhiễm chung ở những người từ
55- 64 tuổi là 62%, ở những người độ tuổi 25- 34 là 35%. Ở những nước đang
phát triển hơn một nửa số trẻ em 10 tuổi bị nhiễm Hp. Những người có điều
kiện kinh tế - xã hội thấp thường có tỷ lệ nhiễm cao [20].

Nhiễm khuẩn Hp chủ yếu bị mắc từ tuổi nhỏ, và sự khác nhau về tỷ lệ
hiện nhiễm quan sát qua các thế hệ nối tiếp đã phản ánh những điều kiện kinh
tế - xã hội và môi trường họ sống trong suốt thế kỷ XX. Phần lớn các nghiên
cứu về tỷ lệ hiện nhiễm theo phương pháp cắt ngang. Chưa có nhiều nghiên
cứu về tỷ lệ mới nhiễm và theo dõi lâu dài. Trong một số nghiên cứu quần thể
cho biết: ở miền tây châu Úc và Canada, trẻ em thường sớm bị nhiễm Hp.
Những trẻ đẻ sớm hơn có tỷ lệ nhiễm cao hơn những trẻ đẻ muộn hơn [10],
[20].
Một nghiên cứu quần thể đáng chú ý của Malaty và CS (1999) về diễn
biến tự nhiên của nhiễm Hp ở trẻ nhỏ tại một cộng đồng có 2 chủng tộc theo
dõi 12 năm. Kết quả cho biết: ở tuổi 7- 9, có 19% số trẻ bị nhiễm Hp (40% trẻ
da đen so với 11% trẻ da trắng với p = 0,001). 12 năm sau, 33% số trẻ có test


5

huyết thanh dương tính (64% trẻ da đen so với 20% trẻ da trắng). Sự tăng tỷ lệ
lên 9% ở trẻ da trắng và 24% ở trẻ da đen không phải chỉ do nhiễm khuẩn mới.
Phân tích từng trường hợp cho thấy thực ra ở trẻ da trắng có 22 trẻ (16% số
không bị nhiễm lúc đầu) đã bị nhiễm trong quá trình theo dõi nhưng có 8 trẻ
(50% số nhiễm lúc đầu) đã trở nên âm tính. Ở trẻ da đen, có 16 trẻ (43% số trẻ
chưa bị nhiễm Hp lúc đầu) mới bị nhiễm khuẩn trong quá trình theo dõi, song
chỉ có 1 trở nên âm tính (4% số đã bị nhiễm). Sự chuyển đổi huyết thanh ở 38
trẻ đã xảy ra trước lúc 10- 12 tuổi; 22 ca (58%), vào giữa độ tuổi 10 - 12 và 15 17: 8 ca (21%) và vào độ tuổi 15- 17 đến 19- 21 : 8 ca (21%), [10], [20]
Nghiên cứu này cho thấy tính chất diễn biến của nhiễm khuẩn ở trẻ cùng
lứa tuổi, và có khác nhau giữa các chủng tộc, tuy cùng những điều kiện kinh tế
xã hội giống nhau, song tập quán xã hội ở những người da đen có thể giải thích
sự truyền bệnh trong gia đình họ. Như vậy sự tăng theo tuổi có lẽ phản ánh tác
động của quần thể hơn là xu hướng bị nhiễm trong quá trình sống suốt cuộc
đời.

1.2. VIÊM DẠ DÀY MẠN (VDDM)
G.E.Stahl (1728) là người đầu tiên dùng danh từ VDDM trong y văn.
Tuy nhiên những hiểu biết về bệnh này từ thời gian đó đến đầu thế kỷ XX
không được đầy đủ vì đa số dựa vào kết quả mổ tử thi. Từ khi có sự ra đời của
ống nội soi dạ dày nửa cứng nửa mềm của Schinler (1932) và nhất là ống soi dạ
dày mềm của Hirchowitz(1956) những hiểu biết về viêm dạ dày mới ngày càng
phong phú và đầy đủ.
Viêm dạ dày chiếm tỉ lệ cao nhất (66,29%) trong nhóm bệnh dạ dày tá
tràng và tần xuất gặp nhiều nhất trong nội soi tiêu hóa trên (47,73%) [18].
VDDM là tình trạng tổn thương có tính chất kéo dài và tiến triển chậm, không
đặc hiệu, có thể lan tỏa hoặc khu trú tại một vùng của dạ dày, dần dần có thể


6

dẫn đến các biến đổi mô bệnh học quan trọng như viêm teo tuyến niêm mạc dạ
dày, dị sản ruột, loạn sản…[12], [17].
1.2.1 Nguyên nhân của viêm dạ dày mạn
VDDM có nhiều nguyên nhân song trên thực tế khó xác định chắc chắn
nguyên nhân của một trường hợp cụ thể, vì trên cùng một bệnh nhân (BN) có
thể có sự phối hợp của nhiều nguyên nhân. Các nguyên nhân này thường phải
tác động trong một thời gian dài mới có thể gây nên những tổn thương mạn cho
niêm mạc dạ dày. Sau đây là những nguyên nhân nói đúng hơn là những yếu tố
nguy cơ gây VDDM được nhiều tác giả công nhận : Tuổi, yếu tố di truyền, yếu
tố miễn dịch, yếu tố nội tiết, bệnh hệ thống, nguyên nhân bên trong dạ dày (ứ
trệ và trào ngược), các yếu tố ngoại lai (thức ăn, rượu, thuốc lá, thuốc, hóa chất,
các ổ nhiễm trùng …). Hp là nguyên nhân quan trọng trong viêm dạ dày mạn
và cả trong ung thư dạ dày [25].
1.2.2 Cơ chế bệnh sinh của viêm dạ dày mạn
Bình thường hàng rào bảo vệ niêm mạc dạ dày hạn chế sự khuếch tán

ngược của ion H+ từ lòng dạ dày tới niêm mạc dạ dày và các ion Na + từ niêm
mạc tới lòng dạ dày. Các thuốc kháng viêm non steroid, corticoid, aspirin và
một số chất như muối mật, dịch tụy …có khả năng làm tăng sự khuyếch tán
ngược của ion H+ qua niêm mạc dạ dày, từ đó làm tổn thương niêm mạc dạ dày.
Mức độ tổn thương tỉ lệ thuận với số lượng ion H +. Hậu quả cuối cùng dẫn đến
tổn thương hoại tử hoặc chảy máu niêm mạc dạ dày hoặc tổn thương cả 2 dạng
trên đưa đến viêm dạ dày cấp (VDDC) và khi kéo dài sẽ dẫn đến viêm dạ dày
mạn (VDDM) [4], [26].


7

Hình 1.1. Cơ chế bệnh sinh Hp
[Nature Reviews, 2006]

1.2.3 Triệu chứng lâm sàng của viêm dạ dày mạn
Không có dấu hiệu lâm sàng đặc trưng của VDDM. Bệnh nhân có những
rối loạn chức năng (tương tự như trong rối loạn tiêu hóa) xảy ra sớm, ngay sau
khi ăn. [26].
- Cảm giác nặng bụng, chướng bụng, ợ hơi, nhức đầu, cảm giác đắng
miệng vào buổi sáng, buồn nôn, nôn, chán ăn, đại tiện táo lỏng thất thường.
- Đau vùng thượng vị không nhiều, thường chỉ là cảm giác khó chịu âm
ỉ, thường xuyên tăng lên sau khi ăn.


8

- Khám thực thể: Thể trạng bình thường hoặc gầy đi chút ít. Da khô tróc
vẩy, có vết ấn của răng trên rìa lưỡi, lỡ loét, chảy máu lợi, lưỡi bựa trắng. Đau
tức vùng thượng vị khi gõ hoặc ấn sâu.

1.2.4. Chẩn đoán viêm dạ dày mạn
1.2.4.1. Triệu chứng lâm sàng
Chỉ có giá trị gợi ý, không có giá trị chẩn đoán xác định.
1.2.4.2. Hình ảnh nội soi
Dựa vào tổn thương bất thường trên niêm mạc dạ dày để nhận định viêm
dạ dày theo hệ thống Sydney. Phương pháp này có giá trị tương đối trong chẩn
đoán [4].
1.2.4.3. Mô bệnh học
Là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định VDDM. Tổn thương mô bệnh
học theo tiêu chuẩn của hệ thống Sydney thường được nhiều người áp dụng [4].
1.2.4.4. Dịch vị
Bằng phương pháp nghiên cứu sự tiết acid dạ dày cơ sở và tiết acid dạ
dày tối đa sau kích thích bằng Histalong hoặc Pentagastrin, người ta thấy ở
người bình thường đậm độ acid dịch vị là 22-25mEq/l. Ở người VDDM nhất là
thể viêm teo lượng acid tối đa không quá 3-5mEq/l trong 1 giờ. Phương pháp
thăm dò bài tiết dịch vị ít sử dụng để chẩn đoán VDDM ở nước ta hiện nay [4].
1.2.4.5 Chụp dạ dày có uống Barít
Phương pháp này ít có giá trị trong chẩn đoán.
1.2.5 Phân lọai viêm dạ dày mạn
Đây là một vấn đề được các thầy thuốc quan tâm đến rất nhiều từ vài
thập kỷ nay.


9

Trước khi hệ thống Sydney ra đời, đã có nhiều cách phân loại. Do thiếu
sự thống nhất nên mỗi phân loại chủ yếu dựa vào phương pháp đã được dùng
để chẩn đoán VDDM: nội soi, mô bệnh học, nguyên nhân, bệnh sinh… [4], [5].
1.2.5.1. Các phân loại nội soi trước khi hệ thống Sydney ra đời
- Phân loại của Schindler (1947): Gồm 3 loại chính:

+ Viêm nông: Viêm nông niêm mạc với hình ảnh đại thể là phù nề, nhiều
ổ sung huyết và những vết sướt nhỏ kiểu trợt.
+ Viêm teo: Niêm mạc mỏng màu xám nhạt, nhìn thấy bất thường mạch
máu dưới niêm mạc.
+ Viêm phì đại: Niêm mạc mất bóng, phù nề, có nhiều nếp to không đều,
các nếp này không xẹp khi bơm hơi.
- Phân loại theo Moulinier và Truchot: Dựa trên hình ảnh quan sát nội
soi:
+ Thay đổi màu sắc:
* Hình ảnh chảy máu: Chảy máu thành chấm hoặc vùng, tập trung hoặc
không tập trung.
* Hình ảnh sung huyết: Niêm mạc đỏ, bóng đều.
* Hình ảnh trắng nhạt: Lan tỏa hoặc thành vùng, nhìn thấy các mao
mạch bên dưới.
+ Thay đổi bề mặt niêm mạc:
* Các vết sướt phẳng hoặc có gờ bao quanh.
* Các vết nổi dạng polyp hoặc lõm.
* Các cục đơn thuần.
* Các nếp niêm mạc to, đều hoặc hình chuỗi hạt.


10

1.2.5.2. Phân loại theo mô bệnh học
- Phân loại của Whitehead và cộng sự (1972): Đây là phân loại phổ cập
nhất được nhiều người tán thành:
+ Viêm nông mạn: Viêm chỉ khu trú ở vùng khe, các tuyến còn bình
thường. Tính chất hoạt động của viêm nông mạn được đánh giá bởi sự có mặt
của bạch cầu đa nhân trung tính (BCĐNTT).
+ Viêm teo mạn: Được phân thành nhẹ, trung bình và nặng.

- Phân loại của Wyatt và Dixon. Có 3 loại:
+ Viêm dạ dày typ A: Viêm dạ dày tự miễn.
+ Viêm dạ dày typ B: Dùng cho các viêm dạ dày có nhiễm Hp, viêm chủ
yếu ở vùng hang vị.
+ Viêm dạ dày typ C: Bao gồm những viêm dạ dày do trào ngược hoặc
do dùng thuốc, hóa chất.
1.3. HỆ THỐNG SYDNEY
Tại hội nghị tiêu hóa lần thứ IX họp tại Sydney (Australia) năm 1990,
một nhóm chuyên gia được hội nghị ủy nhiệm với sự giúp đỡ của một nhóm cố
vấn giải phẫu bệnh Châu Âu đã soạn thảo một phân loại mới về viêm dạ dày.
Phân loại mới này được hội nghị thông qua và mang tên “Hệ thống Sydney để
phân loại viêm dạ dày”. Hệ thống này đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng
trong phân loại và chẩn đoán viêm dạ dày [4], [24].
1.3.1. Đặc điểm chung của phân loại Sydney
Người nội soi định khu các tổn thương viêm theo vùng: thân vị, hang vị
hay toàn bộ dạ dày [4], [24].
Mô bệnh học: Hệ thống Sydney nêu tiêu chuẩn về mô bệnh học niêm
mạc dạ dày bình thường. Khi sắp xếp các tổn thương về mặt mô bệnh học, hệ
thống Sydney đã cố gắng định ra các mức độ nhẹ,vừa, nặng đối với viêm, hoạt


11

động, teo, dị sản ruột, số lượng Hp có mặt trong các khe của niêm mạc vùng
hang vị [4].
Theo hệ thống Sydney: Hình ảnh nội soi và mô bệnh học của VDDM có
liên quan chặt chẽ với nhau [25], [26].
1.3.2. Các đặc điểm nội soi của viêm dạ dày mạn
Người ta có thể phân loại về mặt nội soi những thể thông thường của
viêm dạ dày như sau:

-

Viêm dạ dày phù nề sung huyết: Niêm mạc kém nhẳn bóng, nhạt màu,

có những vùng phù nề sung huyết.
- Viêm dạ dày trợt phẳng: Niêm mạc có những vết trợt nhỏ, có giả mạc
bám ở rìa, có viền đỏ hoặc không bao quanh hoặc có trợt nông chạy dài trên các
nếp niêm mạc ở thân vị.
- Viêm dạ dày trợt lồi: Các cục viêm riêng biệt hoặc sát nhau nổi gồ lên
trên niêm mạc, đỉnh hơi lõm và có thể trợt hoặc chấm xuất huyết.
- Viêm dạ dày teo: Niêm mạc mỏng, nhẵn, trắng nhạt, các nếp niêm mạc
thưa thớt, nhìn rõ mạch máu.
- Viêm dạ dày phì đại: Niêm mạc to, thô, dày chồng lên nhau, trên đỉnh
các nếp niêm mạc có trợt nông, các nếp niêm mạc không xẹp khi bơm hơi.
- Viêm dạ dày chảy máu (viêm xuất huyết): Có xuất huyết dưới niêm
mạc hoặc những đám xuất huyết máu tụ đen hoặc hơi rỉ máu.
- Viêm dạ dày trào ngược dịch mật: Niêm mạc sung huyết đỏ rực, có
dịch mật trào qua lỗ môn vị hoặc dịch mật trong lòng dạ dày.
1.3.3. Hình ảnh mô bệnh học theo hệ thống Sydney
Trước đây niêm mạc dạ dày bình thường chưa được thống nhất về tiêu
chuẩn mô bệnh học giữa các nhà giải phẫu bệnh. Hiện nay, theo phân loại
Sydney niêm mạc dạ dày bình thường khi có 5 bạch cầu đơn nhân (BCĐN) trên


12

1 vi trường với độ phóng đại gấp 400 lần, ở vùng thân vị hạn hữu dưới niêm
mạc có thể gặp những đám nhỏ lympho. Người ta chỉ công nhận sự có mặt của
1 bạch cầu đa nhân trung tính (BCĐNTT) đơn độc [4], [25], [26].
- VDDM: Tăng chủ yếu BCĐN trong mô đệm, ít BCĐNTT. Tùy theo

mức độ nặng nhẹ mà các tuyến có thể còn bình thường hay bị tổn thương [4].
1.4. VI KHUẨN HELICOBACTER PYLORI
1.4.1. Vài nét về lịch sử phát triển của Helicobacter pylori
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một số tác giả đã quan sát thấy một loại
vi khuẩn ở niêm mạc dạ dày nhưng cho là tình cờ nên không để tâm nghiên
cứu. Mãi đến năm 1983 Robin Warren và Marry Marshall nuôi cấy thành công
vi

khuẩn đã phát hiện và đặt tên là Campylobacter. Đến năm 1989 do phát hiện

thêm một số tính chất hóa học nên vi khuẩn Campylobacter pylori được đổi tên
thành Hp và được chấp nhận đến ngày nay.
1.4.2. Đƣờng lây truyền của Hp
Qua các công trình nghiên cứu ước lượng có khoảng gần 50% dân số
trên thế giới nhiễm Hp. Tần xuất nhiễm Hp tương quan nghịch với trình độ
kinh tế xã hội của dân chúng. Nghèo đói,vệ sinh thấp, gia đình đông con là
những yếu tố làm dễ cho sự lây truyền Hp. Với lý do này số ca mắc bệnh mới
giảm đáng kể ở các nước phát triển, trong khi ở các nước đang phát triển tỉ lệ
này vẫn giữ ở mức cao. Tiến triển này đưa đến hệ quả của thế hệ với một tần
suất nhiễm khuẩn ở những nước phát triển ngày một giảm theo tuổi. Sự khẳng
định khuynh hướng này có thể dẫn đến trong những thập kỷ tới tình trạng
nhiễm Hp sẽ giảm rất nhiều hoặc biến mất ở các nước này. Những dữ kiện về
dịch tễ này cũng cho phép biết được sự giảm tần suất các bệnh liên quan đến
Hp [35].


13




Việt Nam, Vương Tuyết Mai và cộng sự (2001) sử dụng kỹ thuật

Elisa phát hiện tỉ lệ nhiễm Hp trong quần thể nghiên cứu là 75,2%, tỉ lệ namnữ tương đương nhau, trẻ nhỏ tỉ lệ nhiễm thấp hơn người lớn, ở các địa phương
khác nhau tỉ lệ nhiễm cũng khác nhau [13].
Yếu tố có khả năng bảo vệ chống lại sự lây nhiễm Hp là tình trạng dinh
dưỡng thích hợp, đặc biệt là ăn nhiều trái cây, rau xanh và vitamin C. Nguy cơ
lây nhiễm Hp tăng lên nếu thực phẩm được chế biến dưới mức tiêu chuẩn vệ
sinh lý tưởng hoặc là phơi nhiễm với nước và đất bị nhiễm vi khuẩn.
Nhiều nghiên cứu thấy rằng Hp lây chủ yếu qua đường : miệng - miệng,
phân - miệng, thông qua nguồn nước bị ô nhiễm. Quan niệm về cách lây lan từ
người này sang người khác được ủng hộ bởi tỉ lệ nhiễm Hp cao hơn trong số
những trẻ em và người lớn sống tập thể, nhiễm Hp tập trung trong các gia đình.
Những gia đình có nhiều thế hệ thành viên cùng chung sống nếu có người bị
nhiễm Hp thì nguy cơ lây nhiễm cho các thành viên khác trong gia đình là rất
cao đặc biệt là từ mẹ sang con, giữa các anh chị em ruột hoặc giữa vợ và chồng.
Quan niệm này còn được ủng hộ bởi việc phát hiện được DNA của Hp
trong dịch nôn, nước bọt, mảng bám răng, phân và nhiều sản phẩm khác của
người và động vật [11], [37].


người nhiễm Hp vi khuẩn có thể tồn tại suốt đời. Tuy nhiên sự biến

mất vi khuẩn một cách tự nhiên cũng có thể xảy ra chủ yếu là ở trẻ em, hoặc
muộn về sau trong tiến trình VDDM teo và làm mất HCl làm vi khuẩn khó tồn
tại [37].
Hiểu biết về cách lây truyền của Hp là một vấn đề quan trọng để có thể
ngăn ngừa lây lan bằng biện pháp y tế công cộng và có thể hữu ích để xác định
được các quần thể có nguy cơ cao, đặc biệt là những vùng có tỉ lệ cao bệnh
nhân bị u lympho dạ dày, ung thư dạ dày và loét dạ dày.



14

1.4.3. Một số đặc điểm của Helicobacter pylori
1.4.3.1. Đặc điểm, hình thái, tính chất, màu sắc

Hình 1.2. Vi khuẩn H. pylori dưới kính hiển vi điện tử
-

Hình thể, màu sắc: Hp là 1 xoắn khuẩn Gram (-) có dạng mỏng manh

cong xoắn hoặc hình chữ S. Dưới kính hiển vi điện tử dài 2,5-5µm, rộng 0,51µm. Bề mặt vi khuẩn nhẵn có 4-6 tiêm mao dài ở một đầu, đầu mút có hình củ
hành [35]. Nhờ có roi mà vi khuẩn di chuyển được trong lớp nhầy của niêm
mạc dạ dày.
Tùy phương pháp nhuộm mà Hp có màu sắc khác nhau:
+ Màu xanh thẫm trên tiêu bản nhuộm Giemsa.
+

Màu tím đỏ trên tiêu bản nhuộm Hematoxilin-Eosin (HE).

-

Tính chất nuôi cấy: Hp là 1 vi khuẩn rất khó nuôi cấy, muốn nuôi cấy

được phải có môi trường đặc biệt. Môi trường cấy được ủ ở 37 độ C trong môi


15

trường vi ái khí bảo hòa trong nước với 5% O 2 và 5-10% CO2. Thời gian mọc

là 3-7 ngày với khuẩn lạc mang đặc tính đặc hiệu, nếu dùng giảm tiết trước thì
mọc chậm hơn có thể đến 12 ngày [35]. pH tốt nhất cho sự phát triển của Hp là
7-8. Một trong những khâu quan trọng trong việc phân lập Hp là bảo quản và
vận chuyển các mảnh sinh thiết từ phòng nội soi về cơ sở nuôi cấy. Có tài liệu
đề cập đến những trường hợp (-) giả do bảo quản và vận chuyển bệnh phẩm.
Nhiệt độ bảo quản bệnh phẩm: không quá 4 giờ ở nhiệt độ thường, < 24/ giờ thì
nên bảo quản ở 4 độ C, > 24 /giờ thì ở - 70 độ C [37].
-

Đặc điểm sinh học quan trọng của Hp là sản sinh ra nhiều enzym, quan

trọng nhất là urease.
+ Urease là một trong những enzym của Hp có tính kháng nguyên cao
nhất đối với người bệnh. Số lượng urease do Hp sản xuất ra lớn hơn rất nhiều
so với vi khuẩn khác. Cho nên ở dạ dày sự có mặt của urease biểu hiện sự có
mặt của Hp. Urease thủy phân ure có trong dạ dày thành amoniac và CO2.
+ Vai trò của amoniac tạo nên 1 lớp đệm bao quanh Hp giúp cho Hp sống
được trong môi trường acid của dạ dày. Nhưng đồng thời amoniac do urease
thủy phân gây độc cho tế bào niêm mạc dạ dày và như vậy urease đóng một vai
trò quan trọng trong tổn thương niêm mạc dạ dày. Đặc điểm sinh hóa trên của
Hp là nguyên lý xét nghiệm test ure dùng để chẩn đoán nhiễm Hp.
Ngoài niêm mạc dạ dày Hp còn cư trú ở niêm mạc tá tràng, niêm mạc
thực quản khi có dị sản niêm mạc dạ dày.
1.4.3.2. Phân loại Helicobacter pylori
Đến nay đã có 15 loài Helicobacter được tìm thấy ở người và động vật
Trong đó có 8 loài quần cư ở dạ dày, 6 ở ruột và 1 ở gan. Trong các loài quần
cư ở dạ dày chỉ có 2 loài Hp và Helicobacter heilmanni [4], [7].


16


1.4.4. Các phƣơng pháp chẩn đoán nhiễm Helicobacter Pylori
1.4.4.1. Phương pháp trực tiếp
- Nội soi:
+

Chang và cộng sự dựa vào đặc điểm sinh hóa của urease đã cho bơm

vào dạ dày khi nội soi một hỗn hợp ure và đỏ phenol (chất chỉ thị màu pH) qua
một ống thông. Bệnh nhân được coi là Hp (+) khi thấy 1 vùng nào đó của niêm
mạc dạ dày chuyển thành màu đỏ sau khi bơm hơi 5 phút [4].
+

Laben và cộng sự đã đưa ra 5 tiêu chuẩn nội soi để chẩn đoán VDDM

có nhiễm Hp [4]:
* Các vết trợt mạn vùng hang vị.
* Hình ảnh nốt vùng hang vị.
* Ban đỏ rõ rệt vùng hang vị.
* Các tổn thương phức hợp vùng hang vị: những nốt ban đỏ với những
vùng nhạt màu hơn.
* Những vùng viêm dạ dày rõ rệt hơn và ban đỏ lan tỏa hoặc lốm đốm
vùng đáy.
- Sinh thiết niêm mạc dạ dày:
+ Phải làm cách xa đợt điều trị bằng kháng sinh, bismuth hoặc thuốc ức
chế bơm proton [4].
+ Phân loại viêm dạ dày theo hệ thống Sydney, phải sinh thiết vùng hang
vị và thân vị [4].
+ Cần sát khuẩn máy nội soi và kiềm sinh thiết để tránh lây nhiễm.
* Test nhanh urease:

Dựa vào đặc tính Hp tiết rất nhiều men urease, người ta làm xét nghiệm
tìm urease qua đó xác định sự có mặt của Hp trong dạ dày tá tràng. Qua nội soi
dạ dày tá tràng, sinh thiết một mảnh niêm mạc, mảnh niêm mạc này được vùi
vào trong môi trường có chứa urê và chất chỉ thị màu, nếu có men urease


17

(chứng tỏ có Helicobacter pylori) thì men này sẽ thủy phân urê của môi trường
thành ammoniac và CO2. Ammoniac khi được giải phóng sẽ làm tăng pH của
môi trường thử nên làm đổi màu chất chỉ thị màu từ màu vàng nhạt sang màu
hồng cánh sen.
Urease

Urea + H2O → CO2 + NH3 (môi trường kiềm) → Đổi màu chất chỉ thị
màu
Ưu điểm của test nhanh urease: Sau 20 phút, ngay trong phòng nội soi đã
có thể chẩn đoán được 75% trường hợp nhiễm Hp mà không có phản ứng
dương tính giả [4],[15].
Hạn chế của test urease:
Trong điều kiện hiện nay người ta thừa nhận ngưỡng phát hiện vi khuẩn
là 104 - 105vi khuẩn/ml.
Nếu đọc test sau 24 giờ, do 1 số vi khuẩn có nguồn gốc ở miệng hoặc ở
ruột cũng sản xuất urease nhưng chậm hơn Hp cho nên có thể cho kết quả
dương tính giả.
- Mô bệnh học:
. Nhuộm Giemsa là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất bởi kỹ thuật
đơn giản, dễ thực hiện, giá rẽ mà độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
. Nhuộm Warthin-Starry cho hình ảnh rõ nét của Hp với độ nhạy và độ
đặc hiệu cao nhưng lâu, kỹ thuật phức tạp và khá tốn kém.

. Nhuộm Hematoxilin-Eosin tuy độ nhạy thấp hơn nhuộm Giemsa và
Warthi-starry …Nhưng cho phép xác định tốt những mô bệnh học [4].
*

Nuôi cấy: Đây là phương pháp đặc hiệu nhưng có độ nhạy thấp, kết

quả chậm nên chỉ dùng trong nghiên cứu hoặc đánh giá tính nhạy cảm kháng
sinh của Hp và trong nghiên cứu về di truyền.


18

* Phương pháp khuếch đại gen (PCR – Polymerase Chain Reaction)
Cho phép phát hiện chuỗi AND đặc hiệu của Hp trong mẫu sinh thiết dạ
dày, trong dịch dạ dày, trong chất nhầy hoặc trong nước bọt, mảng bám răng,
trong phân có thể phát hiện mật độ vi khuẩn (VK) thấp<106/1g phân. Tuy
nhiên không cho phép phát hiện sự hiện diện của VK sống. Kỹ thuật này cũng
cho phép phát hiện VK từ mẫu sinh thiết dạ dày, sự đột biến nhiễm sắc thể gây
đề kháng với các macrolides sự hiện diện của các gien có tiềm năng gây bệnh
như gien CagA, allen VacA [35].
1.4.4.2. Phương pháp gián tiếp
- Huyết thanh học:
Phương pháp phát hiện kháng thể IgG đặc hiệu với Hp trong huyết
thanh.
+

Xét nghiệm huyết thanh học định tính: Xác định có hay không có

kháng thể Hp trong huyết thanh. Độ nhạy và độ đặc hiệu cao, kỹ thuật đơn giản
với những kit bán sẵn trên thị trường cho chẩn đoán nhanh. Tuy nhiên, phương

pháp này chỉ cho biết có hay không có nhiễm Hp còn hiện tại không biết rõ có
còn Hp hay không.
+

Xét nghiệm huyết thanh học định lượng (với test ELISA chuẩn): Xác

định hàm lượng kháng thể trong huyết thanh. Vì thế, để đánh giá kết quả điều
trị, test ELISA phải làm sau điều trị ít nhất 6 tháng mới thấy được hàm lượng
kháng thể kháng Hp trong huyết thanh giảm. Do đó, phương pháp này chỉ có
giá trị trong nghiên cứu dịch tễ học nhiễm Hp.
- Test thở: Được coi là phương pháp đáng tin cậy nhất và dễ thực hiện.
+ Nguyên tắc: Sử dụng urea đã được đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ
C13 hoặc C14 cho bệnh nhân uống, urea nhanh chóng bị thủy phân bởi urease
của Hp thành NH3 và CO2. Khí CO2 (có C13 hoặc C14) được hấp thu vào máu,


19

vận chuyển đến phổi và được đào thải ra ngoài. Sự có mặt hoặc không có mặt
của Hp được đánh giá bởi nồng độ C13, C14 đo được qua lượng CO2 mà bệnh
nhân thở ra.
+

Ưu điểm: Là phương pháp có độ nhạy và độ đặc hiệu cao (> 90%).

Dùng để đánh giá kết quả diệt Hp sau điều trị.
+ Nhược điểm: Máy móc đắt tiền nên ít được sử dụng rộng rãi.
Các phương pháp chẩn đoán nhiễm Hp qua phân, nước bọt và nước tiểu
đang trong thời kỳ nghiên cứu.
Phương pháp miễn dịch phát hiện Hp trong phân có thể được thực hiện

nhờ kỹ thuật ELISA. Khả năng chẩn đoán khá tốt (độ đặc hiệu 94,6%, độ nhạy
88,9%). Phương pháp này cũng đầy hứa hẹn để theo dõi sự điều trị tiệt trừ Hp
[35].
1.4.4.3. Nhận xét chung về các phương pháp chẩn đoán nhiễm Helicobacter
Pylori
Sự hiểu biết về sinh lý, hình thái, cấu trúc, tính chất bắt màu, các men do
Hp tiết ra, cơ chế gây bệnh và miễn dịch… Đã giúp cho các kỹ thuật chẩn đoán
nhiễm Hp ngày càng phong phú và hoàn thiện. Tuy nhiên, việc có nhiều
phương pháp dùng để chẩn đoán nhiễm Hp đã chứng tỏ chưa có một phương
pháp nào là thực sự hoàn hảo. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm và nhược
điểm của nó, cho nên trong thực tế tùy theo hoàn cảnh và điều kiện, khả năng
và yêu cầu cụ thể mà người ta lựa chọn những phương pháp thích hợp.
1.4.5. Điều trị triệt trừ Helicobacter pylori
* Thuốc ức chế bơm proton
Các thuốc ức chế bơm proton (PPI: Proton Pump Inhibitors) như
Omeprazole ra đời vào năm 1979 và đưa vào sử dụng trên người vào đầu
những năm của thập niên 1980 (có các biệt dược: Losec, Mopral, Mepraz…),


20

Lansoprazole (Prevacid, Lanzor…), Pantoprazole (Pantoloc…), Rabeprazole
(Veloz, Pariet…), năm 2000 là Esomeprazole (biệt dược: Nexium), và mới đây
năm 2009 có thêm các thế hệ thuốc ức chế bơm proton mới ra đời… là những
thuốc kháng tiết mạnh và có hiệu quả cao khi kết hợp với thuốc kháng sinh
trong các phác đồ điều trị tiệt trừ Hp. Tác dụng của thuốc kháng tiết acid, thí dụ
Omeprazole với liều 20 mg ngày sẽ làm giảm chế tiết acid dạ dày trong 24 giờ
đến 90%. Khi tăng liều lên 40 mg thì acid dạ dày sẽ giảm xuống 98% trong 24
giờ và thời gian duy trì pH > 5,5 kéo dài hơn 16 giờ. PPI có tác dụng hiệp đồng
đối với các thuốc kháng sinh và tự nó cũng có khả năng ức chế vi khuẩn H.

pylori. PPI làm giảm chế tiết acid và cùng với việc giảm thể tích dịch vị, vì vậy
làm cho nồng độ của kháng sinh trong dạ dày tăng lên dẫn đến tác dụng diệt
khuẩn cao của các kháng sinh trong phác đồ được dùng để điều trị. Thêm vào
đó, PPI còn có tác dụng trực tiếp diệt Hp trên in vitro và cũng có tác dụng ức
chế Hp trên in vivo [27].
* Thuốc kháng thụ thể H2
Các thuốc kháng thụ thể H2 ra đời vào giữa những năm của thập niên
1970 của thế kỷ trước, là những thuốc có tác dụng ức chế tiết acid chọn lọc trên
các thụ thể H2 ở màng đáy của tế bào thành. Các loại thuốc được sử dụng bao
gồm: Cimetidine (biệt dược: Tagamet), Ranitidine (biệt dược: Zantac,
Azantac…), Famotidine (biệt dược: Pepcidine), và Nizatidine. So sánh giữa hai
nhóm thuốc kháng tiết: kháng thụ thể H2 với nhóm ức chế bơm proton, nhóm
thuốc ức chế bơm proton có tác dụng làm giảm chế tiết acid của dạ dày có ý
nghĩa cao hơn.
Theo khuyến cáo Hội nghị đồng thuận Châu Á-Thái Bình Dương năm
1997, trong các phác đồ điều trị kết hợp thuốc kháng tiết, khuynh hướng chung
hiện nay ủng hộ việc dùng PPI hơn là thuốc kháng thụ thể H2 [16].


21

* Các thuốc kháng sinh
Có nhiều loại kháng sinh có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của vi khuẩn
trên in vitro nhưng không có tác dụng tiệt trừ Hp trên in vivo. Điều này có thể
giải thích là do: (1) Thuốc không tác động đầy đủ trên niêm mạc dạ dày do ảnh
hưởng của lớp chất nhầy bảo vệ và do đó làm giảm hoạt lực của các kháng
sinh, và (2) Quan trọng hơn ở trong môi trường acid của dạ dày thì tác dụng
của các loại kháng sinh còn phụ thuộc vào pH, và vì vậy ảnh hưởng đến hiệu
quả điều trị tiệt trừ Hp trên in vivo [12].
Các kháng sinh thường được sử dụng trong điều trị tiệt trừ Hp từ trước

tới nay gồm: Amoxicillin, Clarithromycin, Metronidazole hoặc Tinidazole,
Tetracycline, và Bismuth. Kết quả của những nghiên cứu gần đây cho thấy việc
kháng thuốc với Metronidazole và Clarithromycin ảnh hưởng đến hiệu quả điều
trị tiệt trừ Hp. Đây là vấn đề quan trọng đặt ra cho những nghiên cứu tiếp tục
trong tương lai, vì kháng thuốc có ảnh hưởng trực tiếp đến thành công hoặc thất
bại của điều trị. Những năm gần đây, với sự ra đời của nhiều loại kháng sinh
mới được dùng tiệt trừ H. pylori, và sự kết hợp với các kháng sinh mới này
được coi là các phác đồ điều trị “cứu vãn” như:
+ Nhóm Fluoroquinolones trong đó Levofloxacin là thuốc có tác dụng
ngăn chặn DNA gyrase và sự tổng hợp DNA của vi khuẩn, tuy nhiên kháng
thuốc với nhóm Fluoroquinolones hiện nay đang gia tăng nhanh chóng tại các
vùng khác nhau trên thế giới.
+

Furazolidone là một kháng sinh phổ rộng có tác dụng ức chế

monoamine oxydase dựa trên liên kết với các men của vi khuẩn. Khi kết hợp
Furazolidone trong phác đồ điều trị 3 thuốc sẽ làm tăng tỷ lệ tiệt trừ Hp và là
thuốc hiện nay mà vi khuẩn Hp hiếm khi kháng với Furazolidone.


22

+

Rifabutin là kháng sinh Ansamycin bán tổng hợp có nồng độ ức chế tối

thiểu thấp đối với H. pylori. Hiện nay Rifabutin được dùng kết hợp với
Amoxicillin và PPI trong điều trị tiệt trừ Hp với tỷ lệ tiệt trừ thành công cao.
Nhìn chung, việc vận dụng linh hoạt và thích hợp các phác đồ điều trị

trong thực hành ở những vùng địa dư có tỷ lệ kháng thuốc khác nhau, ngoài
việc góp phần và quyết định đến tỷ lệ tiệt trừ Hp thành công còn có ý nghĩa
nhằm hạn chế tối đa tỷ lệ kháng thuốc thứ phát hay là tỷ lệ kháng thuốc mắc
phải có thể xảy ra do thất bại của điều trị lần đầu. Theo quan điểm điều trị cập
nhật mới hiện nay, có thể kéo dài thời gian của các phác đồ điều trị lên đến 14
ngày, và trong trường hợp thất bại với phác đồ 3 thuốc PPI + 2 kháng sinh,
hoặc phác đồ 4 thuốc, cần sử dụng một trong các kháng sinh mới thay thế để
làm tăng hiệu quả điều trị tiệt trừ H. pylori.
Tổng hợp các quan điểm điều trị tiệt trừ Hp hiện nay, một số các phác đồ
theo trình tự dưới đây.
+ Các phác đồ kinh điển điều trị trong 7 ngày
Phác đồ 3 thuốc: PPI hoặc RBC phối hợp với 2 kháng sinh
- (PPI + Amoxicillin 1000 mg + Clarithromycin 500 mg) x 2 lần ngày,
điều trị trong 7 ngày.
-

(PPI + Clarithromycin 500 mg + Metronidazole hoặc Tinidazole 500

mg) x 2 lần ngày, điều trị trong 7 ngày.
- (PPI + Amoxicillin 1000 mg + Metronidazole hoặc Tinidazole 500 mg)
x 2 lần ngày, điều trị trong 7 ngày.
PPI gồm các thuốc: Omeprazole 20 mg, Lanzoprazole 30 mg,
Pantoprazole 40 mg, Rabeprazole 20 mg, Esomeprazole 20 mg hoặc 40 mg.
RBC (Ranitidine Bismuth Citrate)
Phác đồ 4 thuốc: PPI + BMT
- (PPI + Metronidazole 500 mg) × 2 lần ngày + (Bismuth 120 mg +
Tetracycline 500 mg) × 4 lần ngày, điều trị trong 7 ngày.


23


+ Các phác đồ kinh điển, điều trị 14 ngày
Phác đồ 3 thuốc
- (PPI + Amoxicillin 1g + Clarithromycin 500 mg hoặc Metronidazole,
và hoặc Tinidazole 500 mg) × 2 lần ngày, 14 ngày.
Phác đồ 4 thuốc
- (Bismuth + Metronidazole 500 mg + Tetracycline 500 mg) × 3 lần ngày
+ PPI × 2 lần ngày, điều trị trong 14 ngày.
+ Phác đồ điều trị nối tiếp
- (PPI + Amoxicillin 1 g) × 2 lần ngày trong 5 ngày. Ngày thứ 6 ngưng
Amoxicillin và thêm vào (Clarithromycin 500 mg và Metronidazole hoặc
Tinidazole 500 mg) × 2 lần ngày, điều trị trong 5 ngày tiếp theo.
+ Phác đồ “cứu vãn” hay phác đồ sử dụng các kháng sinh mới.
Trong trường hợp điều trị thất bại với phác đồ 3 thuốc kinh điển và hoặc
kể cả phác đồ 4 thuốc, việc điều trị tiếp theo cần dựa trên kết quả kháng sinh
đồ. Tùy trường hợp cụ thể và hết sức linh hoạt, có sử dụng một loại kháng sinh
mới

như

Levofloxacin,

Rifabutin,



hoặc

Furazolidone


thay

thế

Clarithromycin hoặc Metronidazole trong các phác đồ 3 thuốc kinh điển.
1.4.6. Dƣợc động học, tác dụng phụ của các thuốc (RAC) trong nghiên cứu
+ Rabeprazole
Dược lực: Rabeprazole ức chế H+, K+ - ATPase
Ức chế tiết acid dạ dày, có tác dụng chống loét mạnh đối với nhiều loại
vết loét và cải thiện sang thương niêm mạc dạ dày thực nghiệm.
Ức chế tiết acid dạ dày, có tác dụng chống loét mạnh đối với nhiều loại
vết loét và cải thiện sang thương niêm mạc dạ dày thực nghiệm.
Tác dụng phụ: suy nhược, sốt, phản ứng dị ứng, ớn lạnh, mệt mỏi, đau
ngực dưới xương ức, cứng cổ nhạy cảm ánh sáng, rối loạn tiêu hóa, ợ hơi, xuất
huyết trực tràng, tiêu phân đen, chán ăn, viêm loét miệng lợi, viêm túi mật…


×