Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TỔNG QUAN về THÀNH PHẦN hóa học và tác DỤNG SINH học của ĐINH LĂNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.18 KB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ TÁC DỤNG SINH
HỌC CỦA ĐINH LĂNG
Chi Đinh lăng
Chi Đinh lăng (danh pháp khoa học: Polyscias) là một chi trong thực vật có
hoa thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae), chứa khoảng 114-150 loài (tùy theo
quan điểm phân loại), chủ yếu phân bố tại khu vực Madagascar, đặc biệt ở
một số đảo ở Thái Bình Dương 1],[20-24]. Ở Việt Nam có 07 loài đều là cây
trồng [1],[20-24]. Chi Polyscias là chi lớn thứ hai trong họ Nhân sâm [25],
cho đến nay trên thế giới chỉ có một số loài của chi Polyscias đã được quan
tâm nghiên cứu như: P. fruticosa (L.) Harms, P. filicifolia Bail., P. scutellaria
(Burm. f.) Merr., P. amplifolia (Baker) Harms, P. dichroostachya Baker, P.
fulva, P. murrayi Harms và Polyscias sp. Nov.
Theo Phạm Hoàng Hộ ở Việt Nam có các loài Đinh lăng sau:
- Đinh lăng lá nhỏ thường gọi là cây lá gỏi hay Đinh lăng lá xẻ, tên khoa học:
Polyscias

fruticosa

L.

Harms.-

Nothopanax

fruticosus

(L.)

Miq.

Tieghemopanax fruticosus Vig.


- Đinh lăng lá tròn: Polyscias balfouriana Baill.
- Đinh lăng trổ còn gọi là Đinh lăng viền bạc: Polycias guilfoylei (Cogn
Marche)

Baill.

- Đinh lăng lá to còn gọi là Đinh lăng ráng, tên khoa học là Polyscias
filicifolia (Merr) Baill.
- Đinh lăng đĩa: Lá to tròn, tên khoa học là Polyscias scutellarius (Burm. F.)
Merr.
- Đinh lăng lá răng: Lá 2 lần kép, thân màu xám trắng, tên khoa học là
Polyscias serrata Balf.

1


Nghiên cứu về Hóa học
- Trong số các loài thuộc chi Polyscias đã liệt kê ở trên, đặc biệt là loài P.
fruticosa (L.) Harms được quan tâm và nghiên cứu rất nhiều về mặt hóa học
và tác dụng sinh học.
- Tổng hợp các tài liệu nghiên cứu về hóa học các loài thuộc chi Polyscias
trong nước và trên thế giới có thể chia cấu trúc hóa học của các chất phân lập
theo nhóm các hợp chất sau [2-4], [26-43].
 Các hợp chất polyacetylen

 Các sterol và glycoside của sterol

2



 Tinh dầu

 Các triterpenoid và các glycosid của triterpenoid

 Các saponin có aglycon là acid oleanolic

3


4


 Các saponin có phần aglycon là hederagenin

 Các saponin khác

5


 Các ceramid và cerebrosid

6


Cây Đinh lăng lá xẻ (Polyscias fruticosa (L.) Harms.)
Trong nước:
Đinh lăng có tên khoa học là Polyscias fruticosa (L.) Harms. [syn. Panax
fructicosum L., Nothopanax fructicosum Miq.] (Họ Nhân sâm-Araliaceae).
Cây có nguồn gốc ở vùng đảo Polynésie ở Thái Bình Dương. Cây được trồng
ở Malaisia, Indonesia, Campuchia, Lào…Ở Việt Nam, Đinh lăng có từ lâu và

được trồng phổ biến ở vườn gia đình, đình chùa, trạm xá, bệnh viện để làm
cảnh, làm thuốc, và gia vị.
Cây Đinh lăng là một cây bụi cao khoảng từ 0.5-2m. Thân nhẵn, không có
gai, ít phân nhánh, mang nhiều vết sẹo to, màu xám. Lá to, mọc so le, kép
lông chim 2-3 lần, dài 20-40 cm, lá chét có răng cưa nhọn, đôi khi chia thùy,
có mùi thơm. Hoa nhỏ 5 cánh hình trái xoan, nhị 5, chỉ nhị ngắn, bầu hạ, 2 ô.
Đinh lăng là loại cây ưa ẩm và có thể hơi chịu bóng, trồng được trên nhiều
loại đất. Cây trồng bằng cành sau 2-3 năm cây có hoa quả. Tuy nhiên chưa
quan sát được cây mọc từ hạt. Đinh lăng có khả năng tái sinh vô tính khỏe.
Với một đoạn thân hoặc cành cắm xuống đất đều trở thành cây mới [1]. Đinh
lăng là cây thuốc được sử dụng nhiều trong y học dân gian Việt Nam và
Trung Quốc. Theo kinh nghiệm dân gian, rễ Đinh lăng được dùng làm thuốc
bổ tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yều, mệt mỏi, tiêu hóa kém, phụ nữ
sau khi sinh ít sữa. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ
và làm thuốc lợi tiểu chống độc. Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng
vú, dị ứng mẫn ngứa, vết thương (giã đắp). Thân và cành chữa thấp khớp, đau
lưng. Có thể dùng rễ khô tán bột hoặc rễ tươi ngâm rượu uống [1].

7


Nghiên cứu về dược lý
Cây Đinh lăng có tác dụng làm tăng sức chịu đựng của cơ thể đối với một số
yếu tố như: kiệt sức, nóng,… [6]. Các thí nghiệm trên chuột cho thấy cây
Đinh lăng có khả năng làm tăng tiết niệu gấp trên năm lần so với bình
thường, làm tăng sức đề kháng của chuột đối với các bức xạ siêu cao tầng,
kéo dài thời gian sống của chuột bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium
berghei, làm tăng tác dụng của thuốc chống sốt rét cloroquin [7],[8]. Cây
Đinh lăng có tác dụng tăng lực, tăng cân và bổ khi thí nghiệm trên chuột và
người [9-11]. Thực nghiệm trên người cho thấy, cây Đinh lăng làm tăng khả

năng chịu đựng của bộ đội, vận động viên thể thao [9]. Khác với Nhân sâm,
Đinh lăng không làm tăng huyết áp [6],[8]. Năm 1985, Ngô Ứng Long và
cộng sự [11] đã nghiên cứu độc tính của Đinh lăng cho thấy liều gây chết
LD50 của Đinh lăng theo đường tiêm phúc mạc là 32,9 g/1kg chuột. Kết quả
cho thấy với liều uống hàng ngày 60 g/1kg, sau 3 ngày có hiện tượng chuột
chết, như vậy, Đinh lăng là thuốc ít độc. Nếu so sánh với Nhân sâm về giá trị
LD50 cùng đường tiêm phúc mạc thì Đinh lăng ít độc (độ độc kém 3 lần).
Đinh lăng giúp cơ thể người bị suy mòn nhanh chóng hồi phục, ăn ngon, ngủ
tốt [6]. Dùng Đinh lăng nấu nước uống hàng ngày như thuốc bổ. Các hợp
chất polyacetylen như (8E)-heptadeca-1,8-dien-4,6-diyn-3,10-diol phân lập
được từ cây Panax vietnamensis và Polycias fruticosa cho thấy có hoạt tính
kháng chủng khuẩn Gram dương, kháng nấm Candida albican nhưng không
kháng được chủng khuẩn Gram âm [41].
Năm 2001, Nguyễn Thị Thu Hương và cộng sự [12] đã dùng chuột nhắt trắng
để thử nghiệm tác dụng chống trầm cảm và stress của Đinh lăng. Kết quả cho
thấy cao Đinh lăng có tác dụng chống trầm cảm và phục hồi thời gian ngủ bị
rút ngắn bởi stress, ở liều 45-180 mg/kg thể trọng, khoảng liều này cũng có

8


tác dụng khác như tăng lực, kích thích hoạt động của não bộ và nội tiết, tăng
sức đề kháng của cơ thể, chống viêm và xơ vữa động mạch.
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Thị Thu Hương và Phạm Thị Mỹ Loan
năm 2007 về tác dụng của dịch chiết cồn 96% và cồn 45% lá Đinh lăng trên
mô hình thực nghiệm gây suy giảm miễn dịch bằng cyclophosphamid cho
thấy bột cao lá Đinh lăng (50-100 mg/kg) ức chế sự giảm trọng lượng lách,
tuyến ức gây bởi cyclophosphamid và làm tăng chỉ số thực bào ở cả nhóm
chuột bình thường và nhóm chuột bị gây suy giảm miễn dịch bằng
cyclophosphamid [13]. Dịch chiết cồn của rễ Đinh lăng được nuôi cấy mô

trong 6 tháng đã thể hiện tác dụng tăng lực dài ngày, chống stress nóng và
kháng viêm thực nghiệm tương tự như dịch chiết cồn của rễ cây Đinh lăng 5
năm tuổi trồng trong điều kiện tự nhiên [14]. Dùng 50 g lá tươi (hoặc 30g lá
đã được sao nóng, hoặc 12-20 g thân rễ tươi được sao nóng với gừng) nấu
nước uống hàng ngày để bồi bổ sức khỏe [15].
Trồng trọt
Sinh thái: Đinh lăng là cây sống nhiều năm, ưa ẩm, ưa sáng nhưng cũng
chịu hạn, chịu bóng nhưng không chịu úng ngập. Có thể phát triển trên nhiều
loại đất nhưng tốt nhất là đất pha cát. Cây phát triển mạnh khi nhiệt độ dưới
250C (từ giữa thu đến cuối xuân).
Cây Đinh Lăng Trồng bằng cành hoặc bằng hạt, nhưng chủ yếu là giâm
cành. Chọn những cành già (cây 2 năm tuổi trở lên), chặt đoạn cành ngắn 10
– 15 cm, phun chế phẩm TRICO-ĐHCT liều lượng 5gr/lít nước, để yên nơi
thoáng mát 2 giờ, sau đó đem trồng. Mùa gieo trồng tốt nhất vào tháng 3-4
hoặc tháng 8 – 10. Nên trồng đinh lăng trên đất thoát nước tốt. Có thể trồng
từng hốc hoặc từng hàng thẳng tắp hoặc theo hình dáng tuỳ thích (như hình
thoi, vòng tròn, vòng ô voan...)

9


 Trồng từng hốc: đào hốc có đường kính 1m, sâu 35-40 cm. Lót đáy hố
bằng miếng PE hay nilon cũ ( để rễ cây tập trung trong hố, khi thu
hoạch sẽ lấy gọn cả bộ rễ một cách dễ dàng). Trộn đất với phân
chuồng hoai mục (10 kg) cho đầy hố, nén đất xuống rồi trồng cây đã
ươm vào- ba cây một hố theo hình tam giác đều, cây cách cây 50 cm.
Tưới nước và ấn chặt đất xung quanh gốc, rồi vun đất tạo thành vồng
có rãnh thoát nước xung quanh. Nếu có bèo tây ủ vào gốc để giữ ẩm là
tốt nhất.
 Trồng theo hàng thẳng hoặc tạo hình dáng: Đào băng rộng 40 cm, sâu

35-40 cm, rồi lót nilon cũ hoặc PE cũ xuống đáy và trồng cây như trên
(không đặt cây theo hình tam giác đều mà chỉnh theo hàng thẳng hoặc
hình dáng định trồng).
Cây Đinh Lăng có thể thu hoạch vào cuối thu năm thứ 2 (cây trồng 3-5
năm có năng suất vỏ rễ vỏ thân cao nhất). Rễ và thân cây rửa sạch đất cát, cắt
rời rễ lớn, hong gió một ngày cho ráo nước (khi bóc vỏ rất dễ) để riêng từng
loại vỏ thân, vỏ rễ sau khi bóc. Rễ nhỏ có đường kính dưới 10mm không bóc
vỏ. Loại đường kính dưới 5mm để riêng. Phơi, sấy liên tục đến khi khô ròn là
được.
- Phân loại:
+ Loại I: vỏ, rễ cây loại có đường kính (lúc tươi) từ 10mm trở lên.
+ Loại II: vỏ thân và vỏ rễ có đường kính dưới 10mm (vỏ thân gần gốc
dày

trên

2mm).

+ Loại III: các loại rễ và vỏ thân mỏng dưới 2mm.
- Bảo quản: nơi khô, sạch, chú ý phòng ẩm và mối mọt dễ phát sinh. Vỏ
rễ, vỏ thân thời hạn sử dụng 2 năm. Nếu chế thành cao lỏng, dung môi
rượu 450C sẽ bảo quản được lâu và tiện sử dụng hơn. Lá thời hạn sử dụng
10


6 tháng.
Bài thuốc dân gian có chứa Đinh lăng[1], [6], [7], [9].
Chữa mệt mỏi, biếng hoạt động: Rễ Đinh lăng phơi khô thái mỏng, 0,50 g
thêm 100 ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2-3 lần uống trong ngày.
Chữa sốt lâu ngày, nhức đầu, háo khát, ho, đau tức ngực, nước tiểu vàng:

Đinh lăng tươi (rễ, cành) 30 g, lá hoặc vỏ chanh 10 g, vỏ quýt 10 g, lá tre tươi
20 g, cam thảo đất 30 g, rau má tươi 30 g, me chua đất 20 g. Các vị cắt nhỏ,
đổ ngập nước, sắc đặc lấy 250 ml, chia uống 3 lần trong ngày.
Lợi sữa: Lá Đinh lăng tươi 50-100 g, bong bóng lợn 1 cái, băm nhỏ, trộn với
gạo nếp, nấu cháo ăn. Hoặc rễ Đinh lăng tươi 30-40 g, thêm 500 ml nước, sắc
còn 250 ml, uống nóng, ngày uống 1-2 lần, uống trong 2-3 ngày.
Chữa đau tử cung: Cành và lá Đinh lăng sao vàng, sắc uống như chè.
Chữa mẫn ngứa do dị ứng: Lá Đinh lăng 80 g, sao vàng, sắc uống, dùng
trong 2-3 tháng.
- Lá Đinh lăng phơi khô đem lót gối hoặc trải giường cho trẻ em nằm giúp
phòng bệnh kinh giật.
Nghiên cứu về hóa học:
- Năm 1989, Nguyễn Khắc Viện [8] đã nghiên cứu và cho thấy trong rễ có 4
% saccarose, một chất kết tinh A chưa xác định cấu trúc hóa học, có điểm sôi
trong khoảng 158-161 oC, tan nhiều trong cloroform và aceton.
- Năm 1990, Nguyễn Thới Nhâm và cộng sự [16] đã công bố trong thành
phần của rễ, thân và lá có các glycosid, alcaloid, tanin, vitamin B1 và khoảng
20 loại acid amin như arginin, alanin, asparagin, acid glutamic, leucin, lysin,
phenylalanin, prolin, threonin, tyrosin, cystein, tryptophan, metionin….
- Năm 1991, Võ Xuân Minh cùng cộng sự [2] đã khảo sát hàm lượng saponin
toàn phần trong các bộ phận của cây Đinh lăng với kết quả: rễ (0,49 %), vỏ rễ
(1,00 %), lõi rễ (0,11 %) và lá (0,38 %).
11


- Năm 1992, trong nghiên cứu tiếp theo, Võ Xuân Minh [3] cho biết trong cây
Đinh lăng có các alcaloid, glucosid, saponin, các vitamin tan trong nước như
B1, B2, B6, C và các phytosterin. Nghiên cứu cũng cho thấy rễ cây Đinh lăng
có chứa tới 20 acid amin.
- Cũng vào năm 1992, Nguyễn Thị Nguyệt và cộng sự [17] đã phân lập được

acid oleanolic (26).
- Năm 1996, Trần Công Luận cũng tìm thấy 5 hợp chất polyacetylen trong lá
Đinh lăng, nhưng chỉ có hai chất chủ yếu được xác định cấu trúc là panaxynol
và heptadeca-1,8 (E)-dien-4,6 diyn-3,10-diol [18].
- Năm 2005, Nguyễn Thị Ánh Tuyết và cs đã phân lập được các hợp chất
stigmasterol, oleanolic acid, isophytol, và 2 hợp chất lần đầu tiên được tìm
thấy trong cây này là 5-hydrometylfural và 3β-hydroxyolean -28(13)-lacton
[44].
Ngoài nước:
Nghiên cứu về dược lý:
Những nghiên cứu của các tác giả ngoài nước về cây Đinh lăng còn rất khiêm
tốn tính đến thời điểm hiện nay. Theo tác giả Quisumbing E. Đinh lăng được
sử dụng khá phổ biến ở các nước Châu Á, lá có tác dụng bổ, chống viêm,
chống độc, kháng khuẩn, và tốt cho đường tiêu hóa. Rễ được dùng làm thuốc
lợi tiểu, thuốc hạ nhiệt, chống lỵ, và dùng để điều trị đau dây thần kinh, bệnh
thấp khớp [45]. Ở Ấn Độ sử dụng cây Đinh lăng có tính làm săn, dùng trong
điều trị sốt, tác dụng điều trị đái tháo đường. Năm 1998, nhóm tác giả người
Ấn Độ nghiên cứu tác dụng chống viêm của dịch chiết n-butanol lá P.
fruticosa trên mô hình gây viêm phù chân chuột, tác dụng hạ sốt và giảm đau
bằng phương pháp đĩa nóng có sử dụng chất đối chứng dương là paracetamol,
aspirin, phenyl butazon [46]. Ở Campuchia, người ta dùng lá phối hợp với
các cây thuốc khác làm bột hạ nhiệt, thuốc giảm đau. Lá dùng xông để ra mồ
12


hôi và chữa chứng chóng mặt, dùng tươi giã nát đắp ngoài trị viêm thần kinh
khớp và vết thương. Lá nhai nuốt với chút phèn giúp trị hóc xương cá.
Nghiên cứu về hóa học
- Năm 1990, Brophy Joseph J. và cộng sự [42] đã dùng phương pháp GC-MS
để phân tích thành phần tinh dầu của lá cây mọc ở Fiji và Thái Lan. Kết quả

cho thấy trong tinh dầu có khoảng 24 cấu tử, trong đó có 4 chất chính là: βelemen; α-bergamoten; germacren-D và E-γ-bisabolen (12-14).
- Năm 1992, Lutomski và cộng sự [31-33] đã cô lập từ rễ 5 hợp chất: (8E)heptadeca-1,8-dien-4,6-diyn-3,10-diol (1); (8E)-heptadeca-1,8-dien-4,6-diyn3-ol-10-on (2); (8Z)-heptadeca-1,8-dien-4,6-diyn-3-ol-10-on (3); falcarinol
(4) và panaxydol (5).
- Năm 1995, Chaboud A. và cộng sự [26] đã cô lập từ lá một saponin
triterpen,

đó



acid

3-O-β-D-galactopyranosyl-(1→2-β-D

-glucopyranosyloleanolic (34).
- Năm 1996, Chaboud A. và cộng sự [27] đã cô lập từ lá khô một saponin
triterpen là acid 3-O-β-L-rhamnopyranosyl-(1→4)-β-D—glucopyranosyl 28O-β-D-glucopyranosyloleanolic (35).
- Năm 1998 trong một công trình nghiên cứu ở Nhật Bản, Võ Duy Huấn cùng
cộng sự [43] đã phân lập được 7 saponin triterpen từ phân đoạn n-BuOH của
dịch chiết methanol lá Đinh lăng 4 saponin triterpen từ dịch chiết methanol
của rễ Đinh lăng, trong đó có một số chất phân lập được cả ở lá và rễ bao
gồm:
Acid 3-O- β-D-glucopyranosyl-(1→4)- β-D-glucuronopyranosyloleanolic
(32);

Acid

3-O-

β-D-glucopyranosyl-(1→2)-O-β-D-


glucuronopyranosyloleanolic (36); Acid 3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→2),βD-glucopyranosyl-(1→4)]-β-D glucuronopyranosyloleanolic (37)
+ Acid 3-O-[β-L-arabinopyranosyl-(1→2), β-D-glucopyranosyl(1→4)]-β-D
13


glucuronopyranosyloleanolic

(38);

Acid

3-O-[β-D-galactopyranosyl-

(1→2),β-D-glucopyranosyl-(1→3)]-β-D-glucuronopyranosyloleanolic
3-O-β-D-glucopyranosyl-(1→4)-β-D-glucuronopyranosyloleanolic
D-glucopyranosyl

ester

(40);

ester

(41);

ester

(42);


ester

(43);

glucuronopyranosyloleanolic
glucopyranosyl

ester

β-D-

28-O-β-D-

3-O-[β-D-galactopyranosyl-(1→2),

glucopyranosyl-(1→3)]-β-D-glucuronopyranosyloleanolic
glucopyranosyl

28-O-β-D-

3-O-[β-L-arabinopyranosyl-(1→2),

glucopyranosyl-(1→4)]-β-D-glucuronopyranosyloleanolic
glucopyranosyl

28-O-β-

3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→2),β-D-

glucopyranosyl-(1→4)]-β-D-glucuronopyranosyloleanolic

glucopyranosyl

(39);

β-D-

28-O-β-D-

3-O-β-D-glucopyranosyl-(1→4)-β-D28-O-β-L-rhamnopyranosyl-(1→)-β-D-

(44);

3-O-[β-D-glucopyranosyl-(1→2),β-D-

glucopyranosyl-(1→4)]-β-D-glucuronopyranosyloleanolic

28-O-[β-L-

rhamnopyranosyl-(1→3)-β-D-glucopyranosyl
ester (45).
Một số chế phẩm chứa Đinh lăng trên thị trường trong nước và trên thế
giới
Các chế phẩm chứa Đinh lăng thường kết hợp với một hoặc nhiều dược liệu
khác tùy mục đích sử dụng chủ yếu dùng hỗ trợ điều trị các bệnh liên quan
đến tuần hoàn não kém, duy giảm trí nhớ, các hội chứng tiền đình; các tác
dụng liên quan đến bồi bổ cơ thể, tăng cường sinh lực, bổ não, lợi tiểu, tiêu
viêm, giải độc, tăng cường hệ miễn dịch, giảm mệt mỏi, chống stress, tốt cho
người bị mỡ máu.
Trong nước:
(1) Hoạt huyết dưỡng não (Công ty cổ phần Y Dược 3T, Medisun)

Mô tả: Sản phẩm được điều chế bởi cao Đinh lăng có tác dụng tăng cường
14


khả năng tích hợp và tiếp nhận của hệ thần kinh, cao bạch quả có tác dụng
điều hòa vận mạch, chống phù mạch ở não giúp điều trị hiệu quả chứng thiểu
năng tuần hoàn não, suy giảm trí nhớ, các hội chứng tiền đình.
Thành phần: Mỗi viêm nang mềm chứa:
Cao Đinh lăng Extract of Polycias fruticosa)…. 150 mg
Cao bạch quả Ginkgo biloba)…………………… 50 mg
Tá dược vừa đủ một viên
(2) Hoạt huyết dưỡng não Nam Dược (Công ty Nam Dược)
Thành phần: Viên nén bao đường chứa:
Cao lá Bạch quả …..40mg
Cao đặc Đinh lăng…..150mg
Tá dược……. Vừa đủ một viên...
(3) CERATO (Sản phẩm của công ty Cổ phần dược vật tư y tế Thành
Vinh)
Thành phần: Viên nén chứa:
Cao tật lê…………………250mg
Cao Dâm dương hoắc……75mg
Cao Đinh lănglá tròn .…...75mg
Cách dùng: Ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 viên; Tác dụng hỗ trợ điều trị yếu
sinh lý, di tinh, mộng tinh, liệt dương.
(4) Trà tan – KINGPHAR VITEA (Công ty cổ phần Kingphar Việt Nam)
Thành phần
Cao Sâm Ấn Độ (Withania somnifera)

200 mg


Cao Tật lê (Tribulus terrestris)

200 mg

Tinh chất Rau má (Centella asiatica)

700 mg

Tinh chất Đinh lăng(Polyscias fruticosa)

700 mg

Tinh chất Cam Thảo (Glycyrhiza uralensis) 700 mg
15


Công dụng: Tăng cường sinh lực, bổ não, lợi tiểu, tiêu viêm, giải độc, tăng
cường hệ miễn dịch, giảm mệt mỏi, chống stress, tốt cho người bị mỡ máu.
(5) M-PHÉ (Tân Bách Tùng Pharma)
Thành phần: Mỗi viên nang M-PHÉ 500 mg bao gồm:
Cao chuẩn Bách bệnh (Eurycoma longifolia)………..350 mg
Cao chuẩn Đinh lăng(Polyscias fruticosa)…………..100 mg
Phụ liệu, Talc vừa đủ…………………………………..50 mg.
Công dụng: Tăng cường chức năng sinh dục nam, phòng và hỗ trợ điều trị
suy giảm chức năng sinh lý ở nam giới. Tăng cường sức khỏe, giảm mệt mỏi;
tăng khả năng trong các hoạt động thể lực và trí óc.
Sản phẩm ngoài nước
(1) Genix (NUTRIVITA, Mỹ)
Thành phần viên nang chứa: cao Bạch Tật Lê Tribulus terrestris L.; cao Dâm
Dương Hoắc - Epimedium macranthium; cao Đinh lăng- Polyscia fruticosa;

Cao Dâm Dương Hoắc Epimedium macranthun Mooren et Decne.
(2) Kim Sư (G-PHARMA, Ấn Độ)
Thành phần: Viên nén Kim sư 420mg gồm:
Dâm dương hoắc: 50%
Cửu thái tử: 20%
Đinh lăng: 20%
Bạch quả: 10%
Công dụng: Giúp bổ thận, tráng dương, mạnh gân cốt. Sản phẩm thích hợp
dùng cho nam giới trong các trường hợp cơ thể suy nhược, sinh lực yếu, mệt
mỏi, mộng tinh, đau lưng, mỏi gối, liệt dương, tiểu tiện nhiều lần.
Xuất phát từ những lợi ích trên, Công ty trách nhiệm hữu hạn Nam Dược đã
đề xuất chủ trì thực hiện dự án: “Hoàn thiện quy trình chiết saponin toàn

16


phần từ rễ cây Đinh lăng và ứng dụng để sản xuất trong quy mô công
nghiệp” với mục tiêu: Hoàn thiện quy trình chiết saponin toàn phần từ rễ cây
Đinh lăng đã được Viện hóa học thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu thành
công trong phòng thí nghiệm; Ứng dụng quy trình trên vào trong sản xuất quy
mô công nghiệp tại Công ty TNHH Nam Dược.
Vừa qua, Sở KH&CN Nam Định đã thành lập hội đồng khoa học công nghệ
tư vấn đánh giá thuyết minh dự án trên. Tại hội nghị, các ủy viên hội đồng đã
đóng góp ý kiến để hoàn thiện bản thuyết minh. Hội đồng nhất trí đề nghị
UBND tỉnh Nam Định, Sở KH&CN đưa dự án vào thực hiện trong năm
2012.
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về cây Đinh lăng có
thể thấy hầu hết các công trình công bố đều liên quan đến nghiên cứu thành
phần hóa học và tác dụng sinh học. Cũng như các loài khác thuộc chi
Polyscias, Đinh lăng có chứa những nhóm hợp chất: steroid (khung

stigmasterol), triterpenoid (khung oleanan và damaran), tinh dầu, các acid
amin, alkaloid, các polyacetylen, vitamin…Trong đó các saponin với phần
aglycon là acid oleanolic và phần đường là acid glucuronic gắn vị trí C-3 là
các chất đặc trưng của cây Đinh lăng P. fructicosa. Tác dụng dược lý của
Đinh lăng nổi bật nhất là tăng lực, bồi bổ cơ thể, chống trầm cảm và chống
viêm.

Tài liệu tiếng việt
1.

Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam, Tập I, NXB Khoa học và

2.

Kỹ thuật.793-796.
Võ Xuân Minh, 1991. Góp phần tìm hiểu về thành phần hóa học và dạng
17


3.

bào chế của cây Đinh lăng, Tạp chí Dược học, 3, 19-21.
Võ Xuân Minh, 1992. Nghiên cứu về saponin Đinh lăng và dạng bào

4.

chế từ Đinh lăng, Luận ánPTS KH Y dược, Đại học Dược Hà Nội.
Nguyễn Thúy Anh Thư, 2007. Tìm hiểu thành phần hóa học của cây
Polyscias filicifolia, Luận án Thạc sĩ khoa học hóa học, Trường ĐH


5.
6.

KHTN TP. HCM.
Huỳnh Ngọc Tựng, 2000. Tạp chí Thuốc và Sức khỏe, 174, 11-12.
Võ Văn Chi, 1997. Từ điển cây thuốc Việt Nam, NXB Y học, TP. HCM,

7.

178.
Đỗ Tất Lợi, 1995. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB KHKT,

8.

1030.
Nguyễn Khắc Viện, 1989. Góp phần nghiên cứu tác dụng dược lí của
cao rễ Đinh lăng trên một số chức năng của cơ thể, Luận án PTS. ngành

9.

Dược lý, Học viện Quân Y.
Đỗ Huy Bích, Nguyễn Tập, Trần Toàn, Trần Hùng, Vũ Ngọc Lệ, Phạm
Kim Mãn, Đoàn Thị Nhu, Phạm Duy Mai, Bùi Xuân Chương, 1993. Tài
nguyên cây thuốc Việt Nam, Viện Dược liệu, Chương trình tạo nguồn

nguyên liệu làm thuốc, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 394 – 400.
10. Ngô Ứng Long, 1987. Tác dụng tăng lực và bổ chung của Đinh lăng,
Tóm tắt công trình Đinh lăng 1964 – 1974, Nội san Đại học Quân Y, 41
– 45.
11. Ngô Ứng Long, Nguyễn Khắc Viện, 1985. Tạp chí dược học, 1, 17.

12. Nguyễn Thị Thu Hương, Lương Kim Bích, 2001. Nghiên cứu tác dụng
chống trầm cảm và stress của Đinh lăng, Tạp chí Dược liệu, 6 (2-3), 8486.
13. Nguyễn Thị Thu Hương, Phạm Thị Mỹ Loan. 2009, Tác dụng của Sâm
Việt Nam và Đinh lăng trên thực nghiệm gây suy giảm miễn dịch. Tạp
chí dược liệu, 12 (3+4), 121-126.
14. Nguyễn Trần Châu, Đỗ Mai Anh, Nguyễn Phương Dung, 2007. Nghiên
cứu một số tác dụng dược lý thực nghiệm của sản phâm cấy mô từ cây
Đinh lăng (Polyscias fructicosa Harms)-Araliaceae, Y Học Thành Phố
18


Hồ Chí Minh, 11(2), 126-131.
15. Huỳnh Ngọc Tựng, 2000. Tạp chí Thuốc và Sức khỏe, 174, 11-12.
16. Nguyễn Thới Nhâm, Nguyễn Thị Thu Hương, Lương Kim Bích, 1990.
Tác dụng dược lí của cao toàn phần chiết xuất từ rễ và lá Đinh lăng
Polyscias fruticosa L. Harms., Araliaceae, Kỷ yếu công trình nghiên cứu
khoa học, Viện Dược liệu.
17. Nguyễn Thị Nguyệt, Võ Xuân Minh, Nguyễn văn Bàn,1992. Một số kết
quả nghiên cứu về saponin trong Đinh lăng, Tạp chí Dược học, 3, 15-16.
18. Trần Công Luận, 1996 – Phân lập và xác định cấu trúc hợp chất
polyacetylen trong lá Đinh lăng (Polyscias fruticosa (L.) Harms Araliaceae). Tạp chí Dược liệu, tập 1, số 3+4, 96-99.
19. Dược Điển Việt Nam IV, nxb Hà Nôi, 2009, pp. 764-765.
Tài liệu tiếng Anh
20. Green P. S., 1994. Araliaceae. Flora of Australia 49. Oceanic Islands 1,
261-266. Australian Gov. Pulishing Service. Camberra.
21. Lowry P. P., 1989. A revision of Araliaceae of Vanuatu. Adansonia 2,
117-155.
22. Marais W., 1990. Araliacées. Flora des Mascareignes, la Reunion,
Maurice, Rodrigues 106.
23. Philipson W. R., 1995. Araliaceae. Handbooks of the flora of Papua New

Guinea. Vol. 3. Melbourne Univ. Press.
24. Wu Z. Y., Raven P. H., Hong D. Y., eds., 2007. Araliaceae. Flora of
China. Vol. 13, Science Press and Misouri Botanical Garden.
25. Gregry M. P., Porter P. L. II, Ninh V. V., 2004. Phytogenetic relationship
among Polyscias (Araliaceae) and close relatives from the Western
Indian Ocean Basin, Intern. J. Plant Sci., 165, 681.
26. Chaboud A., Rougny A., Proliac A., Raynaud J., Cabalion P., 1995. A
new triterpenoid saponin from Polyscias fruticosa, Fr. Pharmazie, 50(5),
371.
19


27. Chaboud A., Rougny A., Proliac A., Raynaud J., Cabalion P., 1996. A
oleanolic saponin from Polyscias fruticosa Harms var yellow leaves,
Pharmazie, 51(8), 611-612.
28. Erdal B., Ngeh J. T., Ikhlas A. K., Larry A. W., Alice M. C., 2001. A new
dammarane-type triterpene glycoside from Polyscias fulva, J. Nat.
Prod.,64(1), 95-97.
29. Gopalsamy N., Gueho J., Julien H. R., Owadally A. W., Hostettmann K.,
1990,

Molluscidal

saponin

from

Polyscias

dichroostachya,


Phytochemistry, 29(3), 793-5.
30. Lussignol M., Raynaud J., Cabalion P., 1991. Deux mono-Oglycosylflavonoides des feuilles de Polyscias sp. nov. (Araliacées), Fr.
Pharmaceut. Acta Helv., 66(5-6).
31. Lutomski J., Luan T. C., 1992. Polyacetylenes in the Araliaceae family.
Part II. Polyacetylenes from the roots of Polyscias fruticosa (L.) Harms,
Herba Polonica, Herba Polonica, 38 (1), 3-11.
32. Lutomski J., Tran Cong Luan, 1992 - Polyacetylenes in the Araliaceae
family. Part III. The qualitive and quantitative determination of the
polyacetylenes from crude extracts of Panax vietnamensis Ha et Grushv.
and Polyscias fruticosa (L.) Harms by thin layer chromatochraphy and
spectrophotometry. Herba Polonica, 38 (2), 53-60.
33. Lutomski J., Tran Cong Luan, Tran Thu Hoa, 1992 - Polyacetylenes in
the Araliaceae family. Part IV- The antibacterrial and antifungal
activities of two main polyacetylenes from Panax vietnamensis Ha et
Grushv. and Polyscias fruticosa (L.) Harms. Herba Polonica, 38 (3),
137-140.
34. Mitaine-Offer A. C, Tapondjou L. A., Lontsi D., Sondengam B. L.,
Choudhary M. I., Atta-ur-Rahman, Lacaille-Dubois M. -A., 2004.
Constituents isolated from Polyscias fulva”, Biochem. Sys. Ecol., 32,
607-610.

20


35. Malcolm S. B., Anthony R. C., Annette E., John P., Rama A., Ronald J.
Q., 2005. Tyrosine kinase inhibitors from the rainforest tree Polyscias
murrayi, Phytochemistry, 66, 481-485.
36. Paphassarang S., Raynaud J., Lussignol M., 1988. Polyscias saponin-P7
from Polyscias scutellaria Burm. F. (Araliaceace), Fr. Pharmazie,

43(4), 296-297.
37. Paphassarang S., Raynaud J., Lussignol M., Becchie M., 1989.
Triterpenic glycoside from Polyscias scutellaria, Phytochemistry, 28(5),
1539-1541.
38. Paphassarang S., Raynaud J., Lussignol M., Becchie M., 1989,
Triterpenoid saponins from Polyscias scutellaria, J. Nat. Prod.,52(2),
239-42.
39. Paphassarang S., Raynaud J., Lussignol M., Cabalion P., 1990. A new
oleanolic glycoside from Polyscias scutellaria, J. Nat. Prod.,53(1), 163166.
40. Prakash Chatuvedula V. S., Jennifer K. S., James S. M., Rabodo A.,
Vincent E. R., David G. K., 2003. New cytotoxic oleanane saponins
from the infructescences of Polyscias amplifolia from the Madagascar
rainforest, Planta Med., 69(5), 440-444.
41. Vander Haar A. W., 1912, Phytochemische Untersuchungen in der
Familie der Araliaceae. I. Saponinartige Glykoside aus den Blättern von
Polyscias nodosa und Hedera helix”, Arch. Pharm., 250, 424-235.
42. Joseph J. B., Erich V. L., Apichart S., 1990. Constituents of the volatile
leaf oils of Polyscias fruticosa (L.) Harms., Flav. Fragr. J., 5, 197-182.
43. Vo Duy Huan, Satoshi Yamamura, Kazuhiro Ohtani, Ryoji Kasai, Kazuo
Yamasaki, Nguyen Thoi Nham and Hoang Minh Chau, 1998. Oleanane
saponin from Polyscias fruticosa, Phytochemistry, 47(3), 451-457.
44. Nguyen Thi anh Tuyet, Nguyen Tan Thien, Nguyen Thi Kim Phung,
2005. Contribution to the study on chemical constituent of Polyscias
fruticosa (L.) Hams. J. Chem. Vietnam. 43 (5), 624-627.
21


45. Quisumbing E., 1978. Medicinal Plants of the Pillippines. Katha
Publishing Co., Phillippines, p.p. 617.
46. Bernard S. M., Pakianathan N., Divakar M. C., 1998. On the antipyretic,

anti-inflammatory, analgesic and molluscicidal properties of Polyscias
fruticosa (L.) Harms. Anc. Sci. Life. 17(4), 315-319.
47. Aschwanden C., 2001. Herbs for health, but how safe are they? Bull
World Health Organ 79: 691– 692.
48. Zou P., Hong Y., Koh H. L., 2005. Chemical fingerprinting of Isatis
indigotica root by RP-HPLC and hierachical clustering analysis. J.
Pharm. Biomed. Anal. 38, 514-520.
49. Alaerts G., Matthijs N., Smeyers-Verbeke J., Vander Heyden Y., 2007.
Chromatographic fingerprint development for herbal extracts: A
screening and optimization methodology on monolithic columns. J.
Chromatogr. A, 1172, 1–8.
50. Liang Q., Qu J., Luo G., Wang Y., 2006. Rapid and reliable
determination of illegal adulterant in herbal medicines and dietary
supplements by LC/MS/MS. J. Pharm. Biomed. Anal. 40, 305.
51. Bensky D., Clavey S., Stger E., 2004. Chinese Herbal Medicine I:
Materia Medica, 3rd ed., Eastland Press, Seattle, USA, 158, 179.
52. Zhu Y. -P., Woerdenbag H. J., 1995. Traditional Chinese herbal
medicine. Pharm World Sci, 17(4): 103-12.
53. WHO, Guidelines for the Assessment of Herbal Medicine, World Health
Organization,

Munich,

Germany,

1991,

p.

2,


TRM 91.4.pdf
54. CHMP, Guideline on quality of herbal medicinal products/traditional
herbal medicinal products. Committee for medicinal products for human
use (CHMP), European Medicines Agency Inspections, July 21, 2005,
CPMP/QWP/2819/00

Rev

1,

EMEA/CVMP/814/00

Rev

1,

, accessed January 31, 2006.
55. Food and Drug Administration, Guidance for Industry: Botanical Drug

22


Products, Food and Drug Administration, June 2004, p. 10,
accessed January 25,
2006.
56. Drug Administration Bureau of China, Requirements for Studying
Fingerprints

of


Traditional

Chinese

Medicine

Injection,

Drug

Administration Bureau of China, Beijing, China, 2002.
57. Wong J.W., et al., 2003. Multiresidue pesticide analysis in wines by
solid-phase extraction and capillary GC/MS detection with selective ion
monitoring.J. Agric. Food Chem. 51: 1148-1161.
58. Lutz Alder, et al., 2006. Residue analysis of 500 high priority pesticides
better by GC-MS or LC-MS/MS? Mass Spectrom.Rev., 25, 838 – 865.
59. Van Zoonen P., 1998. Analytical mehods for residue of pesticides in
foodstuff, 6th edition. Part I. Annex B. The Hague: General Inspectorate
for Health Protection. pp 1-8.
60. Tomlin C. D. S., 2003. The pesticides manual – A world compendium,
13th edition.

23



×