Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

ĐÀO tạo và PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực TRONG KIỂM TOÁN NHÀ nước VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.28 KB, 12 trang )

ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Tầm quan trọng phát triển, đào tạo nguồn nhân lực trong hoạt
động của một tổ chức
Trong thời đại thế giới tri thức hiện nay, sức mạnh, sự thành công của
một tổ chức và rộng hơn của một đất nước nằm ở yếu tố quyết định đó là con
người - con người có tri thức; và để có nguồn nhân lực có tri thức, có chất
lượng đáp ứng yêu cầu, mục tiêu chiến lược phát triển của một tổ chức thì
vấn đề đạo tạo và phát triển nguồn nhân lực luôn là một yêu cầu quan trọng
ưu tiên số một, đặt ra cho một tổ chức nói chung và cơ quan Kiểm toán Nhà
nước Việt nam (KTNN) nói riêng.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo nghị định 70/CP
ngày 11/07/1994. Đây là một tổ chức nhà nước ra đời chưa có tiền lệ trong hệ
thống các cơ quan nhà nước Việt nam. Sự ra đời của KTNN đánh dấu một
bước ngoặt lịch sử trong việc phát triển, khai thác và sử dụng các công cụ
quản lý kinh tế ngày một tối ưu và hiểu quả của nhà nước. Trong giai đoạn
phát triển và quản lý nền kinh tế theo xu hướng hội nhập hiện nay, đặc biệt
khi Việt Nam đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì công tác đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực của KTNN đặt ra là việc làm cấp bách, có
tính thời đại, xuất phát từ những lý do sau đây: Thứ nhất xuất phát từ vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của KTNN trong quản lý kinh tế nói chung và trong
quản lý tài sản, tài chính công nói riêng; Thứ hai, xuất phát từ thực trạng kinh
tế xã hội của Việt Nam và yêu cầu tất yếu của KTNN trong quản lý theo xu
hướng hội nhập; Thứ ba, xuất phát từ lý do hội nhập kinh tế quốc tế; Thứ tư,
xuất phát từ những hạn chế của KTNN Việt Nam hiện nay.
2.Cơ sở lý luận trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại
KTNN
2.1. Cơ sở lý luận


Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình cung cấp các kỹ năng cụ thể cho


các mục tiệu cụ thể hay nói cách khác đào tạo đó là những cố gắng của một
tổ chức đưa ra nhằm thay đổi hành vi thái độ của nhân viên nhằm đáp ứng
các yêu cầu về hiệu quả công việc .Đào tạo là một quá trình có hệ thống
nhằm nuôi dưỡng việc tích lũy các kỹ năng, những quy tắc, hành vi hay thái
độ dẫn đến sự tương xứng tốt hơn giữa những đặc diểm của nhân nhân viên
và yêu cầu của công việc.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình chuẩn bị và cung cấp những
năng lực cần thiêt cho một tổ chức trong tương lai hay nói cách khác phát
triển là quá trình chuẩn bị cho nhân viên theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó
thay đổi và phát triển. Phát triển là quá trình lâu dài nhằm nâng cao năng lực
và động cơ của nhân viên để biến họ thành nhân viên tương lai quý báu của
tổ chức . Phát triển không chỉ bao gồm đòa tạo mà còn có cả sự nghiệp và
những kinh nghiệm khác nữa.
Đào tạo và phát triển có vai trò rất quan trọng. Đào tạo, phát triển nhân
lực là một trong những biện pháp tích cực tăng khả năng thích ứng tổ chức
trước sự thay đổi của môi trường hoạt động. Đào tạo và phát triển cung cấp
cho tổ chức nguồn vốn nhân sự chất lượng cao, góp phần nâng cao sức mạnh
của tổ chức. Đào tạo được coi là là vũ khí chiến lược của tổ chức nhằm đảm
bảo cho tổ chức phát triển một cách bền vững. Đào tạo sẽ góp phần thực hiện
chiến lược chung về nhân sự của tổ chức và rộng hơn nữa đó là chiến lược
chung về nhân sự của Quốc gia.
Sự cần thiết của đào tạo:
- Đào tạo và phát triển là tất yếu do yêu cầu phát triển của khoa học kỹ
thuật đòi hỏi.
- Do sự biến đổi của xã hội diễn ra nhanh chóng
- Nền kinh tế thị trường đồi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao
mới tồn tại và phát triển bền vững được


Đào tạo nguồn nhân lực thường cần phải được tiến hành 4 bước: xác

định nhu cầu đào tạo; Lập kế hoạch đào tạo; Thực hiện đào tạo và Đánh giá
kết quả đào tạo.
Xác định nhu cầu đào tạo là việc thu thập thông tin để làm rõ nhu cầu
cải thiện khả năng công việc và xác định liệu đào tạo có thực sự là giải pháp
thiết thực không? Đánh giá nhu cầu đào tạo để từ đó loại trừ những chương
trình đào tạo không thiết thực, để nhận biết những nhu cầu đào tạo thích hợp
còn chưa đáp ứng, từ đó xác định mục tiêu đào tạo cho các chương trình đào
tạo vạch ra.
Lập kế hoạch đào tạo thực chất là lên kế hoạch và phát triển chương
trình đào tạo. Trong đó cần chú ý là nội dung học kỹ năng cơ bản hay kiến
thức cơ bản; học kinh nghiệm hay học lý luận từ sách vở; kiến thức được đào
tạo là cơ bản, nâng cao, chuyên sâu hay những riêng biệt của tỏ chức….
Thực hiện đào tạo cần phải tìm ra các hình thức và các phương pháp
nhằm tối ưu hóa quá trình đào tạo. Có nhiều loại hình thức và phương pháp
khác nhau tùy theo tiêu thức, đó là: theo tiêu thức định hướng nội dung đào
tạo có đào tạo theo định hướng công việc chuyên môn và đào tạo theo yêu
cầu định hướng của tổ chức.; Theo mực đích của nội dung đào tạo có đào tạo
hướng dẫncoong việc cho nhân viên, đào tạo kỹ năng, đào tạo an toàn lao
động, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, đào tạo phát triển năng lực quản
lý.Theo điạ điểm đào tạo có đào tạo tại chỗ và đào tạo từ xa. Theo hình thức
đào tạo có thể có đào tao chính quy, đà tạo tại chức; Theo đối tượng có đào
tạo mới và đào tạo lại.
Đánh giá chương trình đào tao: tiêu thức qua trọng nhất khi đánh giá
đó là hiệu quả công việc mang lại sau đào tạo có theo hướng mong muốn
không?
2.2. Sự cấp thiết của công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong
hoạt động của KTNN


Nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của KTNN, các tiêu chuẩn ngạch bậc

của kiểm toán viên nhà nước và yêu cầu, định hướng chiến lược phát triển
ngành KTNN từ 2015- 2020 cho thấy sự cấp thiết phải đặt ưu tiên số một cho
công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực của KTNN.
Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính Cơ quan Kiểm toán nhà
nước (KTNN), nơi tôi hiện đang công tác, là một cơ quan kiểm tra tài chính
công của nhà nước Việt Nam. Theo Luật Kiểm toán đã được Quốc hội thông
qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2006, cơ quan Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực
kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài
chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Để thực hiện nhiệm vụ theo Luật định, nguồn nhân lực của cơ quan
KTNN gồm các Kiểm toán viên nhà nước và các nhân viên hành chính giúp
việc, trong đó KTV là nguồn nhân lực chủ yếu, là những người làm công tác
chuyên môn. người người làm công việc chuyên môn . Theo nghị quyết của
Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn năm 2006, Chức danh KTV nhà nước
bao gồm: KTV dự bị, KTV, KTV chính và KTV cao cấp. Tiêu chuẩn cụ thể
từng chức danh được cụ thể như sau:
1. Kiểm toán viên dự bị phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức
theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và các tiêu chuẩn sau đây:
- Đáp ứng các tiêu chuẩn chung của kiểm toán viên nhà nước theo quy
định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 29 của Luật kiểm toán nhà nước;
- Có kiến thức cơ bản về nhà nước, pháp luật;
- Nắm vững Luật Kiểm toán nhà nước và nắm được quy trình kiểm
toán, chuẩn mực, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán thuộc lĩnh
vực kiểm toán được phân công; nắm được quy chế hoạt động của Đoàn kiểm
toán, Tổ kiểm toán;



- Được cấp chứng chỉ Kiểm toán viên dự bị;
- Ngoại ngữ, tin học trình độ B hoặc tương đương.
2. Kiểm toán viên phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức ở
ngạch tương đương theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và các
tiêu chuẩn sau đây:
- Đáp ứng các tiêu chuẩn chung của Kiểm toán viên nhà nước theo
quy định tại Điều 29 của Luật Kiểm toán nhà nước;
- Nắm được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật về
Kiểm toán Nhà nước; các kiến thức về Quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội;
- Nắm vững các quy định của pháp luật thuộc lĩnh vực kiểm toán được
phân công;
- Có kỹ năng khảo sát, thu thập, phân tích, đánh giá Bằng chứng kiểm
toán;
- Phải có chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên và chứng chỉ
ngạch kiểm toán viên;
- Ngoại ngữ, tin học trình độ B hoặc tương đương;
- Có thời gian làm việc liên tục từ năm năm trở lên theo chuyên ngành
được đào tạo hoặc có đủ thời gian làm nghiệp vụ kiểm toán ở Kiểm toán Nhà
nước từ ba năm trở lên.
3. Kiểm toán viên chính phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức
ở ngạch tương đương theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và
các tiêu chuẩn sau đây:
- Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về kiểm toán nhà nước; hiểu biết về quản lý nhà nước, về kinh
tế - xã hội; nắm vững định hướng phát triển của Kiểm toán Nhà nước;


- Hiểu rõ đối tượng kiểm toán thuộc lĩnh vực kiểm toán được phân
công; nắm được đặc điểm của một số đối tượng kiểm toán khác;
- Nắm vững và vận dụng thành thạo các quy định của pháp luật về

kiểm toán nhà nước thuộc lĩnh vực kiểm toán được phân công; hiểu rõ quy
định của pháp luật về một số lĩnh vực kiểm toán khác;
- Hiểu biết các thông lệ và Chuẩn mực kiểm toán quốc tế;
- Có khả năng tham gia xây dựng Chiến lược phát triển ngành, kế
hoạch kiểm toán dài hạn, trung hạn và hằng năm; có khả năng tham gia phân
tích, đánh giá, tổng hợp, lập báo cáo kiểm toán;
- Có khả năng chủ trì nghiên cứu đề tài khoa học cấp cơ sở hoặc tham
gia nghiên cứu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp nhà nước về lĩnh vực
kiểm toán;
- Phải có chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính và
chứng chỉ ngạch Kiểm toán viên chính;
- Ngoại ngữ, tin học trình độ B hoặc tương đương;
- Có thâm niên tối thiểu ở ngạch Kiểm toán viên l 7 năm hoặc ở ngạch
tương đương l 9 năm.
4. Kiểm toán viên cao cấp phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công
chức ở ngạch tương đương theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức
và các tiêu chuẩn sau đây:
- Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ và có
khả năng triển khai vận dụng vào hoạt động kiểm toán nhà nước; nắm vững
các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội liên quan đến các lĩnh
vực kiểm toán;
- Nắm vững đặc điểm của các đối tượng kiểm toán ở từng lĩnh vực;


- Nắm vững và có khả năng chỉ đạo áp dụng các quy trình, chuẩn mực,
phương pháp chuyên môn nghiệp vụ ở các lĩnh vực kiểm toán vào hoạt động
kiểm toán;
- Hiểu biết về thông lệ, các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và có khả
năng đề xuất ứng dụng vào hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước;

- Có khả năng xây dựng chiến lược phát triển ngành, kế hoạch kiểm
toán dài hạn, trung hạn và khả năng về tổng kết, nghiên cứu lý luận chuyên
môn nghiệp vụ kiểm toán; có khả năng xây dựng chuẩn mực kiểm toán và
kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chuẩn mực kiểm toán;
- Có khả năng chủ trì nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, cấp nhà nước
về lĩnh vực kiểm toán nhà nước;
- Có trình độ lý luận chính trị cao cấp hoặc tương đương;
- Phải có chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp và
chứng chỉ ngạch Kiểm toán viên cao cấp;
- Ngoại ngữ, tin học phải đạt trình độ C hoặc tương đương.
Tháng 4 năm 2010, Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua
chiến lược phát triển KTNN giai đoạn 2015 - 2020 với những nhóm định
hướng và nguyên tắc cơ bản sau :
(1). Phát triển KTNN phải đảm bảo cho KTNN phải là công cụ kiểm
tra tài chính công tối cao của Nhà nước, để KTNN có đủ khả năng và điều
kiện thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụđược giao và phát huy đúng vị trí , vai
trò của nó trong quản lý kinh tế tài chính công
(2). Phát triển KTNN phải phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam
về cơ chế, pháp luật và yêu cầuquản lý của Đảng, Nhà nước trong từng thời
kỳ.


(3). Phát triển KTNN với quy mô , tốc đọ phải tương thích , phù hợp
với quy mô, tầm cỡ và tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam trong tương lai
theo cơ chế thi trường hội nhập.
(4). Phát triển KTNN Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
Quốc tế, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
(5). Phát triển KTNN phải đảm bảo là cơ quan kiểm tra tàì chính công
độc lập, đủ mạnh, đủ khả năng chuyên môn và điều kiện vật chất để hoàn
thành nhiệm vụ được giao.

(6). Phát triển KTNN phải gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả và tiết kiệm chi
phí.
Từ nay đến năm 2015 và 2020 với tốc độ hội nhập hiện nay, KTNN
phải nâng cao được năng lực hoạt động, hiệu lực pháp lý, chất lượng và hiệu
quả hoạt động của KTNN. KTNN phải thực sự là 1 công cụ mạnh của Nhà
nước để thực hiện kiểm tra tài chính Nhà nước và tài sản Nhà nước. Từng
bước xây dựng KTNN trở thành chính quy , chuyên nghiệp, hiện đại, chất
lượng, tạo được uy tín cao trong xã hội và khu vực. Phải tăng cường phát
triển cả về số lượng và chất lượng kTV đặc biệt là chất lượng. Phải từng bước
phát triển KTNNViệt Nam ngang tầm khu vực, phù hợp với thông lệ và
chuẩn mực quốc tế. Dần dần chuyển kiểm toán từ kiểm toán báo cáo tài chính
sang kiểm toán hoạt động, từ kiểm toán xác nhận sang tư vấn chuyên nghiệp.
3. Thực trạng công tác đào tạo và phát triển trong kiểm toán nhà
nước trong những năm vừa qua.
Trong hơn 15 năm xây dựng và phát triển, KTNN đã có những bước
phát triển rất lớn mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ của nhà nước giao, xúng
đáng là công cụ quản lý tài chính công được Nhà nước và xã hội tin cây.
Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đã có những đóng góp rất quan
trọng vào thành tích của ngành KTNN.


Từ lúc ban đầu chỉ có vài chục cán bộ KTV, thông qua nguồn nhân lực
chuyển về KTNN từ các ngành khác, từ sinh viên mới tốt nghiêp… trong 15
năm qua KTNN đã đào tạo trên 1500 người trở thành những KTV nhà nước,
đã là nguồn lực quan trọng đóng góp cho sự phát triển của KTNN. Hiện nay,
KTNN với trên 1500 KTV, trong đó có trên 150 KTV chính và 15 KTV cao
cấp, nhiều KTV nhà nước đã được đi tu nghiệp tại nước ngoài và đạt trình độ
kiểm toán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã làm được, công tác đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực của KTNN trong những năm qua, còn những
vấn để phải đặt ra để hoàn thiện.

Do trước đây, từ năm 2010 trở về trước, KTNN chưa có một chiến
lược phát triển dài hạn, nên trong công tác đào tạo chưa hoạch định được kế
hoạch dài hơi, chưa xác định được lộ trình cần đạt được về số lượng đào tạo
KTV nhà nước, xác định cơ cấu giữa KTV dự bị, KTV, KTV chính và KTV
cao cấp. Từ đó mà hiện nay cơ cấu KTV còn bất hợp lý, chưa đáp ứng tốt cho
việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài, thể hiện: KTV dự bị số
lượng còn chiếm tỷ lệ quá cao, ảnh hưởng đến việc lập các Tổ kiểm toán theo
đúng luật KTNN qui định (luật qui định có không quá 1/3 KTV dự bị trong
đoàn và Tổ kiểm toán); số lượng và tỷ trọng KTV chính và cao cấp hiện tại
của toàn ngành rất thấp, đó cũng là trở ngại cho việc tham gia xây dựng kế
hoạch kiểm toán dài hạn, trung hạn và hằng năm, tham gia phân tích, đánh
giá, tổng hợp, lập báo cáo kiểm toán, tham gia xây dựng, áp dụng các quy
trình, chuẩn mực, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ ở các lĩnh vực kiểm
toán vào hoạt động kiểm toán;tham gia hoạch định các chính sách kinh tế của
nhà nước….
Việc chiến lược ngành những năm trước đây chưa được Quốc hội
thông qua, cũng làm cho KTNN không thể có cơ sở cho sự phối hợp với các
Bộ quản lý nhà nước trong việc tạo lập nguồn kinh phí đào tạo, kinh phí xây
dựng trung tâm đào tao, hay trong bố trí chỉ tiêu biên chế, từ đó cũng đã ảnh
hưởng rất lớn tới qui mô đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của KTNN.
Việc xây dựng chương trình đào tạo của KTNN hiện tại còn có những
điều chưa thật sự phù hợp đối với mỗi đối tượng cần đào tạo. Hiện nay,


nguồn tuyển dụng của KTNN ngoài những ngành nghề tài chính, kế toán còn
cả những ngành nghề như luật, xây dựng, kiến trúc, thủy lợi, kỹ sư giao thông
cầu đường….Tuy nhiên khi tổ chức cho các chương trình đào tạo các khóa
học tiền KTV hay KTV dự bị… thì đều chỉ có một nội dung chương trình các
môn học thống nhất. Nội dung chương trình đào tạo như vậy sẽ dẫn đến là rất
nhẹ đối với những người đã được đào tạo tài chính kế toán, nhưng rất nặng

với những người học các chuyên ngành đào tạo không phải tài chính, kế toán.
Một số nội dung chương trình học còn đơn điệu, chủ yếu là kiến thức
lý luận cơ bản, chưa chú ý học các kỹ năng chuyên môn, chủ yếu chỉ là lý
luận chưa chú ý học tập các kinh nghiệm từ thực tế, hoặc chỉ mới đào tạo
những kiến thức chung của ngành kiểm toán mà không học chuyên sâu, đào
tạo chuyên sâu kiến thức kiểm toán của một loại hình kiểm toán chuyên
biệt…..
Việc đào tạo của KTNN ngoài việc kiểm toán tại lớp còn có đào tạo
kèm cặp, tuy nhiên chưa có xây dựng qui trình để kiểm soát việc kèm cặp
hướng dẫn của KTV cho các KTV dự bị, việc kèm cặp này vẫn chỉ phụ thuộc
vào các cá nhân.
Hiện tại KTNN có rất nhiều chuyên ngành kiểm toán: kiểm toán ngân
sách các Bộ, Tỉnh thành phố TƯ, Kiểm toán các chương trình dự án, Kiểm
toán các Doanh nghiệp, các tổ chức Tài chính ngân hàng…Tuy nhiên công
tác đào tạo riêng biệt theo từng loại hình kiểm toán chưa được chú trọng, nội
dung đào tạo theo các chuyên ngành chưa sâu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ mà nhà nước đặt ra ….
Nhu cầu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của KTNN là rất lớn, tuy
nhiên hiện nay bộ máy tổ chức công tác này của KTNN ngoài Vụ TCC B làm
nhiệm vụ tham mưu , bên cạnh đó còn có Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ. Tuy nhiên bộ máy tổ chức của trung tâm còn rất nhỏ, chưa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ đào tạo phát triển ngành trong những năm qua và cho
tương lai.


4. Đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực của KTNN:
Trên cơ sở chiến lược dài hạn KTNN tới năm 2020 đã được UBTV
Quốc hội thông qua, KTNN cần triển khai xây dựng kế hoạch ngắn hạn và
trung hạn phát triển của Ngành. Đó là cơ sở để đảm bảo kế hoạch đào tạo và

phát triển nguồn nhân lực của KTNN được xây dựng khoa học và có tính
thực tiễn cao, đóng góp cho sự phát triển hoạt động của KTNN ngày càng lớn
mạnh, xứng đáng là công cụ mạnh về kiểm tra tài chính công của nhà nước
và sự tin cậy của nhân dân.
Từ cơ sở kế hoạch đào tạo ngắn hạn , trung và dài hạn, sẽ xây dựng kế
hoạch đào tạo các KTV chính, KTV cao cấp, đảm bảo đủ cơ cấu tỷ lệ hợp lý
giưã KTV dự bị, KTV, KTV chính và KTV cao cấp. Vói tỷ lê KTV chính
30% và KTV cao cấp 15% sẽ là nguồn lực chất lượng cao để có thể tiếp cận
trình độ kiểm toán khu vực và quốc tế.
Cần xây dựng chương trình đào tạo riêng biệt khác nhau cho sinh viên
các ngành thuộc khối tài chính và các sinh viên các ngành khác như xây
dựng, thủy lợi, kiến trúc, giao thông, luật…để đảm bảo trang bị những kiến
thức ngành kiểm toán một cách đày đủ nhất và phù hợp.
Cần xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu theo đúng chuyên
ngành kiểm toán để đào tạo được những KTV nắm vững lý luận và thành
thạo kỹ năng kiểm toán chuyên ngành.
Bên cạnh những chương trình đào tạo theo những nội dung trang bị
những lý luận cơ bản, cần xây dựng chương trình có chất lượng và mở các
lớp đào tạo những kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, những kỹ năng kinh
nghiệm đúc rút từ thực tiễn.
Cần xây dựng qui trình để kiểm soát việc kèm cặp, tự đào tạo của các
KTV cho các KTV dự bị.


Để công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của KTNN đáp ứng
được sự phát triển của KTNN, một vấn đề rất quan trọng cần đặt ra là phải tổ
chức lại bộ máy làm công tác đào tạo. Cần tăng cường năng lực của Vụ
TCCB là cơ quan tham mưu về công tác đào tạo nhân lực của Ngành, bên
cạnh đó cần nhanh chóng phát triển và nâng cấp qui mô tổ chức của Trung
tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ của KTNN./.




×