Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phân cấp, phân quyền quản trị lý luận và thực tiễn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.81 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phân cấp, phân quyền là xu hướng phân tán quyền ra quyết định trong
cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Nó là một khía cạnh cơ sở của giao phó
quyền hạn trong quản trị. Không thể có một người nào đó có thể làm tất cả
mọi việc để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Vì vậy để phát triển doanh
nghiệp và quyền hạn phải được giao phó cho các cấp dưới. Đối với nhà quản
trị doanh nghiệp thì việc nắm được nguyên tắc phân cấp, phân quyền và nghệ
thuật giao quyền là rât bổ ích, nhất là trong hoàn cảnh cả nước hiện có
457.350 doanh nghiệp đang hoạt động. Để hiểu rõ hơn, em xin chọn đề:
“Phân cấp, phân quyền quản trị- Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.”
NỘI DUNG
I. Phân cấp quản trị trong doanh nghiệp
1.1. Thực chất và mức độ phân cấp
1.1.1 Thực chất của phân cấp
Thực chất của phân cấp là phân chia quyền hành quản trị giữa quản trị
viên cấp cao, quản trị viên cấp trung gian và quản trị viên cấp cơ sở. Phân cấp
quản trị có thể được thực hiện ở mức độ cao hoặc mức độ thấp phụ thuộc vào
nhiều yếu tố.
1.1.2 Các yếu tố quyết định mức độ phân cấp
- Giá trị của các quyết định trong doanh nghiệp: giá trị về kinh tế tài chính và
các giá trị khác như uy tín doanh nghiệp.
- Các lĩnh vực của quyết định trong doanh nghiệp. Các quyết định có thể là kế
toán, tài chính, đề bạt, tổ chức,... Nếu một cơ sở ở dưới được quyền ra quyết
định ở nhiều lĩnh vực thì ở đây có sự phân cấp mạnh mẽ.
- Cấp bậc của các cấp có quyền ra quyết định: nếu các cấp dưới có quyền ra
quyết định quản trị thì phân cấp mạnh.
- Sự kiểm soát đối với các quyết định: sự kiểm soát nếu thường xuyên, chặt
chẽ, chi tiết thì sự phân cấp thấp, ngược lại sự kiểm soát ít thường xuyên và
chỉ trên thành quả cuối cùng thì phân cấp mạnh mẽ.
- Nhu cầu thống nhất chính sách: mỗi tổ chức là một thể thống nhất và có
những chiến lược riêng của nó, do vậy phải cân đối giữa phân cấp và sự thống


nhất đó.Nhu cầu phải quyết định nhanh chóng và kịp thời.

1


- Trình độ của các nhà quản lý cấp cơ sở. Tình trạng phân tán của tổ chức và
phương tiện liên lạc.
- Xu hướng và động thái phát triển của tổ chức: tùy theo hai yếu tố này mà
nên phân cấp hay không. Nếu muốn tổ chức phát triển trong thời gian ngắn thì
nên quản trị theo cách tập quyền (không phân cấp). Sự phân cấp chỉ hữu hiệu
trong động thái bình thường. Còn nếu trong động thái phát triển nhanh thì sự
phân cấp có thể gây ra những rủi ro.
- Cơ chế quản lý kinh tế của chính quyền: những biện pháp, cách thức mà
Nhà nước áp dụng để điều tiết hoạt động kinh tế. Cơ chế có thể là những
chính sách thuế, vốn pháp định. Triết lý quản trị của những người lãnh đạo và
lịch sử phát triển của tổ chức.
1.2. Nội dung phân cấp quản trị
Trong doanh nghiệp có 3 cấp quản trị: Cấp doanh nghiệp, cấp đơn vị thành
viên và cấp phân xưởng. Nhà quản trị ở các cấp đều được giao một số nhiệm
vụ, quyền hạn nhất định để quản trị trong phạm vi cấp của mình. Doanh
nghiệp lớn có thể có nhiều cấp trung gian hơn. Trong một tổ chức, để có sự
hợp tác của các thành viên có hiệu quả thì sự phân cấp quản trị còn phụ thuộc
vào giới hạn tầm quản trị. Do đó, sự hạn chế về số người mà một người quản
trị có thể giám sát hiệu quả ngay cả khi số người này thay đổi, theo từng hoàn
cảnh, nên cần phải có các cấp trong tổ chức. Hai loại phân cấp:
- Phân cấp quản trị theo tầm quản trị hẹp. Ưu: Giám sát và kiểm soát chặt chẽ
hoạt động của các cấp dưới, lưu tin nhanh chóng giữa cấp trên và cấp dưới.
Nhược điểm: cấp trên dễ can thiệp quá sâu và công việc của cấp dưới; tốn
kém do nhiều cấp quản trị; khoảng cách quá xa giữa cấp cao nhất và cấp thấp
nhất trong tổ chức.

- Phân cấp quản trị theo tầm nhìn rộng. Ưu: Buộc cấp dưới phải phân chia
quyền hạn; phải có các chính sách rõ ràng; cấp dưới phải được lựa chọn cẩn
thận.
Nhược: Tình trạng quá tải ở cấp trên dễ dẫn đến ách tắc các quyết định; Có
nguy cơ không thể kiểm soát nổi; Cần có nhà quản lý có chất lượng đặc biệt.
Có thể thấy việc xác định số cấp quản trị trong bộ máy tổ chức quản trị phụ
thuộc vào tầm hạn quản trị. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà xác định tầm
quản trị và số cấp quản trị thích hợp đáp ứng nâng cao hiệu quả quản trị.

2


1.3. Các lĩnh cực phân cấp quản trị
Tùy đặc điểm của từng doanh nghiệp mà phân cấp khác nhau. Trong kinh
doanh, người ta phân biệt 7 lĩnh vực của sự phân cấp: sản xuất, tiếp thị, mua
sắm, quản lý lao động, kế toán thống kê, tài chính, vận chuyển và kho bãi.
- Sản xuất. Lĩnh vực này thường được phân cấp nhiều nhất và mạnh nhất.
- Tiếp thị. Phân cấp mạnh và phổ biến.
- Mua sắm các yếu tố cần thiết cho sản xuất. Kinh nghiệm quốc tế: Khoảng
50% giá trị mua sắm thường được phân cấp cho cấp dưới, vì cơ quan chủ
quản giữ lại quyền mua sắm các loại có giá trị lớn. Cấp cơ sở mua các loại
có giá trị nhỏ mặc dù số lượng lớn.
- Quản trị nhân sự. Các doanh nghiệp thường dè dặt ở lĩnh vực này. Lý do
giữ lại không phân cấp là nhằm giữ chính sách thống nhất lao động ở
doanh nghiệp.
- Lĩnh vực kế toán thống kê. Phần lớn các doanh nghiệp lớn trên thế giới
không phân cấp cho các cơ sở cấp dưới trong lĩnh vực này.
- Lĩnh vực tài chính. Xu hướng phân cấp cũng rất hạn chế.
- Vận chuyển và kho bãi. Nếu cơ sở rải rác ở nhiều nơi thì lĩnh vực này phân
cấp rất mạnh. Nhưng nếu đơn vị ở tập trung thì xu hướng là không phân

cấp. Yếu tố chính là yếu tố địa dư.
II. Phân quyền trong quản trị
2.1 Quyền hành trong quản trị
Trong công tác quản trị, quyền hành luôn luôn kèm theo chức vị quản
trị. Nếu như không tuân theo những chỉ thị của cấp trên trong một tổ chức thì
không thể hoàn thành mục tiêu của tổ chức, mặt khác những quyền hành kèm
theo những chức vị quản trị không phải là vô hạn.
Quyền hành là năng lực quyết định, chỉ huy cưỡng bức, khen thưởng,
trừng phạt hay ra lệnh đối với cấp dưới và trông đợi sự tiến hành của họ và
chỉ gọi là quyền hành khi đó là quyền hành hợp pháp, chính đáng.
Đặc điểm của quyền hành:
- Tính gắn bó các thành phần trong tổ chức.
- Nhà quản trị sử dụng quyền hành như là công cụ để thực hiện các chức
năng của mình. Quyền hành trong quản trị phải được phân cho từng cấp,
từng người tùy theo chức vị, địa vị, khả năng và kinh nghiệm thực tế.

3


Quan hệ giữa sử dụng quyền hành và thái độ lao động:
- Có ba cách thức sử dụng quyền hành của người quản trị: cưỡng bức; mua
chuộc; kết thân, xem nhau như đồng nghiệp.
- Có ba thái độ lao động cơ bản trong thành phần của một tổ chức: Chây
lười; có tính toán hơn thiệt khi làm việc; hăng say tích cực.
Hạn chế của quyền hành:
- Hạn chế về cấp bậc của người quản trị.
- Hạn chế về mặt xã hội: chính trị và pháp luật
- Hạn chế về mặt sinh học: những yếu tố liên quan đến khía cạnh sinh học
của con người (giờ làm việc hiệu quả 8h/ngày).
- Hạn chế về mặt kỹ thuật.

- Hạn chế về mặt kinh tế: giá cả, lương, thưởng.
Các nguyên tắc giao quyền cho các bộ phận chức năng:
- Nguyên tắc giao quyền theo kết quả mong muốn: quyền được giao cho
từng người quản lý cần phải tương xứng, nhằm đảm bảo họ có khả năng
hoàn thành các kết quả mong muốn.
- Nguyên tắc xác định theo chức năng: một cương vị được giao quyền phải
hiểu rõ về kết quả mong đợi, về các hoạt động cần tiến hành, về quyền hạn
được giao trong tổ chức và sự hiểu rõ quyền lực và mối quan hệ về thông
tin. Như vậy, người được giao quyền càng có thể đóng góp nhiều hơn vào
việc hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Nguyên tắc này hạn chế sự lẫn lộn
không biết ai phải làm gì trong cơ cấu tổ chức.
- Nguyên tắc bậc thang: tuyến quyền hạn từ người quản trị cao nhất trong tổ
chức đến mỗi vị trí bên dưới rõ ràng thì các vị trí chịu trách nhiệm về việc
ra các quyết định sẽ càng rõ ràng và việc thông tin trong tổ chức sẽ càng
hiệu quả.
- Nguyên tắc quyền hạn theo cấp bậc: Nguyên tắc này cho biết việc duy trì
quyền hạn đòi hỏi các quyết định trong phạm vi quyền hạn của từng người
phải được chính họ đưa ra chứ không đẩy được lên trên hoặc xuống dưới
theo cơ cấu tổ chức.
- Nguyên tắc thống nhất theo mệnh lệnh: việc một người có mối quan hệ
trình báo lên một cấp trên duy nhất càng hoàn thiện bao nhiêu thì vấn đề

4


mâu thuẫn trong các chỉ thị sẽ càng ít và ý thức về trách nhiệm cá nhân đối
với kết quả sẽ càng lớn.
- Nguyên tắc về tính tuyệt đối trong trách nhiệm: trách nhiệm của cấp dưới
đối với cấp trên của mình về việc thực hiện nhiệm vụ là tuyệt đối. Một khi
họ đã chấp nhận sự phân công và chấp nhận quyền hành thì cấp dưới và

cấp trên không thể lẫn lộn trách nhiệm về các hành động trong các tổ chức.
- Nguyên tắc tương xứng giữa quyền hạn và trách nhiệm: Trách nhiệm về
các hành động không thể lớn hơn trách nhiệm nằm trong quyền hạn được
giao phó, cũng như không thể nhỏ hơn.
2.2 Những yếu tố xác định mức độ phân quyền
Giá trị của quyết định càng lớn thì càng đòi hỏi được ban hành ở cấp cao (giá
trị kinh tế, tài chính, uy tín...)
- Nhu cầu thống nhất trong chính sách: nếu không cần thống nhất thì để cấp
dưới linh động, tức phân quyền mạnh ngược lại làm phân quyền giảm và
gia tăng tập quyền.
- Quy mô doanh nghiệp càng lớn, quyết định cần bán ra càng nhiều và các
cương vị phải đặt ra càng nhiều, thì việc phối hợp chúng càng phức tạp.
Trong các tổ chức có quy mô lớn, tầm quan trọng của sự nhất trí theo chiều
ngang cũng ngang với sự nhất trí theo chiều dọc. Do đó phải phân quyền
cho những bộ phận cần thiết và có thể.
- Triết lý quản trị của lãnh đạo và lịch sử phát triển của doanh nghiệp.
- Trình độ các nhà quản trị cấp cơ sở.
2.3 Chấp nhận quyền hành
Xem xét quyền hành trong phạm vi mô hình, quan hệ giữa cấp trên và
cấp dưới thừa nhận quyền lực của các quyết định được cấp trên ban ra như là
một tất yếu.
Quyền hành được xem xét về các mặt quan hệ. Cấp dưới có thể biết cấp
trên trông đợi điều gì ở họ. Do đó, cấp dưới tự dự đoán những yêu cầu và
hành động, thậm chí trước khi được cấp trên yêu cầu, chỉ thị. Tuy nhiên, khả
năng chấp nhận quyền hành ở từng tổ chức, từng người, từng trường hợp có
khác nhau. Có trường hợp quyền hành được chấp nhận triệt để, có trường hợp
ít được chấp nhận, thậm chí không được chấp nhận nếu như quyền hành đối
với những đối tượng lao động thuộc nhóm người lười biếng, có tính toán

5



trong tổ chức. Tuy nhiên cũng cần xét đến người đưa ra quyền hành, nếu
quyền hành đưa ra không đúng buộc cấp dưới thực hiện sẽ gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho tổ chức, ngược lại sẽ làm lợi và phát triển được tổ chức.
Để quyền hành có thể thực hiện một cách đầy đủ phải có 4 điều kiện:
- Cấp dưới hiểu rõ sự ra lệnh.
- Nội dung lệnh phải phù hợp với mục tiêu của tổ chức.
- Lệnh đó phải phù hợp với lợi ích cá nhân của họ.
- Cấp dưới có khả năng thực hiện mệnh lệnh đó.
Chấp nhận quyền hành không phải cố định mà cũng co giãn, biến đổi với
thời gian, con người, hoàn cảnh. Một tổ chức tự nguyện với những mục tiêu
xác định sơ sài có phạm vi chấp nhận hẹp nhất, trong khi những tổ chức quân
đội có kỉ luật nghiệm khắc và mục tiêu rõ ràng lại có phạm vi chấp nhận rộng
lớn nhất.
Quyền hành làm cho hoạt động có sự phối hợp. Các quyết định trở nên
đúng đắn, phù hợp với nhau nhờ sự phối hợp và thừa nhận của tất cả các
thành viên trong tổ chức. Sự cần thiết phải phân quyền và chia quyền hành
trong tổ chức vì điều đó tạo ra những hệ thống “vùng chấp nhận” hợp lý trong
tổ chức.
Việc phân chia quyền hành có thể làm theo một hệ thống cấp bậc. Theo hệ
thống đó, mỗi cá nhân, với địa vị của mình trong tổ chức được xác định quyền
hành đối với một nhóm cấp dưới đặc biệt. Quyền hành cũng có thể phân chia
theo chức năng, theo nội dung đối tượng để cho mỗi cá nhân có quyền hành
đối với một khía cạnh nào đó trong công việc của tổ chức. Ngay cả khi có hệ
thống quyền hành cấp bậc thì cũng cần phân chia tổ chức theo phạm vi chức
năng.
Quyền hành liên quan tới việc “chấp thuận” của cấp dưới đối với quyết
định của cấp trên. Mặc dù mọi người đều có khả năng lựa chọn những “vùng
chấp thuận” của mình nhưng thực tế khả năng này tương đối hạn chế. Và để

đảm bảo các quyết định được cấp dưới chấp thuận phải mở rộng các mệnh
lệnh nằm trong khu vực này và dùng các khuyến khích thúc đẩy cấp dưới.
Quyền hành gồm 2 mặt: Chấp nhận thông tin- mệnh lệnh từ trên xuống
dưới, đó là mặt chủ quan, cá nhân và độc lập, liên quan tới đặc tính của thông
tin, nhờ đó mà nó được chấp thuận và phụ thuộc vào những nhân tố tổ chức-

6


mặt khách quan. Phân tích tới cùng thì quyết định xem mệnh lệnh có quyền
hành hay không là việc của những người mà mệnh lệnh được chỉ định cho họ
và không phụ thuộc vào những người có quyền hành hay những người ban
phát những mệnh lệnh.
Về mặt chủ quan của quyền hành một cá nhân trong tổ chức có thể tán
thành mệnh lệnh khi đồng thời có 4 điều kiện sau đây:
- Thông tin phải rõ ràng đủ để hiểu đúng luật.
- Mệnh lệnh phải thích hợp với mục đích của tổ chức. Nếu những người
quản trị ban hành những mệnh lệnh mà đối với người nhận là mâu thuẫn
với mục đích chính, họ phải giải thích và chứng minh mâu thuẫn này chỉ là
sự hiểu nhầm nếu không các mệnh lệnh sẽ không được thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ.
- Ở thời điểm ra quyết định phải thích hợp với toàn bộ lợi ích cá nhân của
người nhận lệnh.
- Cá nhân nhận lệnh có khả năng tuân thủ về cả thể chất và tinh thần.
Những yêu cầu đối với quyền hành của nhà quản trị là:
- Giải thích mệnh lệnh với các cá nhân và các nhóm một cách dễ hiểu và áp
dụng được trong những hoàn cảnh cụ thể.
- Tránh những mệnh lệnh mâu thuẫn
- Không bao giờ ban hành các mệnh lệnh không thể thực hiện được hoặc sẽ
không được tuân theo.

- Nếu các mệnh lệnh khó khăn, hãy chuẩn bị cơ sở thực hiện thông qua giáo
dục, thuyết phục và dành nó cho những người hăng hái.
- Tập trung chú ý vào trách nhiệm hơn là quyền hành.
Mệnh lệnh của nhà quản trị rất quan trọng, những mệnh lệnh được ban xuống
từ những người kém năng lực quản trị dễ gây hậu quả tai hại cho tổ chức.
III. Thực tiễn phân cấp, phân quyền trong quản trị ở Việt Nam
Xét đến vấn đề phân cấp, phân quyền trong các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay, khi mà được quan tâm hơn cả chính là trong hệ thống doanh nghiệp
nhà nước. Đối với doanh nghiệp tư nhân, với kết cấu vừa và nhỏ nên chưa
thực sự được quan tâm như nước có nền có kinh tế phát triển mạnh- nơi có
những tập đoàn kinh tế lớn. Chính vì vậy em xin tập trung đi vào phân tích

7


vấn đề phân cấp, phân quyền trong các doanh nghiệp nhà nước để có cái nhìn
chuẩn xác và thực tế nhất.
3.1 Phân cấp, phân quyền trong quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam
3.1.1 Chủ trương về phân công, phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước
Chủ trương, định hướng về phân công, phân cấp quản lý DNNN gắn
liền với chủ trương chung của Đảng về phân cấp QLNN (trong đó có quản lý
kinh tế) nhưng rõ hơn cả được thể hiện tại Đại hội Đảng lần thứ IX và Hội
nghị Trung ương 3 (khoá IX). Định hướng của Đại hội Đảng lần thứ IX liên
quan đến phân công, phân cấp quản lý DNNN là thực hiện một cách rạch ròi
quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan QLNN; tăng cường và thực hiện đúng
chức năng của các cơ quan QLNN trong quản lý DNNN. Đó là: “quy định rõ
quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp”, “phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh
nghiệp”, “giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp

chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh”, “thực hiện chế độ quản
lý công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách
nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà
nước”. Hội nghị Trung ương 3 (khoá IX) - một hội nghị chuyên đề đầu tiên
bàn sâu về DNNN đã đưa ra những định hướng và giải pháp cụ thể về phân
công, phân cấp quản lý DNNN như sau:
Thứ nhất, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và của
cơ quan chủ sở hữu đối với DNNN. Lần đầu tiên trong chủ trương của Đảng
có đề cập đến sự phân định giữa chức năng QLNN và chức năng chủ sở hữu.
Đây là điểm mới về chủ trương trong đổi mới quản lý DNNN.
Thứ hai, đưa ra định hướng cụ thể hơn về chức năng QLNN đối với DNNN.
Đó là kiên quyết chấm dứt tình trạng cơ quan hành chính nhà nước can thiệp
trực tiếp, cụ thể vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; phân
định rõ quyền quản lý hành chính kinh tế của Nhà nước và quản lý sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ quan QLNN căn cứ vào quy định của pháp
luật và yêu cầu quản lý mà ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp quy để
thực hiện chức năng QLNN đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế, trong đó có DNNN.

8


Thứ ba, tiếp tục khẳng định chủ trương phân biệt rõ chức năng của cơ quan
đại diện quyền chủ sở hữu của Nhà nước với chức năng điều hành sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, xác định rõ hơn quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng
chủ sở hữu.
Thứ năm, đưa ra định hướng đối với việc phân công, phân cấp thực hiện
các quyền chủ sở hữu trong quản lý DNNN.
Đối với HĐQT - một cấp đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại DNNN, Nghị

quyết trung ương 3 (khoá IX) chủ trương “giao quyền quyết định nhiều hơn đi
đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại
doanh nghiệp”.
3.1.2 Thực trạng phân quyền, phân cấp quản trị doanh nghiệp nhà nước
Trên thực tế, quản lý đối với DNNN và phân quyền, phân cấp đại diện chủ
sở hữu nhà nước đã được thực hiện theo nhiều mô hình dưới đây:
- Mô hình “bộ chủ quản, cơ quan hành chính chủ quản” trước khi có Luật
DNNN 1995.
- Mô hình “song trùng” đại diện chủ hữu của bộ quản lý ngành và Bộ Tài
chính ở giai đoạn 1995-2000 khi lập Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà
nước tại các doanh nghiệp.
- Mô hình “phân tán có giới hạn” đối với loại DNNN do bộ, UBND cấp tỉnh
quyết định thành lập ở giai đoạn 2000-2003 sau khi giải thể Tổng cục quản
lý vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp.
- Mô hình “phân tán” đại diện chủ hữu đối với các TĐKT, TCT nhà nước
từ 2004 đến nay theo Luật DNNN 2003 và Luật Doanh nghiệp 2005.
Theo mô hình “phân tán” hiện nay có quá nhiều cơ quan đại diện chủ sở hữu
nhà nước thực hiện quản lý, giám sát đối với DNNN bao gồm: Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; các bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật; các bộ quản lý
chức năng bao gồm Bộ Tài chính, HĐQT tập đoàn kinh tế nhà nước... Bên
cạnh đó, một số cơ quan khác như Văn phòng Trung ương Đảng, Đảng ủy
Khối doanh nghiệp Trung ương, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tham gia
Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cũng được hiểu gần như là
tham gia thực hiện quản lý, giám sát đối với DNNN.

9


- Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, đồng thời là 1 đầu mối tổng hợp
(xét về khía cạnh đại diện chủ sở hữu nhà nước) thống nhất tổ chức thực hiện

quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu DNNN.
Bên cạnh đó, còn có 7 cơ quan, ban, ngành có lãnh đạo là thành viên trong
Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cũng được coi là những cơ
quan có tác động đến thực hiện các nhiệm vụ của chủ sở hữu nhà nước.
3.1.3 Những tồn tại, hạn chế của phân quyền, phân cấp quản lý doanh
nghiệp nhà nước
a. Quy định về phân quyền, phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước chồng
chéo và thiếu thống nhất giữa nhiều văn bản
Mặc dù Luật DNNN đã hết hiệu lực thi hành từ 1/7/2010 nhưng khung khổ
pháp lý điều chỉnh quyền chủ sở hữu nhà nước và phân quyền, phân cấp quản
lý DNNN (gồm phân quyền, phân cấp đại diện chủ sở hữu nhà nước và việc
phân biệt giữa chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng QLNN) vẫn bao
gồm các quy định theo Luật DNNN đan xen với các quy định theo Luật
Doanh nghiệp hiện hành.
- Nghị định 25/2010/NĐ-CP áp dụng để quản lý công ty TNHH một thành
viên, theo đó, chủ sở hữu công ty là một tổ chức. Tuy nhiên đến cuối năm
2012 (trước khi ban hành Nghị định 99/2012/NĐ-CP) chưa có văn bản nào
quy định rõ về những tổ chức cụ thể là chủ sở hữu hay đại diện chủ sở hữu
công ty TNHH một thành viên. Vì lý do đó nên việc phân công, phân cấp
quản lý công ty TNHH một thành viên, đặc biệt là đối với công ty TNHH một
thành viên là công ty mẹ của TĐKT nhà nước, cũng chưa được quy định. Việc
áp dụng đan xen các quy định phân công, phân cấp quản lý DNNN căn cứ
theo Luật Doanh nghiệp với các quy định căn cứ theo Luật DNNN cũ, thứ
nhất, thể hiện sự lúng túng trong chuyển DNNN từ đăng ký theo Luật DNNN
sang đăng ký theo Luật Doanh nghiệp; thứ hai, cho thấy sự thiếu hụt hay còn
khoảng trống pháp luật về quyền sở hữu, thực hiện quyền sở hữu của Nhà
nước đối với DNNN khi áp dụng Luật Doanh nghiệp thống nhất cho mọi loại
doanh nghiệp.
Hệ quả của tình trạng này là việc phân quyền, phân cấp quản lý DNNN không
dựa trên nền tảng cơ sở pháp lý vững chắc; ảnh hưởng đến việc thực hiện


10


quyền chủ sở hữu nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước tại các
DNNN.
b. Tư duy và bộ máy quản lý hành chính nhà nước không phù hợp với quản lý
doanh nghiệp nhà nước trong thể chế kinh tế thị trường
Hiện nay việc quản lý DNNN được phân quyền, phân cấp cho các cơ quan
QLNN là các Bộ, UBND cấp tỉnh. Đây là các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước thuộc bộ máy hành chính nhà nước. Cơ chế vận hành chức năng chủ sở
hữu nhà nước của các Bộ, về cơ bản, dựa trên nền tảng chức năng, nhiệm vụ
quản lý hành chính của các Bộ. Trên thực tế, các cơ quan đại diện chủ sở hữu
nhà nước vẫn sử dụng các cán bộ và bộ máy thực hiện chức năng QLNN với
những hạn chế lâu nay như tư duy và phương thức làm việc hành chính, quan
liêu, giấy tờ, chậm trễ, chờ đợi ý kiến tập thể, không rõ trách nhiệm, thiếu
động lực và hiệu quả... Cơ chế này không thích hợp với cung cách hoạt động
năng động, nhạy bén, quyết đoán, tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư, chủ sở
hữu thường thấy trong hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.
c. Phân quyền, phân cấp cho quá nhiều cơ quan, tổ chức tham gia đại diện
chủ sở hữu
Việc phân quyền, phân cấp cho quá nhiều cơ quan, tổ chức tham gia đại diện
chủ sở hữu dẫn đến các hạn chế và tồn tại sau đây:
- Sự phối hợp trong thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước giữa
các cơ quan, tổ chức gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó phần nhiều các khó
khăn, trở ngại là do các cơ quan, tổ chức này độc lập và biệt lập nhau, hoặc do
bị chi phối bởi lợi ích cục bộ, “lợi ích nhóm”.
- Sự chậm trễ trong thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước. Hiện
tại các nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu được thực hiện bởi các công chức, viên
chức kiêm nhiệm, không chuyên trách, chuyên nghiệp, với các thủ tục hành

chính, quan liêu, giấy tờ của các cơ quan hành chính nhà nước. Đây là nguyên
nhân quan trọng của tình trạng chậm trễ trong thực hiện chức năng đại diện
chủ sở hữu nhà nước, dẫn đến mất cơ hội hoặc làm khó cho doanh nghiệp.
- Khó bảo đảm tính toàn diện và đồng bộ của quyền chủ sở hữu nhà nước
trong quản lý DNNN. Quyền chủ sở hữu là thống nhất với 4 nhóm quyền
quản lý cơ bản nhưng có mối liên hệ chặt với nhau gồm: (i) quyền về tổ chức
và nhân sự; (ii) quyền quyết định về phương hướng phát triển sản xuất kinh

11


doanh; (iii) quyền quản lý vốn, tài sản nhà nước; kiểm tra, giám sát kết quả
hoạt động kinh doanh của DNNN; và (iv) quyền hưởng lợi từ kết quả hoạt
động của DNNN. Hiện nay mỗi cơ quan đại diện chủ sở hữu được phân công,
phân cấp thực hiện một lĩnh vực, một mảng công việc theo chuyên ngành
QLNN về kinh tế. Mỗi cơ quan đại diện chủ sở hữu thường xem xét đánh giá
DNNN từ góc độ chuyên ngành của mình nên thường nhìn nhận hiệu quả
DNNN và thực hiện quyền chủ sở hữu một cách phiến diện. Trong khi đó, cần
xem xét đánh giá hiệu quả DNNN và tiến hành quản lý DNNN trên cơ sở hiệu
lực, hiệu quả thực hiện một cách toàn diện 4 nhóm quyền của quyền chủ sở
hữu. Tuy nhiên, trong phân công, phân cấp hiện nay chưa có cơ quan hay tổ
chức nào được giao làm đầu mối phân tích, đánh giá thực hiện quyền chủ sở
hữu nhà nước một cách tổng hợp, toàn diện 4 nhóm quyền quản lý cơ bản nêu
trên. Vì vậy, phân quyền, phân cấp đại diện chủ sở hữu không bảo đảm tính
toàn diện, đồng bộ và thống nhất quyền chủ sở hữu nhà nước.
- Không có bộ máy và cán bộ chuyên trách, chuyên nghiệp thực hiện chức
năng đại diện chủ sở hữu nhà nước. Đây là một thực tế tại tất cả các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh. Trừ 2 Bộ Giao
thông vận tải và Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mới thành lập Vụ Đổi
mới và Phát triển doanh nghiệp vào năm 2011 với chức năng giúp Bộ trưởng

thực hiện đổi mới và phát triển DNNN do Bộ quản lý.
d. Vai trò giám sát trong phân công, phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà
nước chưa được chú trọng
Phân công, phân cấp quản lý DNNN, như phần đầu đã nêu, là sự chuyển
giao một phần quyền quản lý DNNN của chủ sở hữu nhà nước cho các cơ
quan, tổ chức được phân công, phân cấp. Với nước ta, đó là sự chuyển giao
quyền quản lý của toàn dân cho Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội đồng thời là cơ quan hành chính cao nhất. Đến lượt mình, Chính phủ tiến
hành phân công, phân cấp hay chuyển quyền quản lý cho các cơ quan, tổ
chức, DNNN (với 106 đầu mối như vừa nêu). Với chức năng thống nhất quản
lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN, Chính phủ
có quyền và trách nhiệm giám sát việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước
tại 106 đầu mối này. Tương tự như vậy, Quốc hội đại diện cho sở hữu toàn

12


dân có quyền và trách nhiệm giám sát Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý
và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài ở nước ta đã diễn ra tình trạng thiếu
vắng hay bỏ trống không có các văn bản quy phạm pháp luật ban hành riêng
về giám sát đối với DNNN và các đại diện chủ sở hữu nhà nước. Từ năm
2006, việc giám sát và đánh giá đối với DNNN mới bắt đầu được quan tâm
bằng việc ban hành Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước kèm theo Quyết định 224/2006/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Gần đây, Chính phủ mới ban hành tiếp Nghị định
61/2013/NĐ-CP về Quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả và công
khai thông tin tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu và
doanh nghiệp có vốn nhà nước. Trong thực tế việc giám sát DNNN cũng chưa
đem lại kết quả tích cực. Giám sát và đánh gía DNNN theo Quyết định

224/2006/QĐ-TTg chủ yếu mang ý nghĩa khuyến khích thúc đẩy thực hiện cơ
chế tiền lương và tiền thưởng nhiều hơn, trong khi việc áp dụng Nghị định
61/2013/NĐ-CP với nhiều đổi mới về nội dung giám sát nhưng đang chờ các
hướng dẫn cụ thể của các Bộ, ngành. Gần đây một số bộ, ngành, UBND cấp
tỉnh đã có những hoạt động tăng cường hơn giám sát đối với DNNN. Năm
2009, Quốc hội cũng đã tiến hành giám sát
chuyên đề đối với tập đoàn, TĐKT nhà nước. Tuy nhiên, đây vẫn là hoạt động
giám sát duy nhất đối với DNNN cho đến nay của Quốc hội. Điều đó cho thấy
giám sát thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước chưa được đặt đúng vị trí trong
quản lý DNNN. Bên cạnh đó, giám sát DNNN chưa có tính hệ thống cũng
như chưa xác định rõ ràng mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức giám sát
phù hợp với vai trò, vị trí của chủ sở hữu nhà nước cho thấy đây đang là lỗ
hổng trong quản lý DNNN và phân công, phân cấp quản lý DNNN.
e. Những vấn đề trong tách chức năng chủ sở hữu với chức năng quản
lý nhà nước Thứ nhất, Luật DNNN 1995 và Luật DNNN 2003 đã có một số
quy định có tính nguyên tắc và riêng rẽ về quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà nước
và về nội dung QLNN đối với DNNN. Tuy nhiên, do chưa có văn bản quy
phạm pháp luật nào được ban hành, hướng dẫn cụ thể, chi tiết về các nguyên

13


tắc thực hiện tách bạch giữa 2 chức năng này, nên chưa có cơ sở pháp lý để
thực hiện tách chức năng chủ sở hữu nhà nước với chức năng QLNN.
Thứ hai, trên thực tế các cơ quan nhà nước được phân công quản lý DNNN
đều thực hiện cả 2 chức năng, vừa thực hiện chức năng QLNN về kinh tế, vừa
làm đại diện chủ sở hữu nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
thuộc chức năng chủ sở hữu. Trong đó, các bộ quản lý ngành có DNNN vừa
QLNN về ngành, vừa là các cơ quan đại diện chủ sở hữu. Các bộ tổng hợp

thực hiện QLNN theo lĩnh vực (như tài chính, lao động - thương binh và xã
hội, nội vụ, kế hoạch và đầu tư) được giao thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
thuộc chức năng chủ sở hữu như tham gia trong quá trình: phê duyệt, sửa đổi,
bổ sung điều lệ; tăng giảm vốn điều lệ; phê duyệt đơn giá tiền lương; bổ
nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật cán bộ lãnh đạo quản lý; thông qua chiến lược
kinh doanh, dự án đầu tư lớn, đề án thành lập, sắp xếp DNNN, tiêu chí phân
loại DNNN v.v.
Thứ ba, chưa có sự tách bạch về bộ máy thực hiện chức năng chủ sở hữu
nhà nước với bộ máy thực hiện chức năng QLNN. Thậm chí trong hệ thống
các cơ quan hành chính nhà nước cũng không có bộ phận nào chuyên thực
hiện chức năng chủ sở hữu. Kể cả Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh
nghiệp và Vụ Đổi mới doanh nghiệp thuộc Văn phòng Chính phủ cũng chỉ
làm chức năng tham mưu, giúp việc cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Thứ tư, chưa phân biệt rõ giữa phương thức, cách thức thực hiện chức năng
chủ sở hữu nhà nước với phương thức, cách thức thực hiện chức năng QLNN.
Mọi quy định, quyết định của Nhà nước về quản lý DNNN đều thể hiện bằng
các hình thức văn bản giống nhau: hoặc theo hình thức văn bản quy phạm
pháp luật, hoặc theo hình thức văn bản hành chính.
3.1.4 Hệ quả và nguyên nhân
Tình trạng phân quyền, phân cấp quản lý DNNN phức tạp, chồng chéo, không
rõ đầu mối và thiếu tách bạch giữa chức năng chủ sở hữu với chức năng
QLNN kéo dài không chỉ tiềm ẩn rủi ro mà trên thực tế đang dẫn đến các hệ
quả tiêu cực sau đây:
- Thứ nhất, việc phân quyền, phân cấp nhiều đầu mối, chủ yếu dựa vào các

14


cơ quan quản lý hành chính nhà nước, bộ máy hành chính, cán bộ công chức
phân tán theo ngành, lĩnh vực theo kiểu “mặt trận” dẫn đến khó phối hợp,

thống nhất và chậm ra quyết định của chủ sở hữu nhà nước.
- Thứ hai, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu lực, hiệu quả quản lý DNNN, kể cả
hiệu lực, hiệu quả thực hiện chức năng chủ sở hữu và quyền chủ sở hữu nhà
nước; và hiệu lực, hiệu quả QLNN về kinh tế. Việc phân quyền, phân cấp
không hợp lý, nhiều đầu mối, lòng vòng, bộ máy và cán bộ không chuyên
trách, chuyên nghiệp và không chuyên tâm dẫn đến Nhà nước thiếu khả năng
giám sát, kiểm soát, phát hiện vấn đề, phân tích và cảnh báo, phối hợp và hợp
tác chặt chẽ với nhau để đảm trách một cách đầy đủ, toàn diện vai trò, quyền
hạn, trách nhiệm của nhà đầu tư nhà nước như vai trò của các nhà đầu tư
khác. Vì thế, khó có cơ sở để Nhà nước trở thành chủ sở hữu, nhà đầu tư
chuyên nghiệp, tích cực, có trách nhiệm và hành xử tương tự theo cách thức
của các nhà đầu tư khu vực tư nhân; khó tạo điều kiện cho DNNN hoạt động,
kinh doanh có hiệu quả; đồng thời cũng khó thiết lập một nền hành chính
chuyên nghiệp, QLNN có hiệu lực và hiệu quả.
- Thứ ba, việc các cơ quan nhà nước thực hiện vai trò “kép” (vừa ban hành
chính sách kinh tế đối với ngành do mình quản lý và chính sách chung đối với
các loại hình doanh nghiệp, đồng thời vừa làm đại diện chủ sở hữu các
DNNN) đã ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách kinh tế ngành và thực hiện
chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước. Một mặt, nó tạo ra sự thiên vị cho
DNNN, phân biệt đối xử với doanh nghiệp ngoài nhà nước; làm môi trường
kinh doanh thiếu bình đẳng, cạnh tranh bị bóp méo. Mặt khác, quản trị DNNN
không chuyên nghiệp, thiếu minh bạch, chính sách chủ sở hữu không rõ ràng;
ưu tiên, ưu đãi DNNN hơn doanh nghiệp ngoài nhà nước. Bên cạnh đó,
DNNN cũng bị các cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước sử dụng dễ dãi
thậm chí tuỳ tiện cho nhiều mục tiêu khác nhau nên không thể tập trung vào
mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận. Hệ quả tất yếu của chính sách “hai trong
một” này là hiệu quả kinh doanh của DNNN thấp nhưng cả DNNN và đại
diện chủ sở hữu DNNN đều không thể giải trình rõ ràng và thuyết phục được.
Từ đó gây nên nhiều bức xúc trong dư luận.
- Thứ tư, việc phân quyền, phân cấp nhiều đầu mối ảnh hưởng tiêu cực đến


15


năng lực và hiệu quả công tác của bộ máy, cán bộ. Trong quản lý DNNN chưa
có sự quan tâm đến đổi mới tổ chức và cán bộ thực hiện các nhiệm vụ thuộc
chức năng chủ sở hữu. Trong thực tế vẫn sử dụng bộ máy và cán bộ thực hiện
chức năng quản lý hành chính nhà nước với những hạn chế lâu nay như tư
duy và phương thức làm việc hành chính, quan liêu, giấy tờ, chậm trễ, chờ đợi
ý kiến tập thể, không rõ trách nhiệm, thiếu động lực và hiệu quả; thiếu chuyên
môn hoá, chuyên trách hoá, chuyên nghiệp hoá; không chuyên tâm vào thực
hiện một mục đích duy nhất hoặc là thực hiện chức năng chủ sở hữu, hoặc
thực hiện chức năng QLNN về kinh tế; không nắm chắc tình hình DNNN;
thông tin về DNNN thiếu tính tin cậy, sát thực, đầy đủ, toàn diện, cập nhật, hệ
thống và thống nhất, nhất quán; dẫn đến thiếu cơ sở vững chắc để phân tích,
đánh giá về DNNN và đề xuất chính sách.
- Thứ năm, không đảm bảo quyền chủ động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng
tới hoạt động của các DNNN do tác động, ảnh hưởng hoặc can thiệp của hệ
thống nhiều cơ quan, tổ chức theo cung cách quan liêu, giấy tờ, thủ tục hành
chính, xử lý chậm trễ, lòng vòng qua nhiều cơ quan được phân công, phân cấp
đại diện chủ sở hữu.
Nguyên nhân của thực trạng, hạn chế trên:
- Trước hết, do chưa đổi mới tư duy về quản lý DNNN trong thể chế kinh
tế thị trường. Mặc dù đã có chủ trương và trên thực tế thể chế kinh tế thị
trường cũng đang xây dựng và hoàn thiện, nền kinh tế cũng đang chuyển sang
vận hành theo cơ chế thị trường, nhưng vẫn còn tư duy và lực lượng muốn
duy trì quản lý DNNN theo cung cách cũ của nền kinh tế kế hoạch tập trung,
chỉ huy, nặng về tư duy quản lý theo ngành, lĩnh vực. Điều đó đã dẫn đến tình
trạng phân quyền, phân cấp thực hiện chức năng, quyền, nhiệm vụ chủ sở hữu
nhà nước bị chia cắt, chia nhỏ. Quản lý DNNN bị phân tán theo ngành, lĩnh

vực, theo cấp và số cơ quan và chủ thể đại diện chủ sở hữu, ảnh hướng đến
tính thống nhất của vai trò, chức năng chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN.
- Hai là, do chậm triển khai các hoạt động để thực hiện chủ trương của Đảng
về tách chức năng chủ sở hữu với chức năng QLNN. Việc chậm phân tách này
chính là nguyên nhân quan trọng hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc phân quyền,
phân cấp lòng vòng mà quản lý DNNN vẫn kém hiệu lực, hiệu quả.

16


- Ba là, do lo ngại không đủ năng lực để thực hiện theo cái mới. Nhưng điều
đó chỉ một phần; một phần khác do ngại thay đổi, thậm chí không muốn thay
đổi vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm.
- Bốn là, do công chức hoá đội ngũ cán bộ đại diện chủ sở hữu nhà nước và
áp dụng chế độ công chức đối với đội ngũ này là không đúng và không thích
hợp với tính kinh doanh của thực hiện chức năng chủ sở hữu. Đây cũng là
một nguyên nhân không kém phần quan trọng của tình trạng phân quyền,
phân cấp chưa hợp lý về quản lý đối với DNNN.
- Năm là, do khung pháp luật về phân quyền, phân cấp còn nhiều hạn chế và
tồn tại; chưa đầy đủ và rõ ràng; chưa quy định rõ nhiệm vụ quản lý hành
chính nhà nước và nhiệm vụ quản lý của chủ sở hữu nhà nước; khiến cho
công tác triển khai thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước gặp
nhiều khó khăn.
- Sáu là, do tổ chức nhiều đầu mối đại diện chủ sở hữu - những tồn tại, bất
cập, bất hợp lý kéo dài trong phân quyền, phân cấp giữa các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ; giữa các đơn vị của Bộ, của Ủy ban
nhân dân ảnh hưởng đến việc thực thi quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà
nước và ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
- Bảy là, do chưa có tổ chức chuyên trách để thực hiện chức năng chủ sở
hữu nhà nước; chưa có cán bộ chuyên trách, có kinh nghiệm thực tiễn, có

năng lực để thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước; chưa tách bạch giữa
chức năng chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý hành chính nhà nước.
3.1.5 Định hướng đổi mới phân quyền, phân cấp quản lý doanh nghiệp
nhà nước
* Từ quan điểm, nhận thức:
Thứ nhất, quản lý DNNN và phân quyền, phân cấp quản lý DNNN cần được
hiểu và áp dụng theo nghĩa rộng. Đó không chỉ là hoạt động quản lý, giám sát
DNNN được thực hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước và áp dụng đối
với các cơ quan hành chính nhà nước, mà còn bao gồm hoạt động giám sát
của cơ quan quyền lực tối cao (Quốc hội) đối với việc thực hiện quyền chủ sở
hữu nhà nước.

17


Thứ hai, quản lý DNNN với nghĩa là thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu
nhà nước cần được tách bạch về tổ chức và cán bộ với thực hiện chức năng
QLNN về kinh tế.
Thứ ba, đảm bảo tính chuyên trách, chuyên nghiệp, phù hợp đặc điểm và
tính chất phục vụ hoạt động kinh doanh đối với DNNN của cơ quan đại diện
chủ sở hữu, đặc biệt là đảm bảo tính chuyên trách, chuyên nghiệp của cán bộ
thực hiện chức năng chủ sở hữu.
Thứ tư, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, toàn diện trong thực hiện chức
năng, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước bất kể việc phân quyền,
phân cấp đại diện chủ sở hữu theo cách nào hay theo mô hình nào.
Thứ tư, phân quyền, phân cấp quản lý DNNN cần được bảo đảm thực thi bằng
khung pháp luật cụ thể, chi tiết, thống nhất và đồng bộ, hướng trọng tâm vào
việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước và giám sát thực hiện quyền chủ sở
hữu nhà nước.
* Từ thực tế:

Việc phân quyền, phân cấp quản lý DNNN cần được tiến hành theo hướng:
- Xoá bỏ cách phân quyền, phân cấp quản lý DNNN theo kiểu hành chính
với đặc trưng là có nhiều đầu mối, nhiều cấp, nhiều tổ chức. Loại bỏ việc sử
dụng bộ máy hành chính nhà nước và sử dụng công chức nhà nước để thực
hiện chức năng chủ sở hữu. Giảm dần và tiến đến loại bỏ việc sử dụng cơ chế
phối hợp kiểu hành chính, giấy tờ, từ bên ngoài vào, từ trên xuống ít hiệu quả,
trì trệ, lòng vòng, thủ tục hành chính, không rõ trách nhiệm.
-Chuyển sang cách tổ chức quản lý DNNN của chủ sở hữu-nhà đầu tư nhà
nước theo phương cách chuyên trách, chuyên nghiệp phù hợp với thể chế kinh
tế thị trường, tạo sự năng động trong quản lý của chủ sở hữu và sự chủ động
cho DNNN; quản lý DNNN theo mục tiêu; tách quản lý của chủ sở hữu với
chức năng QLNN đối với các doanh nghiệp; phân công, phân cấp ít đầu mối,
rõ quyền, trách nhiệm đi kèm với cơ chế giám sát, đánh giá theo cả hệ thống
đại diện chủ sở hữu nhà nước từ cơ quan quyền lực tối cao đến đại diện trực
tiếp sở hữu nhà nước tại DNNN và đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, em hy vọng đã làm rõ phần nào việc phân
cấp, phân quyền trong quản trị doanh nghiệp, từ lý luận đến thực tiễn cụ thể

18


với doanh nghiệp nhà nước. Có thể thấy rằng, việc phân cấp, phân quyền để
thực hiện hiệu quả trong thực tế là không đơn giản nhưng cũng rất cần thiết,
đặc biệt là khi doanh nghiệp phát triển đến một quy mô lớn, đặc biệt là khi
Việt Nam đang trong thời kì kinh tế hiện nay thì điều này rất quan trọng. Bài
làm còn nhiều thiếu sót, em rất mong thầy, cô hướng dẫn thêm. Em xin chân
thành cảm ơn công dạy dỗ của thầy cô trong thời gian qua!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Ngô Kim Thanh, Giáo trình Quản trị doanh nghiệp, Nxb. Đại học

kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 2012.
2. TS.Trần Tiến Cường, “Phân công phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước,
thực trạng, vấn đề, nguyên nhân và một số gợi ý đổi mới.”,
/>%20ly.pdf.
3. Minh Thúy, “Phân quyền quản lý doanh nghiệp là đúng hướng”,
/>huong/45/9646255.epi
4. PGS. TS Phùng Xuân Nhạ, Phân quyền – nền tảng cho sự thành công
của
côngty,.. />5. Thúy Ngà, Phân quyền trong doanh nghiệp Việt: có thực hay chỉ là One
man
show,............................................................................................................
/>option=com_content&task=view&id=404&Itemid=181
6. Phân cấp trong quản trị, />7. Quốc Anh, Thực trạng phân cấp quản lý: Thiếu cơ chế giám sát

19


,

/>
MỤC LỤC

Lời mở đầu
Nội dung
I. Phân cấp quản trị trong doanh nghiệp
1.1. Thực chất và mức độ phân cấp
1.1.1 Thực chất của phân cấp
1.1.2 Các yếu tố quyết định mức độ phân cấp
1.2. Nội dung phân cấp quản trị
1.3. Các lĩnh cực phân cấp quản trị


20

Trang
1
1
1
1
1
1
2
3


II. Phân quyền trong quản trị
2.1 Quyền hành trong quản trị
2.2 Những yếu tố xác định mức độ phân quyền
2.3 Chấp nhận quyền hành
III. Thực tiễn phân cấp, phân quyền trong quản trị ở Việt Nam
3.1 Phân cấp, phân quyền trong quản trị doanh nghiệp nhà nước
ở Việt Nam
3.1.1 Chủ trương về phân quyền, phân cấp quản lý doanh nghiệp
nhà nước
3.1.2 Thực trạng phân quyền, phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà
nước

3
3
5
5

7
8
8
9

3.1.3 Những tồn tại, hạn chế của phân quyền, phân cấp quản lý 10
doanh nghiệp nhà nước
a. Quy định về phân quyền, phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà
nước
b. Tư duy và bộ máy quản lý hành chính nhà nước không phù
hợp với quản lý doanh nghiệp nhà nước trong thể chế kinh tế thị
trường
c. Phân quyền, phân cấp cho quá nhiều cơ quan, tổ chức tham
gia đại diện chủ sở hữu
d. Vai trò giám sát trong phân quyền, phân cấp quản lý doanh
nghiệp nhà nước chưa được chú trọng

10

e. Những vấn đề trong tách chức năng chủ sở hữu với chức năng
quản
3.1.4 Hệ quả và nguyên nhân
3.1.5 Định hướng đổi mới phân quyền, phân cấp quản lý doanh
nghiệp nhà nước
Kết luận
Danh mục tại liệu tham khảo

13

21


11

11
12

14
17
18
19


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
QLNN: Quản lý nhà nước
HĐQT: Hội đồng quản trị
TĐKT: Tập đoàn kinh tế
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
UBND: Ủy ban nhân dân

22



×