Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH PHÁP xâm lược lần THỨ 1 và sự THẤT bại của PHONG TRÀO dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.07 KB, 19 trang )

I. Bối cảnh:
Đầu tiên ở pháp, chủ nghĩa tư bản pháp phát triển, nhu cầu thị trường và
thuộc địa tăng cao.
Trong khi đó Việt Nam là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, giàu nguồn
tài nguyên, khoáng sản. Việt Nam là ngã ba của Đông Dương, rất thuận lợi để
vận chuyển hàng hóa đường ven biển nên dễ xâm chiếm. Lấy Việt Nam làm bàn
đạp tiến hành chiến tranh xâm lược các nước lân cận.
Cuối thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm
trọng:
- Về mặt chính trị:
+ Đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, đã có khá nhiều cuộc nổi
dậy chống lại chế độ nhưng đều bị dập tắt bằng những cuộc đàn áp đẫm máu,
khốc liệt.
+ Chính sách đối ngoại mù quáng, thần phục nhà Thanh, ban hành luật
Gia Long, đóng cửa đất nước, không giao thương với bạn bè các quốc gia khác
+ Các vua Minh Mạng Tự đức đều có chính sách cấm đạo
– Về mặt kinh tế
+ Bãi bỏ những cải cách tiến bộ của nhà Tây Sơn, làm cho sự phát triển
kinh tế của đất nước bị trì trệ. Các ngành kinh tế: nông nghiệp, thủ công nghiệp
hay thương nghiệp đều không còn cơ hội phát triển.
+ Làm cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực lại kèm theo sưu thế nặng,
ngoài ra còn phải chịu thêm cảnh thiên tai, dịch bệnh.
- Sau nhiều lần khiêu khích, lấy cớ bảo vệ đạo Gia tô, 9/1858, liên quân
Pháp – Tây Ban Nha tiến hành xâm lược Việt Nam.
II. Thực dân Pháp xâm lược lần 1 và sự thất bại của các phong trào
yêu nước:
1. Giai đoạn 1 ( 1858- 1862)
1.1.Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858:


- Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31 - 8 – 1858 liên quân Pháp


– Tây Ban Nha với khoảng 3000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiếc thuyền,
kéo tới dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng.
- Âm mưu của Pháp là chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế,
nhanh chóng buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng.
- Sáng 1 – 9 – 1858, địch gửi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời
trong vòng 2 giờ. Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ
súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
- Quân dân ta anh dũng chống trả quân xâm lược, đẩy lùi nhiều đợt tấn công
của chúng, sau đó lại tích cực thực hiện “ vườn không nhà trống ” gây cho quân
Pháp nhiều khó khăn. Liên quân Pháp-Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5 tháng ( từ
cuối tháng 8 – 1958 đến đầu tháng 2 – 1859) trên bán đảo Sơn Trà. Về sau, quân
Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược.
- Khí thế kháng chiến sục sôi trong nhân dân cả nước.
- Cuộc kháng chiến của quân dân ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu “ đánh
nhanh thắng nhanh” của Pháp.
1.2. Kháng chiến ở Gia Định:
- Thấy không thể chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia
Định.
- Ngày 9 – 2- 1859, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ lên
Sài Gòn. Do vấp phải sức chống cự quyết liệt của quân dân ta nên mãi tới ngày 16
– 2 – 1859 quân Pháp mới đến được Gia Định. Ngày 17 – 2, chúng nổ súng đánh
thành. Quân đội triều đình tan rã nhanh chóng. Trái lại, các đội dân binh chiến đấu
rất dũng cảm, ngày đêm bám sát địch để quấy rối và tiêu diệt chúng. Cuối cùng,
quân Pháp phải dùng thuốc nổ phá thành, đốt trụi mọi kho tàng và rút quân xuống
các tàu chiến. Kế hoạch “ đánh nhanh thắng nhanh ” bị thất bại, buộc địch phải
chuyển sang kế hoạch “ chinh phục từng gói nhỏ”.


- Từ đầu năm 1860, cục diện chiến trường Nam kì có sự thay đổi. Nước
Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và I–ta–li– a, phải cho rút

toàn bộ số quân ở Đà Nẵng vào Gia Định ( 23 – 3 – 1860 ). Vì phải chia sẻ lực
lượng cho các chiến trường khác, số quân còn lại ở Gia Định chỉ có khoảng 1000
tên, lại phải rải ra trên một chiến tuyến dài tới 10 km. Trong khi đó, quân triều đình
vẫn đóng trong phòng tuyến Chí Hòa mới được xây dựng, trong tư thế “ thủ hiểm”.
- Từ tháng 3 – 1860, Nguyễn Tri Phương được lệnh từ Đà Nẵng vào Gia
Định. Ông đã huy động hàng vạn quân và dân binh xây dựng Đại đồn Chí Hòa,
vừa đồ sộ vừa vững chắc, nhưng vì không chủ động tấn công nên gần 1.000 quân
Pháp vẫn yên ổn ngay bên cạnh phòng tuyến của quân ta với một lực lượng từ
10.000 đến 12.000 người.
- Không bị động đối phó như quân đội triều đình, hàng nghìn nghĩa đúng do
Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn Chợ Rẫy, vị trí quan trọng nhất
trên phòng tuyến của địch(7-1860).
- Pháp bị sa lầy ở cả hai nơi (Đà Nẵng và Gia Định), rơi vào tình thế tiến
thoái lưỡng nan. Lúc này trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa, tư tưởng
chủ hòa lan ra làm lòng người li tán.
1.3. Kháng chiến lan rộng ra các tỉnh miền Đông Nam Kì. Hiệp ước 5 - 6
-1862:
- Ngày 23-2-1861, quân Pháp mở cuộc tấn công vào Đại đồn Chí Hòa. Quân
ta kháng cự quyết liệt, cuối cùng trước hỏa lực mạnh của địch, Đại đồn Chí Hòa đã
rơi vào tay giặc. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Định Tường(12-4-1861), Biên
Hòa(18-12-1861), Vĩnh Long(23-3-1862).
- Khi giặc Pháp từ Gia Định đánh lan ra, cuộc kháng chiến của nhân dân ta
càng phát triển mạnh hơn. Các toán nghĩa quân của Trương Định, Trần Thiện
Chính, Lê Huy.....chiến đấu rất anh dũng, lập nhiều chiến công. Ngày 10-12-1861,
đội quân của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm tàu chiến Ét-pê-răng (Hi vọng) của
địch trên sông Vàm Cỏ Đông ( đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo), làm nức lòng quân
dân ta.


- Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân đang ngày càng dâng cao,

khiến quân giặc vô cùng bối rối thì triều đình Huế kí với Pháp Hiệp ước Nhâm
Tuất (5-6-1862).
- Thực hiện những điều đã cam kết với Pháp trong Hiệp ước 1862, triều đình
Huế ra lệnh giải tán nghĩa binh chống Pháp ở các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên
Hòa.
- Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ba tỉnh miền Đông vẫn
tiếp diễn. Các sĩ phu yêu nước vẫn bám đất, bám dân, cổ vũ nghĩa binh đánh Pháp
và chống phong kiến đầu hàng. Phong trào “ tị địa” diễn ra sôi nổi, khiến cho Pháp
gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức, quản lý những vùng đất chúng mới
chiếm được. Các đội nghĩa quân vẫn không chịu hạ vũ khí mà hoạt động ngày càng
mạnh mẽ. Cuộc khởi nghĩa Trương Định tiếp tục giành được chiến thắng, gây cho
Pháp nhiều khó khăn.
* Khởi nghĩa Trương Định
- Trương Định là con trai của Lãnh binh Trương Cầm, quê ở Quảng Ngãi.
Ông theo cha vào Nam từ hồi nhỏ. Năm 1850 , Công cùng Nguyễn Tri Phương mộ
phu đồn điền, khai khẩn nhiều đất đai, được triều đình phong chức Phó Quản cơ.
Năm 1859, khi Pháp đánh Gia Định, Trương Định đã đưa đội quân đồn điền của
ông về sát cánh cùng quân triều đình chiến đấu. Tháng 3 – 1860, khi Nguyễn Tri
Phương được điều vào Gia Định, ông lại chủ động đem quân phối hợp đánh địch.
Tháng 2 – 1861, chiến tuyến Chí Hòa bị vỡ, ông đưa quân về hoạt động ở Tân Hòa
(Gò Công), quyết tâm chiến đấu lâu dài.
- Sau Hiệp ước 1862, triều đình hạ lệnh cho Trương Định phải bãi binh, mặt
khác điều ông đi nhận chức Lãnh Binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Nhưng được sự
ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại kháng chiến.
Phất lá cờ “Bình Tây Đại nguyên soái ”, hoạt động của nghĩa quân đã củng cố
niềm tin của dân chúng, khiến bọn cướp nước và bán nước phải run sợ.
- Nghĩa quân tranh thủ thời gian ra sức xây dựng công sự, rèn đúc vũ khí,
liên kết lực lượng, đẩy mạnh đánh địch ở nhiều nơi.



- Biết được căn cứ trung tâm của phong trào là Tân Hòa, ngày 28 - 2 – 1863
giặc Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào căn cứ này. Nghĩa quân anh dũng chiến
đấu suốt 3 ngày đêm, sau đó rút lui để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ mới ở
Tân Phước. Ngày 20 – 8 -1864, nhờ có tay sai dẫn đường, thực dân Pháp đã tìm ra
nơi ở Trương Định. Chúng mở cuộc tập kích bất ngờ vào căn cứ Tân Phước. Nghĩa
quân chống trả quyết liệt. Trương Định trúng đạn và bị thương nặng. Ông đã rút
gươm tự sát để bảo toàn khí tiết. Năm đó ông 44 tuổi.
1.4. So sánh thái độ của triều đình nhà Nguyễn với phong trào chống
pháp của nhân dân ta:
- Triều đình tổ chức kháng chiến chống Pháp ngay từ đầu song đường lối
kháng chiến nặng nề về phòng thủ, thiếu chủ động tấn công, ảo tưởng đối với thực
dân Pháp, bạc nhược trước những đòi hỏi của thực dân Pháp.
- Nhân dân chủ động đứng lên kháng chiến với tinh thần cương quyết dũng
cảm. Khi triều đình đầu hàng, nhân dân tiếp tục kháng chiến mạnh hơn trước, bằng
nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo.
-> Nhận xét :
- Trong điều kiện khó khăn hơn nhiều so với thời kỳ thực dân Pháp, song
phong trào kháng chiến của nhân dân vẫn diễn ra sôi nổi, bền bỉ. Tuy nhiên, do
tương quan lực lượng ngày một chênh lệch không có lợi cho ta, vũ khí thì thô sơ,
cuối cùng phong phào đều bị đàn áp và thất bại.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì nói riêng, của nhân dân cả nước
nói chung, là những biểu hiện cụ thể, sinh động lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất
khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta.
2. Giai đoạn 2 (1867-1882):

2.1.Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kì:


- Sau khi chiếm 3 tỉnh Đông Nam Kì, Pháp bắt tay ngay vào tổ chức bộ máy
cai trị và chuẩn bị mở rộng phạm vi chiếm đóng.


- Pháp vu cáo triều đình Huế vi phạm các điều đã cam kết trong Hiệp ước
1862, yêu cầu triều đình giao nốt cho chúng quyền kiểm soát cả ba tỉnh miền Tây
Nam. Trước yêu cầu này, triều đình vô cùng lung túng.

- Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, ngày 20-6- 1867, Pháp ép Phan
Thanh Giản nộp thành Vĩnh Long không điều kiện. Chúng còn khuyên ông viết thư
cho quan quân hai tỉnh An Giang và Hà Tiên hạ vũ khí nộp thành.

- Trong vòng 5 ngày (từ 20 đến 24-6-1867), Pháp chiếm Vĩnh Long, An
Giang và Hà Tiên không tốn một viên đạn.
2.2.Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873):
- Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất
Sau khi Pháp đánh chiếm 6 tỉnh Nam Kì, tư tưởng chủ hòa trong triều đình
thắng thế.

+ Chính trị: triều Nguyễn tiếp tục chính sách “bế quan tỏa cảng”.

+ Kinh tế: ngày càng kiệt quệ.
+ Xã hội: nhân dân bất bình, nổi dậy chống triều đình.


+ Nhiều sĩ phu muốn canh tân đất nước nhưng đa phần các đề nghị cài cách
không được thực hiện.
- Sau khi chiếm Nam Kì, Pháp thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây thành
bàn đạp xâm chiếm Bắc Kì.

- Viện cớ giúp triều đình nhà Nguyễn giải quyết vụ lái buôn Đuy-puy đang
gây rối ở Hà Nội, Pháp đem quân xâm chiếm Bắc Kì.


- Tháng 11/1873, Gác-ni-ê đem quân tới Hà Nội. Ngày 19/11/1873, Gác-niê gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương – Tổng đốc thành Hà Nội, yêu cầu giải
tán quân đội, nộp vũ khí và cho Pháp đóng quân trong nội thành. Không đợi trả lời,
ngày 20/11/1873, Pháp chiếm thành; sau đó mở rộng đánh chiếm Hưng Yên, Phủ
Lí, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định.
2.3.Hiệp ước Giáp Tuất 1874:
- Sau khi ký Hoà ước Nhâm Tuất 1862, Pháp chiếm đóng và cai trị 3 tỉnh
miền Đông Nam Kỳ và quyết định xâm chiếm và lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại
của Nam Kỳ, đến năm 1867 họ đã lấy nốt thành công 3 tỉnh còn lại sau khi Kinh
lược sứ Phan Thanh Giản biết không chống đỡ nổi đã quyết định giao các thành
cho Pháp. Sau khi củng cố Nam Kỳ, nhân sự rối ren ở Bắc Kỳ, Pháp đã quyết định
từng bước tiến ra với mục đích chiếm lấy Bắc Kỳ. Để mục đích được thuận lợi,
Pháp ra những yêu sách rất ngang ngược với triều đình Huế về các quyền lợi ở Bắc
Kỳ rồi đưa quân ra và chiếm lần lượt các thành Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải
Dương. Tình hình diễn ra ở Bắc Kỳ cũng như sự chiếm đóng các tỉnh Tây Nam Kỳ
dẫn tới vi phạm vào bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862 mà hai bên đã ký, và dẫn tới
việc Pháp thay thế hiệp ước mới bằng bản Hoà ước Giáp Tuất 1874 có lợi hơn cho
Pháp.


- Đây là bản hiệp định thứ hai giữa triều Nguyễn và Pháp, được ký vào ngày
15 tháng 3 năm 1874 với đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn - Chính sứ toàn
quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phó sứ toàn quyền đại thần và đại diện của
Pháp là Dupré - Toàn quyền đại thần, Thống đốc Nam Kỳ.Hoà ước gồm có 22 điều
khoản với nội dung chính là thay thế bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862, công nhận chủ
quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ, lệ thuộc về chủ quyền ngoại giao, mở cửa
cho Pháp tự do buôn bán tại các cảng biển và trên sông Hồng cùng tự do truyền
đạo.
- Nội dung chính của hiệp ước Giáp Tuất 1874 là:

+ Triều đình Huế thừa nhận chủ quyền của Pháp trên phần đất Việt Nam kể

từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam (điều 5).
+ Nước Pháp thừa nhận chủ quyền của vua nước Nam trên phần đất Việt
Nam kể từ địa giới phía Nam tỉnh Bình Thuận ra Bắc; thừa nhận nền độc lập hoaøn
toàn của nước Nam, nghĩa là nước Nam không còn lệ thuộc vào bất cứ cường quốc
nào (điều 2).
+ Vua nước Nam phải thi hành chính sách đối ngoại của mình cho phù với
chính sách đối ngoại của nước Pháp; về mặc chính trị, không được thay đổi những
mối quan hệ ngoại giao hiện nay với Pháp; không được tự ý ký hiệp ước thương
mại với bất cứ một nước nào khác mà không báo cho chính phủ Pháp biết (điều 3).

2.4. Xóa bỏ Hiệp ước đã ký ngày 5-6-1862:

Hiệp ước này cho thấy, triều đình Huế thực sự thừa nhận sự cai trị của Pháp
ở xứ Nam Kỳ. Hiệp ước Giáp Tuất đã gây nên sự phản ứng dữ dội trong dân chúng
cũng như các quan chức yêu nước. Từ đây, phong trào nhân dân đã có thực tiễn để


đi tới một nhận thức mới mẻ là: Chống Pháp phải đi đôi với việc chống triều đình
đầu hàng.

3. Giai đoạn 3 (1882- 1883):
3.1. Quân Pháp đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh Bắc kì lần 2:
- Từ thâp kỉ 70 của TK XIX, nước Pháp đã bước vào giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc, nhu cầu thị trường, nhân công, nguyên liệu trở nên cấp thiết=> Pháp ráo riết
xúc tiến âm mưu xâm lược toàn bộ Việt Nam.
- Duyên cớ: để can thiệp bằng lực lượng vĩ trang, 1882, viện cớ triều đình
Huế k thi hành đúng các điều khoản Hiệp ước 1874 như: ngăn cản người P đi lại,
buôn bán trên sông Hồng, cấm & giết những người theo đạo Thiên chúa và triều
đình H vẫn còn giap thiệp với nhà Thanh.
+ 3/1882, thống đốc Nam kì phái đại tá Ri-vi-e mang 400 quân cùng 2 pháp

thuyền ra Bắc Kì. Đầu 4/1882, vừa đặt chân lên Hà Nội, Rivie đã giở trò khiêu
khích quân ta.
+3/4/1882, quân Pháp do Rivie chỉ huy bất ngờ đổ bộ lên Hà Nội, sau đó đòi
tổng đốc Hoàng Diệu giao thành.
+ 25/4/1882, sau khi được tăng viên binh, Rivie gửi tối hậu thư cho tổng đốc
HD, yêu cầu triều đình hạ vũ khí, giao thành trong 3 tiếng đồng hồ. Chưa hết thời
hạn, địch đã nổ súng vào thành HN. Trưa 25/4/1882, Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu
tự vẫn.
- Khi vào thành quân Pháp cướp nhiều vàng bạc châu báu, phá hủy các cổng
thành, các khẩu đại bác, vứt thuốc đạn xuống hồ nước, lấy hành cung làm đại bản
doanh, cho củng cố khu nhượng địa ở bãi sông Hồng, chiếm sở thương chính, dựng
lên chính quyền tay sai để tạm thời cai quản HN.
- Nhân lúc triều đình Huế còn đang hoang mang, lơ là mất cảnh giác, Rivie
đã cho quân chiếm mỏ than Hòn Gai, Quảng Yên, Nam Định.


- Lần này sau khi chiếm được thành Hà Nội, Pháp đã chiếm mỏ than Quảng
Ninh vì nhu cầu nguyên liệu cấp thiết của nước Pháp lúc bấy giờ.
3.2. Nhân dân BK kháng chiến chống Pháp:
* Sự đối phó của quân triều đình:
- Khi thực dân P đánh BK lần 2, quân Pháp đã vấp phải tinh thần quyết chiến
của quân dân Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu đã chỉ huy binh sĩ chiến đấu chống
Pháp ở thành Hà Nội. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt thì kho thuốc đạn trong thành
bốc cháy làm cho quan quân Hoàn Diệu giao động. Thừa cơ đó, quân Pháp đột
chiếm thành, đại quân tan rã. Hoàng Diệu chạy vào hành cung thảo di biểu gửi
triểu đình, rồi dùng khăn lụa tuẫn tiết trong vườn Võ Miếu nêu cao tinh thần yêu
nước 1 lòng sống chết với thành.
* Sự đối phó của nhân dân:
- Trong khi quân đội triều đình nhanh chống tan rã, thì phong trào đấu tranh
của nhân dân vẫn tiếp tục. Ngay từ đầu đến HN, đội quân Rivie đã vấp phải sự

kháng cự của nhân dân HN. Họ tự tay đốt các dãy phố tạo thành hàng rào lửa cản
giặc, khi mất thành nhân dân tiếp tục kháng chiến.
- Trong cuộc kháng chiến lần 2, nhân dân ta đã giành thắng lợi lớn ở trận
Cầu Giấy (5/1883): đội quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Rivie chết tại trận.
+ Chiến thắng làm cho nd cả nước phấn khởi. Giặc P ở HN hoang mang lo
sợ. 1 tên lính Pháp đã ghi lại như sau: “Thực là 1 cuộc sống kinh khủng đối với 1
nhúm người chờ đợi từng đêm kết liễu cuộc đời”
+ Chiến thắng Cầu Giấy đã tỏ rõ quyết tâm và tinh thần sẵn sàng chiến đấu
tiêu diệt giặc để giải phóng Hà Nội và Bắc kì của nhân dân ta. Tuy nhiên triều đình
lại ảo tưởng có thể thu hồi HN bằng con đường thương thuyết hòa bình. Vì vậy đã
không cho quân tiếp tục tấn công. Còn Pháp đã hạ quyết tâm thôn tính toàn cõi
Việt Nam. Chúng gửi viện binh sang, vạch kế hoach đánh kinh đô Huế.


+ Sau thất bại ở trận Cầu Giấy, Pháp vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược toàn
cõi nước ta, mà họ ngày càng tiếp tục chuẩn bị việc mở rộng chiến tranh xâm lược,
hòng chiếm bằng được Việt Nam làm thuộc địa.
+ Nhân cái chết của Rivie, Pháp kêu gọi phải trả thù. 1 kế hoạch chuẩn bị về
tài chánh và quân sự nhanh chóng được Quốc hội Pháp thông qua 15/5/1883.
- Trong khi vua Tự Đức qua đời 17/7/1883, nội bộ nhà Nguyễn lúng túng
trong việc chọn người kế vị. Lợi dụng điều này Pháp đã đánh vào cửa biển Thuận
An, vị trí chiến lược của kinh đô Huế. Được tin này, triều đình Huế bối rối và xin
đình chiến.=> Thực dân Pháp muốn đánh thẳng vào Huế để buộc triều đình Huế
nhanh chóng đầu hàng.
- Trước hành động tấn công cửa biển Thuận An của P, triều đình lại mắt 1 sai
lầm nữa, đó là 25/8/1883 ký với Pháp 1 bản hiệp ước do Pháp soạn sẵn.
- Hiệp ước Hác-măng gồm 27 điều khoản:
- Chính trị: Việt Nam đặt dưới sự “ bảo hộ của Pháp”
+ Nam kì là xứ thuộc địa từ 1874, nay được mở rộng tới Bình Thuận.
+ Bắc Kì là đất bảo hộ.

+ Trung kì giao cho triều đình “quản lí”.
- Ngoại giao: Mọi việc giao thiệp của VN với nước ngoài đều do Pháp quản
lí.
- Kinh tế: Pháp nắm và kiểm soát toàn bộ nguồn lời trong nước.
-Quân sự: Triều đình phải nhận các huấn luyện viên và sỹ quan của Pháp,
phải triệt hồi binh lính từ Bắc kì về kinh đô Huế. Pháp được đóng dồn binh ở
những nơi thấy cần thiết ở Bắc kì, được toàn quyền xử lí quân Cờ đen.
=> Đây là 1 bản hiệp ước với những điều khoản quá nặng đối với nước ta.
Hiệp ước Hác- măng đã đặt dấu chấm hết cho chủ quyền dân tộc, nhà Nguyễn đã
lúng sâu hơn vào con đường đầu hàng.


* Nguyên nhân thất bại: Sở dĩ Pháp có thể dễ dàng chiếm được Bắc Kỳ là
bởi Nhà Nguyễn cầu cứu quân Thanh, những quân Thanh lại bắt tay với Pháp cùng
vơ vét nước ta. Trong khi những giao tranh giữa quân triều đình với Pháp diễn ra
yếu ớt thì các cuộc khởi nghĩa của quân dân lại diễn ra mạnh mẽ nhưng thiếu
đường lối nên không đem đến những thắng lợi nhất định. Thêm vào đó, sự bạc
nhược của triều đình khi liên tục ký những hiệp ước khiến cho tình hình chính trị
ngày càng rối ren, phực tạp, đời sống nhân dân cực khổ, thổ phỉ hoành hành.
4. Giai đoạn 4: 1883-1884:
4.1. Hệ quả cuả Hiệp ước Hác-măng (25/8/1883):
- Nội bộ triều đình lục đục, các vị vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm
NGhi liên tục lên ngôi nhưng chỉ cai trị trong một thời gian rất ngắn.
- Quần chúng nhân dân phẫn nộ trước sự bạc nhược, yếu hèn của nhà
Nguyễn, các phong trào đấu tranh nổi dậy ngày càng mạnh mẽ.
- Tiềm lực kinh tế, quân sự của Pháp càng lớn mạnh => Đánh đuổi và
thảo hiệp với quân Thanh => Quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ => Bắt nhà
Nguyễn kí tiếp hiệp ước Pa-tơ-nốt 1884.
4.2.Hiệp ước Pa-tơ-nốt (6/6/1884):
- Nội dung cơ bản:

Hiệp ước Pa-tơ-nốt được kí kết vào ngày 6/6/1884 tại kinh đô Huế, đại
diện hai bên là Jules Patenôtre (Pháp) và Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Phán
(An Nam).
Nội dung cơ bản: giống hiệp ước Hác-măng, chỉ chỉnh sửa lại ranh giới
khu vực Trung kỳ nhằm lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn và xoa dịu dư
luận. Nội dung gồm 19 điều khoản với những điểm chính sau:
+ An Nam chấp nhận sự bảo hộ của Pháp (kể cả người An Nam ở
nước ngoài), ngoại giao và thuế quan do Pháp năm giữ.
+ Trung Kỳ do quan chức An Nam cai trị nhưng hải quan, công
chánh phải thông qua Pháp.


+ Viên công sứ toàn quyền sẽ ở trong nội thành Huế với một đội
quân chủ trì quan hệ chủ trì quan hệ ngoại giao, điều hành công việc bộ
máy bảo hộ.
+ Người nước ngoài tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ thuộc bất kì quốc tịch
nào đều đặt dưới quyền tài phán của Pháp.
- Hệ quả:
+ Về cơ bản, nước ta vẫn bị thực dân Pháp đô hộ, triều đình Huế
vẫn đầu hàng, làm tay sai cho giặc
+ Quần chúng nhân dân vô cùng phẫn nộ và các phong trào đấu
tranh tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
+ Pháp đã từng bước biến An Nam thành thuộc địa của mình.
Như vậy, về cơ bản Hiệp ước Hác-măng và Pa-tơ-nốt không đặt toàn
bộ lãnh thổ Việt Nam dưới ách đô hộ của người Pháp mà được chia làm ba xứ:
Bắc Kỳ dưới sự bảo hộ của Pháp, Trung Kỳ thuộc chủ quyền nhà Nguyễn
nhưng bị người Pháp chiếm giữ, Nam kỳ là thuộc địa của Pháp.
Việc triều đình nhà Nguyễn kí kết với Pháp hai hiệp ước này đã chấm
dứt triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập, thay
vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đưa dân tộc Việt Nam vào một kiếp

nạn mới là ách đô hộ của thực dân Pháp.
4.3 .Chính sách cai trị của thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX:
- Thực dân Pháp đặt ách thống trị, thiết lập chế độ chính trị cùng phản động,
vơ vét, xuất khẩ tư bản, bóc lột sức lao động và thị trường tiêu thụ.
- Chính sách thực dân phản động và bảo thủ => Biến nước ta thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa ế thừa và cung cấp nguyên vật liệu chúng.
 Pháp độc quyền Kinh tế : nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp.
+ Nông nghiệp: Khai đất hoang, cướp đất, lập đồn điền.
+ Thương nghiệp: Pháp cần thì phải xuất sang Pháp, Pháp ế thì Việt Nam
phải mua.


+ Công nghiệp: Khai thác than đá và dầu mỏ => chuyển về Pháp.
+ GTVT: Xây dựng hiện đại phục vụ kinh tế và quân sự.
+ Tài chính: Thuế mới nặng là thuế rượu và thuốc phiện.
 Đặt thuế vô lí (thuế nhân, thuế chợ, thuế đò).
 Duy trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu, hạn chế phương thức
TBCN => bóc lột tối đa + kìm hãm nền kinh tế.
- Hậu quả:
+ Tài nguyên cạn kiệt
+ Kinh tế kém phát triển
+ Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực
- Chính trị:
+ Tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề.
+ Thâu tóm quyền hành, bóp nghẹt tự do, thẳng tay đàn áp các cuộc khởi
nghĩa.
+ Chính sách chia để trị thâm độc: chia ba kì với chế độ cai trị riêng
nhằm xóa tên nước ta trên bản đồ.
- Giáo dục:

+ Giáo dục phong kiến => tạo ra lớp người chỉ biết phục tùng , ngu
dốt, dùng người Việt trị người Việt.
- Văn hóa:
 Tiến bộ và lạc hậu:
+ Hướng hiện đại hóa: Âu hoá, Pháp hóa => kĩ thuật, khoa học
phương Tây vào Việt Nam, nghệ thuật thay đổi phong cách.
+ Nền văn hóa cổ truyền bị đẩy lùi.
 Tiến bộ và nô dịch tổn tại, đấu tranh lẫn nhau.


4.4.Phong trào đấu tranh của nhân dân An Nam chống Pháp xâm lược
lần I gia đoạn 1883-1930:
Ngay từ khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ra năm 1958 và dưới
ách thông trị tàn bạo của chúng, nhân dân ta không cam chịu nô lệ mà liên tiếp
vùng dậy đấu tranh để giải phóng dân tộc. Tiếp nối phong trào đấu tranh, đằng
sau các cuộc khới nghĩa nổi bật ở các giai đoạn trước như khởi nghĩa Trương
Đinh (1859-1864), Khởi nghĩa Nguyễn Trung trưc (1861-1868),…thì trong giai
đoạn 1883-1930 cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra, nổi bật nhất là hai
phong trào: Cần Vương và Đông Du.
4.4.1 Phong trào Cần Vương:
Phong trào Cần Vương: tập hợp hết tất cả các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên
khắp cả nước từ 1885 đến 1896 với sự hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm
Nghi.
- Nội dung phong trào:
+ Tố cáo tội ác thực dân Pháp, sự phản bội của một số quan lại.
+ Khẳng định quyết tâm kháng chiến của triều đình, đứng đầu là vua Hàm
nghi.
+ Kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước cùng tham gia chiến đấu.
 Một phong trào sôi nổi chống thực dân pháp và thể hiện tình yêu quê
hương đất nước suốt 12 năm.

- Diễn biến phong trào
*Giai đoạn 1 (1885-1888): Phong trào bùng nổ khắp cả nước :
+ Địa bàn : Bắc và Trung Bộ
+ Tướng lĩnh: Phan Đình Phùng, Trần Xuân Xoan, Phạm Bành, Mai Xuân
Thưởng,…
+ Vua Hàm Nghi: rút lui về căn cứ Quảng Bình, về sau Ấu Sơn (Hà Tĩnh).
+ 6/1886, triều đình Đông Khánh kêu hàng nhưng không ai trong triều đình
Hàm Nghi chịu hàng nhưng các cuộc khởi nghĩa còn lẻ tẻ.


+ Bắc kì: KN Đốc Tít ở Đông Triều, KN Nguyễn Quan Bích, KN Nguyễn
Thiện Thuật ở Hưng Yên,….
+ Trung Kì: KN Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân ở Quảng Bình, KN Trần
Quang Dự, Nguyễn Duy Hiệu và Nguyễn Hàm ở Quảng Nam, KN Mai
Xuân Thưởng ở Bình Định,..
+ Cuối 1888, Trương Quang Ngọc phản bội, Hàm Nghi bị bắt và đi đày ở
Angieri, giai đoạn 1 kết thúc.
* Giai đoạn 2 (1888-1896): Phong trào quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn:
+ Địa bàn : trung du và miền núi.
+ Các cuộc khởi nghĩa: Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng,
Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật, Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân,…hoạt
động lẻ tẻ, tính địa phương thiếu lãnh đạo và liên kết=> không chống lại các
cuộc càng quét của Pháp.
+ Nổi bật nhất là hai cuộc khởi nghĩa:
 Khởi nghĩa Hương Khê(1885-1896)
- Lãnh đạo: Phan Đình Phùng, Cao Thắng
- Căn cứ: Ngàn Trươi (Hương Khê – Hà Tĩnh)
- Địa bàn hoạt động: Nghệ An, Thanh hóa, Hà Tĩnh và Quảng Bỉnh
- Hai giai đoạn:
+ Giai đoạn I (1885-1888): Nghĩa quân tập trung chuẩn bị và xây dựng

lực lượng

+ Giai đoạn II (1889-1896): Nghĩa quân chiến đấu ác liệt và hết mình.
 Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892)


- Lãnh đạo: Nguyễn Thiện Thuận
- Giai đoạn 1883-1887: xây dựng căn cứ Bãi Sậy, từ đây tỏa ra khống
chế các tuyến giao thông Hà Nội – Hải Phòng, Hà Nội – Nam Định, Hà Nội – Bắc
Giang,…
- Giai đoạn từ 1888: bước vào chiến đấu ác liệt, di chuyển linh hoạt, đánh
thẳng vào một số trận lớn ở đồng bằng.
-1892, cuộc khởi nghĩa kết thúc thất bại
- Năm 1896, phong trào Cần Vương dập tắt.
 Nguyên nhân thất bại:
 Tính địa phương trong lãnh đạo.
 Thiếu sự quy tụ đường lối lãnh đạo.
 Gốc rễ chưa xuất phát từ lòng tin nhân dân.
 Mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc.
 Vũ khí thô sơ, lực lượng chênh lệch.
 Tinh thần chiến đấu chưa quyết liệt.
4.4.2.Phong trào Đông Du (1905-1908):
Người khởi sướng: Phan Bội châu
Con đường cứu nước:
- Lập ra Duy Tân Hội nhằm thúc đẩy phong trào yêu nước trong nước.
- Dựa vào Nhật Bản để kháng chiến chống Pháp=> lập ra phong trào Đông
Du, năm 1905 phong trào mở đầu với một số sĩ phu yêu nước sang Nhật học
tập
- Năm 1906, phong trào rầm rộ cả ba miền, đến 1907-1908 phong trào phát
triển mạnh với 200 lưu học sinh.



- Pháp tìm ra manh mối phong trào + câu kết với Nhật => Tháng 9/1908, du
học sinh bị đuổi ra khỏi nước Nhật. Tháng 2/1909, Phan Bội Châu bị trục
xuất khỏi nước Nhật và phải sang Trung Quốc, Xiêm hoạt động một thời
gian.
- Đầu năm 1909, phongg trào Đông Du tan rã.
4.4.3.Tư tưởng Canh tân đất nước của Phan Châu Trinh:

 Phong trào Duy Tân:
- Nội dung: Cải cách nền giáo dục, thương mại, quân sự, nhằm nâng cao
trình độ dân trí và khả năng giác ngộ của nhân dân..theo hương Tây Phương
(Con đường tư sản chủ nghĩa)
- Phương châm : ‘Khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh”.
- Đông Kinh Nghĩa Thục (3/1907 -11/1907): nâng cao dân trí, mở mang dân
trí, đọa tạo nhân tài cho quốc gia và góp phần xóa bỏ nền giáo dục khoa cử
lạc hậu, xây dựng một nền giáo dục mới tiến bộ, đưa lại sự tiến hóa cho dân
tộc, phổ biến chữ Quốc ngữ trong mọi tầng lớp nhân dân, thay cho chữ Hán,
chữ Nôm.
III. Nguyên nhân thất bại:
- Các phong trào yêu nước và các tổ chức của Đảng có những hạn ché về
giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp
được rộng rãi các lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp đuợc 2 lực lượng
cơ bản 9 công nhân và nông dân) cụ thể là:
- Cuộc đấu tranh của ta nằm trong tình thế bị động, nên Pháp đã dạp tắt nhanh
chóng.
- Ta gặp phải sai lầm trong quá trình đấu tranh yêu cầu người Pháp thực hiện cải
cách , trao trả độc lập cho Việt Nam và cầu viện nc ngoài- Nhật Bản.
- Những cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các pt mang tính tự phác, trong nội
bộ chia rẽ.

+ Lực lượng ta và địch không cân xứng, ta đấu tranh khi địch vẫn còn mạnh,
địch có trang bị vũ khí hiện đại hơn ta.


- Ta chưa tập hợp đc sức mạnh quần chúng nhân dân, chưa thấy đc khả năng
lãnh đạo của giai cấp công nhân và chưa đoàn kết đc họ.
- Chưa có chính Đảng lãnh đạo.
IV. Ý nghĩa:
Mặc dù các phong trào yêu nước đều thất bại nhưng nó vẫn cho thấy
được 2 ý nghĩa lớn:
- Tiếp nối được truyền thống yêu nước dân tộc.
- Thể hiện tinh thần đấu tranh chống xâm lược và giành độc lập dân tộc.



×