Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CĂN CỨ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ CĂN CỨ KHÔNG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.56 KB, 32 trang )

BÀI TẬP NHÓM 5
MÔN TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Chủ đề : CĂN CỨ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ CĂN CỨ KHÔNG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Nhóm 5:
1. Trần Hồng Tình

7. Bùi Thi Phương

2. Đặng Thúy Đạt

8. Nguyễn Thị Thanh Phương

3. Nguyễn Thị Thùy Dung

9. Vi Thị Giang

4. Trần Thị Giang

10. Đặng Thảo Linh

5. Bùi Thị Huyền Mỹ

11. Hoàng Bích Phượng

6. Bùi Thị Nga

1



I.Mục lục:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ và cở sở quyết định khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự
Thủ tục khởi tố vụ án hình sự
Quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ
án hình sự
Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

2


II. Nội dung
1.

Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
“Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu
hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi

tố vụ án.”
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng và là
giai đoạn tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng
mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố
tụng. Chủ thể có quyền khởi tố vụ án hình sự là những cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của BLTTHS . Nhiệm vụ của giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội
phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình
sự – những văn bản tố tụng đặc trưng của giai đoạn này. Tuy nhiên,
tính độc lập của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn
khác trong quá trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng
có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền
đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai
đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Quyết định khởi tố vụ án là cơ
sở pháp lý đầu tiên để thực hiện các hoạt động điều tra. Khi chưa
có quyết định khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt
động điều tra cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Quyết
định khởi tố vụ án làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa cơ
quan có thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố
tụng.

2.

Căn cứ và cơ sở quyết định khởi tố vụ án hình sự
2.1
Căn cứ quyết định khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự là cơ sở để cơ quan nhà nước có
thẩm quyền dựa vào đó mà ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Do
đặc tính pháp lý của Quyết định khởi tố vụ án hình sự liên quan

3


đến quyền tiến hành các hoạt động điều tra và ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nên cần thiết phải quy
định hết sức chăt chẽ.
Theo điều 100 BLTTHS quy định thì “chỉ được khởi tố vụ án
hình sự khi đã xác định được dấu hiệu tội phạm”. Tội phạm là hiện
tượng xã hội với bốn đặc điểm: (1) Tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi; (2) Tính có lỗi; (3) Tính trái pháp luật hình sự; (4) Tính
phải chịu hình phạt. Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
phải xác định được vụ việc xảy ra thỏa mãn các dấu hiệu tội phạm
nêu trên mới có thể ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào xác định được có dấu hiệu
tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền cũng ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự mà đối với môt số tội phạm xâm phạm danh dự, nhân
phẩm con người sẽ chỉ bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
theo quy định tại Điều 105 BLTTHS 2003.
2.2

Cơ sở xác định dấu hiệu tội phạm

Căn cứ để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự là sự việc có dấu hiệu tội
phạm và được xác định bằng nguồn thông tin chứa đựng dấu hiệu tội
phạm. Dựa vào những cơ sở, những nguồn thông tin đó, các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành xác minh kiểm tra xem có dấu hiệu tội phạm hay
không. Những nguồn thông tin thu thập được không phải là căn cứ để
khởi tố vụ án hình sự bởi vì những thông tin đó có thể chứa đựng những
thông tin không đúng sự thật hoặc không phẩn ánh chính xác dấu hiệu
tội phạm nên cần phải các minh. Chính vì vậy, để xác định tội phạm phải

dựa vào các cơ sở sau đây:
-

Tố giác của công dân
Tin báo về tội phạm thông qua sự tố giác của công dân là nguồn
thồn tin quan trọng về tội phạm cung cấp cho các cơ quan có thẩm
4


-

-

-

quyền, Người cung cấp thông tin về tội phạm có thể là người bị
hại, người thân thích của họ hoặc người khác biết được sự việc
phạm tội và tố giác với cơ quan có thẩm quyền, Sự tố giác về tội
phạm của công dân cần được cơ quan có thẩm quyền xác minh để
khẳng định sự chính xác của nguồn thông tin làm cơ sở cho việc ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Tin báo của cơ quan tổ chức
Tin báo của cơ quan, tổ chức xã hội về tội phạm xảy ra tại địa bàn
và phạm vi quản lý của mình hoặc tài của những cơ quan thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán chuyển cho CQĐT, VKS phản ánh những
thông tin về tội phạm. Trên cơ sở những nguồn tài liệu này, các cơ
quan có quyền khởi tố sẽ áp dụng các biện pháp do luật TTHS quy
định để xác định sự việ mà các cơ quan, tổ chức cung cấp có hay
không dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hay không khởi
tố vụ án hình sự.

Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng
Những tin này có thể là kết quả của việc điều tra của phóng viên
hoặc phản ánh thư của nhân dân phát hiện tội phạm. Các phương
tiện thông tin đại chúng gày càng phát huy tác dụng, được nhân
dân tín nhiệm thì những tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng gày cang có vai trò quan trọng trong việc phat hiện và đấu
tranh chống tội phạm. Các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm
xác định những thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
có hay không dấu hiệu tôị phạm làm cơ sở cho việc quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
CQĐT, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực
lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra
trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm trong lình vực mà mình
quản lý

5


-

Người phạm tội tự thú
Người phạm tội tự thú, đến khai báo với cơ quan có thẩm quyền về
hành vi phạm tội của mình. Khi tiếp nhận khai báo về tội phạm của
người thực hiện hành vi phạm tội, cơ quan có thẩm quyền phải xác
minh tính xác thực của lời nhận tội đó, chỉ khi khẳng định lời khai
báo của người tự thú có dấu hiệu tội phạm mới có thể ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự.

2.3 Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại

2.3.1Khái lược chung về khởi tố vụ án theo yêu cầu người bị hại
Quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại thể hiện sự quan
tâm của nhà nước tạo điều kiện cho người bị hại được cân nhắc tính toán
xem việc khởi tố vụ án hình sự có gây bất lợi cho họ hay không.
Các trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Trong
BLTTHS 2003 quy định 11 tội chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của
người bị hại như sau :
Điều 104: Tội cố ý gây thương tích hoặc sức khỏe cho người khác
Điều 105 : Tội cô ý gây thương tích hoặc sức khỏe cho người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Điều 106 : Tội cố ý gây thương tích và tổn hại sức khỏe cho người khác
do vượt quá giới hạn về phòng vệ chính đáng.
Điều 108 : Tội vô ý gây thương tích hoặc sức khỏe cho người khác.
Điều 109 : Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho
người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.
Điều 111 : Tội hiếp dâm
Điều 113 : Tội cưỡng dâm.
Điều 121 : Tội làm nhục người khác.
Điều 122 : Tội vu khống.
Điều 131 : Tội xâm phạm quyền tác giả (đã bị bãi bỏ theo Luật sửa đổi,
6


bổ sung một số điều của BLHS năm 2009),
Điều 171 :Tôi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của BLHS.
Thực tiễn cho thấy, có những hành vi thuộc một số loại tội lẽ ra nên trao
cho người bị hại quyền yêu cầu khởi tố nhưng luật lại không quy định.
Cụ thể như: Trong tội xâm phạm đến sức khỏe của người khác trong khi
thi hành công vụ (giống như tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức
khỏe của người khác nhưng chỉ khác chủ thể là người có chức vụ, quyền

hạn và phạm tội trong lúc thi hành công vụ), vì vậy, nên đưa hại tội nay
vào trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại.
Trong các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân có quy định
tội bắt người, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội xâm phạm chỗ ở
của công dân, tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái
pháp luật, các tội này xâm phạm tới quyền cơ bản của con người như
quyền tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền được lao
động. Đối tượng bị xâm hại trực tiếp là các quyền của người bị hại, vì
vậy, nên để cho người bị hại được tự do lựa chọn hình thức xử lý sao cho
có lợi nhất đối với họ thông qua việc yêu cầu hoặc không yêu cầu khởi
tố vụ án. Trong các tội xâm phạm sở hữu có tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép
tài sản, tội hủy họa hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tội vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản, đối tượng bị xâm hại trong các trường hợp này
chỉ thuần túy về mặt tài sản. Những trường hợp này thông thường người
bị hại chỉ cần thu hồi lại tài sản hoặc khắc phục hậu quả là đủ, vì vậy,
nên đưa vào trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại để chuyển
giao quyền định đoạt việc xử lý người phạm tội cho người bị hại. Từ
những phân tích trên, em thấy BLTTHS cần phải nghiên cứu, sửa đổi
phạm vi áp dụng chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại, theo hướng bỏ trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
đối với tội hiếp dâm và quy định thêm một số trường hợp phải khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại như đe dọa giết người; gây thương tích
7


hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công
vụ; bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; xâm phạm chỗ ở của công
dân; buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật;
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản; sử

dụng trái phép tài sản; hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản vô ý gây
thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
2.3.2 Về chủ thể yêu cầu khởi tố.
Tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định một số trường hợp chỉ
được khởi tố khi có “yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của người bị hại có
quyền yêu cầu khởi tố”. Trong thực tế, khi áp dụng quy định này đã nảy
sinh vướng mắc ở một số trường hợp. Vd: Trường hợp A và B đánh
nhau, người bị hại có tỷ lệ thương tật 15% thuộc khoản 1 Điều 104
BLHS, trong quá trình điều tra, người bị hại A (gần đủ 18 tuổi) không
yêu cầu xử lý nhưng cha của A (đại diện hợp pháp của người bị hại) lại
yêu cầu xử lý. Về sự việc này có một số ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ
nhất, A chưa đủ 18 tuổi nhưng hoàn toàn có khả năng thể hiện được ý
chí của mình nên phải chấp nhận theo yêu cầu của người bị hại, chỉ
trong trường hợp người bị hại còn quá nhỏ hoặc bị bệnh không đủ khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi để đưa ra yêu cầu của mình thì lúc
đó người đại diện hợp pháp của người bị hại mới có quyền yêu cầu. Ý
kiến thứ hai, trong mọi trường hợp người bị hại là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì quyền yêu cầu
khởi tố phải thuộc về người đại diện hợp pháp của người bị hại, điều đó
xuất phát từ những nghiên cứu tâm sinh lý của người chưa thành niên và
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, do còn nhỏ tuổi hoặc có
nhược điểm về tinh thần thể chất mà làm hạn chế khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của những người này nên tinh thần của điều luật quy
định đã thể hiện rõ không giao quyền yêu cầu khởi tố cho họ. Theo em,
8


trong sự việc trên, nhận thức như ý kiến thứ hai là không đúng tuy nhiên,

xem xét kỹ ý kiến thức nhất cho thấy không phải là không có những hạt
nhân hợp lý ở đó. Vướng mắc ở đây không hoàn toàn do luật mà chủ yếu
do nhận thức của người đánh giá. Vì vậy, theo chúng tôi, luật nên quy
định cụ thể và rõ ràng hợp, theo hướng nếu người bị hại là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì chỉ người
đại diện hợp pháp của người bị hại mới có quyền yêu cầu.
2.3.3 Về hình thưc thể hiện của yêu cầu ,khởi tố.
BLTTHS 2003 không quy định hình thức yêu cầu khởi tố là gì nhưng
thông thường yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của người bị hại được thể hiện trong đơn hoặc họ trực tiếp trình
bày (sau đó được lập thành biên bản ghi ý kiến hoặc biên bản ghi lời
khai). Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng thì cả 2
trường hợp trên yêu cầu đều được chấp nhận và có giá trị pháp lý như
nhau. Tuy nhiên, hện nay còn có sự nhận thức chưa thống nhất, cho rằng
hình thức yêu cầu khởi tố do người bị hại trực tiếp trình bày có mặt hạn
chế là dễ bị làm sai lệch hoặc bị người bị hại phủ nhận. Trong thực tế
các trường hợp trên không nhiều nhưng không phải không xảy ra. Vì
vậy, nên có quy định về hình thức yêu cầu khởi tố theo hướng người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại phải thể hiện yêu cầu
khởi tố trong đơn yêu cầu, trừ trường hợp không biết chữ hoặc có lý do
chính đáng mà họ không thể viết đơn được thì có thể trực tiếp trình bày
và nội dung yêu cầu đó phải được lập thành biên bản.
2.3.4 Về trường hợp rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa.
Tại khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003 quy định: “Trong trường hợp
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm
thì vụ án phải được đình chỉ”, trừ trường hợp “có căn cứ để xác định
người đã yêu cầu khơti tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do
bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng
9



đối với vụ án”. Như vậy, BLTTHS chỉ quy định về trường hợp người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiển tòa sơ thẩm, còn trường
hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu tại phiên tòa thì chưa có quy
định xử lý như thế nào. Do vậy, trong thực tế khi có trường hợp người bị
hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa đã gây ra sự lúng túng cho các cơ
quan tiến hành tố tụng. Xung quanh vấn đề này có các ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, gặp trường hợp này thì Hội đồng xét xử phải
hoãn phiên tòa , sau đó ra quyết định đình chỉ vụ án;
Ý kiến thứ 2 cho rằng, Hội đồng xét xử phải vẫn tiến hành xét xử và
tuyên án bình thường như trường hợp người bị hại không rút đơn yêu
cầu khởi tố;
Ý kiến thứ 3 cho rằng, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục tiến hành xét xử và
kết luận bị cáo phạm tội nhưng cho họ được miễn hình phạt;
Ý kiến thứ 4 cho rằng, hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử và kết luận
bị cáo phạm tội nhưng không áp dụng hình phạt tù đối với họ nếu có đủ
những điều kiện khác (có thể phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ nếu
tội đó có quy định loại hình phạt này, cũng có thể miễn hình phạt hoặc
cho bị cáo hưởng án treo nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ). Theo ý kiên
cá nhân thì nhận thức ý kiến thứ nhất, thứ hai, thứ ba là chưa hợp lý. Ý
kiến thứ nhất, đặt quá nặng yêu cầu của người bị hại (thiên về tư tố) mà
coi nhẹ tính chất của công tố, yêu cầu của người bị hại không phải là
quyết định đối với cơ quan tiến hành tố tụng; hơn nữa, luật chỉ quy định
cho người bị hại quyền rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên tòa; vì
vậy, trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa không thể
dẫn tới việc đình chỉ vụ án. Ý kiến thức hại lại xem nhẹ yêu cầu của
người bị hại, không tính đến yêu cầu của người bị hại, không tính đến
yêu cầu của người bị hai, trong khi đó loại tội phạm này chỉ khởi tố theo
yêu cầu chủa người bị hại. Ý kiến thứ ba. Có điểm chưa hợp lý ở chỗ

điều kiện miễn trách nhiệm hình phạt là trường hợp phạm tội có nhiều
tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS, đáng được khoan
10


hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự; như
vậy, nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố nhưng không có nhiều tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì cũng không thể miễn hình phạt được.
Chỉ có ý kiến thứ tư là phù hợp nhất không đặt năng hoặc xem nhẹ yêu
cầu của ngừi bị hại mà có tính đến yêu cầu, nguyện vọng của họ khi
quyết định hình phạt. Vì vậy, nên có quy định về trường hợp ngươi bị
hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa, theo hướng khi người bị hại rút yêu
cầu khởi tố tại phiên tòa thì hội đồng xét xử vẫn tiếp tục tiến hành xét xử
và kết luận bị cáo phạm tội nhưng có thể miễn hình phạt nếu có tình tiết
giảm nhẹ; phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ nếu tội đó có quy định
loại hình phạt này hoặc cho bị cáo hưởng án treo nếu có đủ điều kiện.
2.3.5 Một số vướng mắc khác trong thực tiễn.
Ngoài 4 nội dung cơ bản nêu trên, trong thực tiễn thường gặp phải một
số vướng mắc khác như: Trường hợp một người gây thương tích cho
nhiều người và đều thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 104
BLHS nhưng chỉ có một số người có yêu cầu khởi tố. Về sự việc này, có
ý kiến cho răng, đưa tất cả những người bị thương tích là người bị hại và
xử lý người gây thương tích về hành vi gây ra cho tất cả những người bị
hại đó. Ý kiến khác cho rằng, chỉ có một người bị hại là người có yêu
cầu khởi tố, những người còn lại không phải là người bị hại và người
gây thương tích không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi gây ra
cho những người này. Từ sự nhận thức còn khác nhau như trên, để nghị
Liên ngành tư pháp Trung ương cần sớm hướng dẫn cụ thể để giúp cho
các địa phương tháo gỡ vướng mắc. Trong các tội xâm phạm sức khỏe,
nhất là đối với tội cố ý gây thương tích, có trường hợp người bị hại bị

chém rách mặt, thủng phổi, hay đứt gân tay… chưa cần giám định cũng
biết thương tích của họ trên 11%, có thể khởi tố và áp dụng ngay biện
pháp ngăn chặn đối với đối tượng gây án nhưng luật lại không đề cập
đến điều đó, mà chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại, trong khi nhiều người bị hại từ chối giám định thương tích, không
11


đề nghị khởi tố, vì họ đã bị đối tượng gây thương tích tác động, hay vì
khoản tiền đền bù hậu hĩnh…nên cơ quan pháp luật không thể xử lý
được, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc đấu tranh, xử lý tội phạm,
nhất là các tội phạm hoạt động có tổ chức với tính chất côn đồ, sử dụng
hung khí nguy hiển.

3.Căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự

Theo Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định không được khởi tố vụ
án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
3.1.Không có sự việc phạm tội:
Là sự việc mà cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và xác định không
thoả mãn các dấu hiệu tội phạm quy định trong BLHS và do đó không
có căn cứ để quyết định khởi tố vụ án hình sự.Trong trường hợp này, với
bất kỳ lý do nào cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cũng
không được ra quyết định khởi tố vụ án.
3.2. Hành vi không cấu thành tội phạm:
- Là hành vi không đủ các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm theo quy
định của Luật hình sự như: có hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng
hành vi đó không được quy định trong BLHS; hoặc do hành vi nguy
hiểm cho xã hội đó không có lỗi; hành vi nguy hiểm do người không có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện( Điều 12 BLHS ); cũng như

hành vi có những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội: sự kiện bất
ngờ (Điều 11 BLHS), phòng vệ chính đáng( Điều 15 BLHS), tình thế
cấp thiết( Điều 16 BLHS),..
3.3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi
chịu trách nhiệm hình sự:
12


Tuổi chịu trách nhiệm phụ thuộc vào các điều kiện khách quan, chủ
quan của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; điều kiện kinh
tế, xã hội, truyền thống pháp luật của mỗi quốc gia được quy định trong
Luật hình sự. Theo quy định của BLHS 1999 thì trách nhiệm hình sự
được áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Trong những trường hợp này cơ quan có thẩm quyền khởi tố không
được khởi tố vụ án để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người
chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự như quy định trên.
3.4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết
định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật:
Quy định này thể hiện nguyên tắc chung của pháp luật: một hành vi vi
phạm không bị xử lý nhiều lần. Do vậy, người mà hành vi phạm tội đã
có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật thì sẽ
không được khởi tố vụ án hình sự.
3.5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự:
Điều 23 BLHS quy định hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì
người phạm tội không còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội họ đã
phạm. Hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là trường hợp người
phạm tội thực hiện tội phạm , nhưng tội phạm đó đã đủ những điều kiện

được quy định trong Điều 23 BLHS về thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự. Trong trường hợp này, không cần thiết phải truy cứu trách
nhiệm hình sự theo tội phạm mà người đó đã phạm, có nghĩa rằng, người
đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và do vậy không được khởi tố
vụ án hình sự để áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ.
3.6. Tội phạm đã được đại xá:
Đại xá là một biện pháp khoan hồng của Nhà nước, có tác dụng tha
tội, thường là hoàn toàn và triệt để cho hàng loạt những người phạm tội
nhất định nào đó thường chỉ được ban hành vào những dịp có sự kiện
đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị đất nước. Việc đại xá do cơ
13


quan quyền lực cao nhất của Nhà nước ( Quốc hội ) quyết định đối với
những tội phạm nhất định. Văn bản đại xá chỉ có hiệu lực đối với những
hành vi phạm tội được nêu trong văn bản và đã xảy ra trước khi ban
hành văn bản đại xá. Đối với những tội phạm được đại xá xảy ra trước
khi ban hành văn bản đại xá thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi
tố vụ án.
3.7. Người thực hiện hành vị nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ
trường hợp cần tái thẩm đối với người khác:
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì không cần
áp dụng hình phạt đối với họ. Trong trường hợp này mục đích của hình
phạt không đạt được. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội đã
chết nhưng để tái thaamrt minh oan cho người khác thì vụ án vẫn được
khởi tố.
4. Thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố
vụ án hình sự
4.1. Thẩm quyền khởi tố của cơ quan điều tra


4.1.1 Thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra trong Công an
nhân dân:
Theo tại Khoản 1 Điều 104 và Khoản 1 Điều 110 thì cần hiểu rằng:
Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân có thẩm quyền khởi tố (ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự) đối với tất cả các tội phạm trừ những
tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội
nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Xuất
phát từ nguyên tắc chung CQĐT cấp nào thì sẽ khởi tố những vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp đó, pháp luật BLTTHS hiện
14


hành đã có sự phân định tương đối rõ ràng thẩm quyền khởi tố vụ án
hình sự của các CQĐT trong công an nhân dân. Theo quy định tại Điều
11 PLTCĐTHS 2004, thẩm quyền của cơ quan cảnh sát điều tra trong
Công an nhân dân như sau:
- Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự về các tội quy định tại các chương từ
Chương XII đến Chương XXII của BLHS, trừ các tội thuộc thẩm quyền
khởi tố của CQĐT thuộc VKSNDTC và cơ quan An ninh điều tra trong
Công an nhân dân.
Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân được tổ chức ở
ba cấp: Bộ công an, cấp tỉnh và cấp huyện.
+ Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an khởi tố vụ án hình sự về
các tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của cơ
quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
(Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt
lớn cho xã hội mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên
mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tội phạm phức tạp là tội
phạm có nhiều tính tiết phải xác minh hoặc do nhân thân vị thế xã hội

của người thực hiện hành vi phạm tội có những điểm khác biệt so với
trường hợp bình thường do vụ án có liên quan đến nhiều nghành, nhiều
cấp địa phương.)
+ Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh khởi tố vụ án hình sự về các
tội khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh,
hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát điều
tra cấp huyện nhưng xét tấy cần trực tiếp điều tra.
15


+ Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện khởi tố vụ án hình sự về
các tội khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp
huyện, trừ các tội thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT thuộc
VKSNDTC và cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân.
Đây là điểm mới trong quy định của BLTTHS 2003 và
PLTCĐTHS 2004 so với quy định trong các văn bản pháp luật trước đây.
Trước đây theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 PLTCĐTHS 1989, thẩm
quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra công an cấp huyện, chỉ
được điều tra, xét xử đối với tội phạm mà BLHS quy định hình phạt từ 7
năm tù trở xuống. Hiện nay, theo quy định tại Điều 170 của BLTTHS
2003, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử đối với những tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng có mức
cao nhất khung hình phạt từ 15 năm tù trở xuống. Do vậy, PLTCĐTHS
2004 quy định CQĐT cấp huyện có thẩm quyền khởi tố, điều tra tương
ứng với thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện.
- Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân có thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc
gia, các tội phạm phá hoại hòa bình, chống loài người, tội phạm chiến
tranh và các tội phạm theo quy định tại các Điều: 180, 181, 221, 222,
223, 230, 231, 232, 236, 263, 264, 274 và 275 của BLHS.


4.1.2 Thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra trong quân đội
nhân dân.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về thẩm quyền khởi
tố của các CQĐT trong Quân đội nhân dân thì thấy rằng có một số điểm
16


khác biệt so với quy định về thẩm quyền khởi tố của CQĐT trong các
nghành khác, đó là đối tượng phạm tội thuộc thẩm quyền khởi tố của
CQĐT trong Quân đội nhân dân gồm:
+ Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân
nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng
sẵn sàng chiến đấu, dẫn quân, tự vệ phối thuộc chiến đấu trong quân đội

+ Những người không thuộc các đối tượng trên mà phạm tội liên
quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự., và cũng là thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều
tra hình sự các cấp tương đương với thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự cùng cấp đó.
Việc phân cấp các CQĐT trong Quân đội nhân dân, theo quy định
tại Điều 15 PLTCĐTHS 2004 thì:
1. Cơ quan điều tra hình sự khu vực điều tra các vụ án hình sự về
các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII
của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của
Toà án quân sự khu vực, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2. Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương điều tra các

vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự quân khu và

17


tương đương hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra hình sự khu vực nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
3. Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng điều tra các vụ án
hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương
nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Cơ quan An ninh điều tra trong Quân đội nhân dân khởi tố những
tội phạm được quy định tại các Chương XI và Chương XXIV của
BLHS. Khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự các cấp, cụ thể:
1. Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương điều tra các
vụ án hình sự về các tội phạm trên khi các tội phạm đó thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà án quân sự quân khu và tương đương.
2. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng điều tra các vụ án hình
sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương nhưng
xét thấy cần trực tiếp điều tra.

4.1.3 Thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra thuộc VKS
Theo quy định của Điều 18 PLTCĐTHS 2004, CQĐT thuộc
VKSNDTC có thẩm quyền khởi tố một số loại tội xâm phạm hoạt động
tư pháp. Hoạt động của các cơ quan tư pháp có ý nghĩa rất lớn trong hoạt
động chung của Bộ máy nhà nước. Những hành vi phạm tội xảy ra
trong hoạt động tư pháp một mặt xâm hại đến úy tín cũng như việc thực

18


hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này, mặt khác xâm phạm tới
khách thể mà luật hình sự bảo vệ.
Không phải tất cả các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp đều
thuộc thẩm quyền khởi tố vụ án của CQĐT của VKSNDTC mà chỉ có
một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người thực hiện
tội phạm là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp mới thuộc thẩm quyền khởi tố
của CQĐT của VKSNDTC.
Tương tự như các CQĐT trong Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân, CQĐT của VKSNDTC cũng có thẩm quyền khởi tố căn cứ vào
thẩm quyền xét xử của Tòa án. Theo đó:
Cơ quan điều tra của VKSNDTC có thẩm quyền khởi tố vụ án về
một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét
xử của TAND.
Cơ quan điều tra của VKS quân sự Trung ương có thẩm quyền
khởi tố những trường hợp thuộc thẩm quyền khởi tố của CQĐT của
VKSNDTC, khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự.
Trước đây, Điều 18 PLTCĐTHS 1989 quy định CQĐT của
VKSND có thẩm quyền khởi tố đối với các chủ thể thực hiện tội phạm
có thể là cán bộ tư pháp hoặc những người khác. Quy định này đã được
sửa đổi, Điều 18 PLTCĐTHS 2004 quy định thẩm quyền khởi tố của
CQĐT thuộc VKSNDTC hẹp hơn, đó là chỉ khởi tố vụ án hình sự về
một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp với điều kiện người
phạm tội là cán bộ trong cơ quan tư pháp mà không phải bất kỳ ai. Quy
19



định như vậy nhằm bảo đảm cho việc khởi tố vụ án hình sự được kịp
thời, chính xác khách quan tạo điều kiện cho VKS có thời gian tập trung
làm tốt chức năng công tố và kiểm sát tư pháp.

4.2. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát.

Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát được quy
định tại Khoản 2 Điều 36, Khoản 1 Điều 104, Khoản 1 Điều 112
BLTTHS 2003, ngoài ra thẩm quyền khởi tố vụ án của VKS còn được
quy định tại Khoản 1 Điều 13 luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002.
Khởi tố là một trong các nhiệm vụ của nghành kiểm sát nhân dân.
Thông qua đó, VKS thực hiện một cách có hiệu quả chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự nhằm đảm bảo cho mọi tội phạm được pháp hiện,
tránh tình trạng oan sai đối với người vô tội.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLTTHS 2003 và Khoản 1
Điều 109, VKS có quyền khởi tố vụ án hình sự trong hai trường hợp:
-

Khi kiểm sát khởi tố vụ án mà có căn cứ để huỷ quyết định
không khởi tố vụ án của CQĐT, Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan,
cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác trong
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Đây là trường hợp mà quyết định không khởi
tố vụ án hình sự của các cơ quan này không đúng với quy định về căn cứ
20



-

không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 107 BLTTHS 2003. Việc quy định
thẩm quyền khởi tố như vậy là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với chức năng
kiểm sát.
Khi hội đồng xét xử yêu cầu VKS khởi tố vụ án. Trong khi xét
xử vụ án, nếu phát hiện ra người phạm tội mới, đồng phạm mới mà nếu
tách riêng ra thành vụ án mới không làm ảnh hưởng tới sự khách quan,
sự thật của vụ án đang giải quyết thì Tòa án có thể yêu cầu VKS khởi tố
vụ án, khi xem xét yêu cầu của Tòa án có căn cứ pháp luật thì VKS sẽ ra
quyết định khởi tố vụ án và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều
tra vụ án.
4. 3. Thẩm quyền khởi tố của Hội đồng xét xử
- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLTTHS 2003 thẩm quyền khởi
tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử mang tính lựa chọn. Hội đồng xét
xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu
qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được người phạm tội mới cần
phải điều tra.
Tội phạm mới là hành vi phạm tội mới được phát hiện và chưa bị
khởi tố vụ án hình sự. Người phạm tội mới là người phạm tội chưa bị
phát hiện hoặc cũng có thể là đồng phạm trong vụ án dã vị khởi tố. Tuy
nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu có căn cứ cho rằng bị cáo có
đồng phạm khác thì thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo Điều 179 BLTTHS 2003.
Tại phiên tòa xét xử nếu xác định bị cáo có đồng phạm thì Hội đồng xét
xử ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.

21



Khi phát hiện tội phạm mới hoặc người phạm tội mới tại phiên toà
thì không phải mọi trường hợp Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ
án. Nếu tội phạm mới hoặc người phạm tội mới có liên quan đến vụ án
đang xét xử, không thể tách ra thành vụ án độc lập thì giải quyết trong
cùng một vụ án để đảm bảo sự thật khách quan toàn diện và đầy đủ thì
Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Như vậy,
những tội phạm mới hoặc người phạm tội mới mà Hội đồng xét xử quyết
định khởi tố phải là những tội, những người không liên quan đến vụ án
đang xét xử hoặc có liên quan nhưng có thể tách ra giải quyết một cách
độc lập.

4. 4.Thẩm quyền khởi tố của đơn vị bộ đội biên phòng, cơ
quan hải quan cơ quan kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và thủ
trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao tiến hành hoạt động điều tra.

“Bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý
của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI và các điều
119, 120, 153, 154, 172, 180, 181, 188, 192, 193, 194, 195, 196, 230,
232, 236, 263, 264, 273, 274 và 275 của Bộ luật hình sự xảy ra trong
khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và trên các vùng biển do
Bộ đội biên phòng quản lý”1 mà “Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong
trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ
ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án”; “Đối với tội phạm nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng
1

22



nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án” và “chuyển hồ sơ vụ án
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày
ra quyết định khởi tố vụ án”.
Cơ quan Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý
của mình mà pháp hiện tội phạm quy định tại Điều 153 và Điều 154
BLHS xảy ra trong khu vực quản lý của Hải quan thì Cục trưởng Cục
điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan, Cục
trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu có quyền:
“Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả
tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi
tố vụ án”
“Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định
khởi tố vụ án” và “chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án”.

Cơ quan Kiểm lâm khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của
mình mà phát hiện hành vi phạm tội quy phạm tại các Điều 175, 189,
190, 191, 240, 272 của BLHS

Các đơn vị thuộc lực lượng Cảnh sát biển khi thực hiện nhiệm vụ
trong lĩnh vực quản lý của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại
Chương XI và các điều 153, 154, 172, 183, 188, 194, 195, 196, 212,
213, 221, 223, 230, 231, 232, 236, 238, 273 và 274 của Bộ luật hình sự
23


xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do lực lượng Cảnh sát biển quản lý.

Ngoài ra, đối với Bộ đội biên phòng và lực lượng Cảnh sát biển,
PLTCĐTHS 2004 được sửa đổi bổ sung năm 2009 còn quy định thẩm
quyền khởi tố theo lãnh thổ. Bộ đội biên phòng khởi tố vụ án hình sự về
những tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của mình xảy ra ở khu vực
biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và trên các vùng biển do Bộ đội
biên phòng quản lý. Lực lượng Cảnh sát biển khởi tố vụ án hình sự về
những tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của mình xảy ra trên các vùng
biển, thềm lục địa của Việt Nam do lực lượng Cảnh sát biển quản lý.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan khác trong
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được PLTCĐTHS 2004 quy
định rõ tai các điều 23, 24, 25 cụ thể :
+ Các cơ quan khác của lực lượng Cảnh sát trong Công an nhân
dân khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội
phạm thuộc thẩm quyền Điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra quy định
tại Điều 11 PLTCĐTHS 2004 thì có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
Theo Điều 3 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự 2004 ban hành năm 2009 thì thẩm quyền này đã
được mở rộng hơn bao gồm các chủ thể có thẩm quyền: Cục Cảnh sát
giao thông đường bộ - đường sắt, Cục Cảnh sát giao thông đường thuỷ,
Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Cục Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội, Cục Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp …
Các cơ quan khác của lực lượng an ninh trong Công an nhân dân
khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu của

24


tội phạm thì Cục trưởng cục an ninh, Trưởng các phòng an ninh của
Công an cấp tỉnh ra quyết định khởi tố vụ án.
Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra như người chỉ huy đơn vị quân đội
độc lập cấp trung đoàn hoặc tương đương trở lên trong khi làm nhiệm vụ
của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội thuộc thẩm quyền
điều tra của CQĐT trong Quân đọi đến mức phải truy cứu trách nhiệm
hình sự thì có quyền khởi tố vụ án hình sự.
Việc quy định của pháp luật như trên một mặt giúp cho việc phát
hiện tội phạm được nhanh chóng, chính xác, không bỏ lọt tội phạm, mặt
khác thể hiện sự phối hợp trong hoạt đọng đấu tranh phòng chống tội
phạm giữa các CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều ra vì mục đích phát hiện kịp thời, chính xác tội phạm,
người phạm tội.
5. Thủ tục khởi tố vụ án hình sự
5.1.Tiếp nhận các nguồn tin về tội phạm:
- Theo quy định chung, nguồn tin về tội phạm bao gồm tố giác và tin
báo về tội phạm do công nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội cung cấp cho các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và
giải quyết, do các phương tiện thông tin đại chúng nêu và người phạm
tội ra tự thú.
- Theo điều 101 BLTTHS quy định: “ công dân có thể tố giác tội
phạm với CQĐT , VKS, TA hoặc các cơ quan khác của nhà nước
hoặc các tổ chức xã hội”
- Các cơ quan điều tra có trách nhiệm tổ chức thường trực để tiếp
nhận tố giác và tin báo về tội phạm.
25


×