Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về cán bộ và công tác cán bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên tại trường THPT trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.66 KB, 33 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thế giới đã xẩy ra biết bao nhiêu những biến động
to lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới ở Việt Nam vẫn
giành được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm phục. Trong
xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới của nước ta đang đứng trước
những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, phán đoán xử lý
kịp thời mới giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế.
Để đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu tiên
và cấp thiết nhất đối với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ vừa “hồng”
vừa "chuyên" từ Trung ương đến cơ sở. Bởi vì như Lênin người thầy của giai
cấp vô sản đã từng nói: “Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu có đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: Cán bộ là gốc của mọi công việc, công
việc thành công hay thất bại cũng do đội ngũ cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt
việc gì cũng xong. Vì thế hơn lúc nào hết, chúng ta phải trở lại nghiên cứu một
cách thấu đáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng hiện nay.
Đó cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới
thời kỳ “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Cán bộ là khâu quyết định sự thành bại
của cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
dầy công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên
cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Để lãnh đạo thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí minh về cán bộ và công tác cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo
là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa rất căn bản và lâu dài.
Trong ngành giáo dục - được coi là quốc sách hàng đầu - thì đội ngũ cán
bộ, giáo viên là lực lượng cốt cán của sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo,
là nhân tố quan trọng nhất quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, biến


mục tiêu phát triển giáo dục của Đảng thành hiện thực. Do vậy, muốn phát triển
giáo dục đào tạo điều quan trọng trước tiên là phải chăm lo xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ, giáo viên. Trong nhà trường phổ thông, việc phát triển đội
ngũ cán bộ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chất lượng ngày càng
cao phải được coi là một giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng
giáo dục.
1


Với lý do đó, tôi chọn đề tài "Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và công tác cán bộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên tại
trường THPT trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài tiểu luận cuối khóa.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và công tác cán bộ cùng với đó là quá trình khảo sát thực tiễn tại trường THPT
Đông Tiền Hải, tiểu luận đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất
lượng đội ngũ cán bộ giáo viên tại nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Trình bày những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ và công tác cán bộ.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng, hiệu quả của cán bộ giáo viên và
công tác cán bộ ở Trường THPT …, tìm ra những nguyên nhân của thực trạng
ấy.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo
viên và công tác cán bộ tại trường THPT ... trong giai đoạn hiện nay.
3. phương pháp nghiên cứu
- Dùng phương pháp chung của triết học Mác - Lênin, phương pháp duy
vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, trong đó chủ yếu dùng phương
pháp logic và lịch sử.

- Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này giúp bản
thân tôi nắm vững cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu…
- Phương pháp quan sát, trao đổi, trò chuyện, phân tích, tổng hợp dữ liệu,
số liệu so sánh, đánh giá nhằm phục vụ đề tài.
4. Giới hạn nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ tại trường THPT …
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chất lượng cán bộ giáo viên và công tác
cán bộ giáo viên của trường THPT … - huyện … - tỉnh … từ năm 2015 đến nay
và phương hướng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của cán bộ giáo viên đến
năm 2020.
4.3. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu luận trong một năm từ tháng 5 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018.
II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
2


CƠ SỞ LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG
TÁC CÁN BỘ.
1.1. Một số vấn đề chung về tư tưởng Hồ Chí Minh
Trải qua quá trình bôn ba, hoạt động cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành và phát triển, cùng với chủ nghĩa Mác -Lênin đã trở thành nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được nêu lên trong Đại hội IX năm
2001 của Đảng sau được khái quát lại trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (Bổ sung và phát triển năm 2011):
"Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc
ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi"
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luậnvà định hướng cho Đảng ta xây
dựng đường lối đúng đắn dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác trong toàn bộ tiến trình cách mạng của nước ta. Do vậy, việc nghiên cứu,
học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động thực tiễn là rất quan
trọng. Trong đó, để thực hiện được các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa
cách mạng thành công thì vai trò của cán bộ và công tác cán bộ có tính quyết
định. Cho nên trong tư tưởng Hồ Chí Minh cán bộ và công tác cán bộ luôn luôn
giữ vị trí hàng đầu và được Người thể hiện rất rõ ràng, sâu sắc.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
1.2.1. Về vị trí cán bộ và công tác cán bộ
- Cán bộ có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng có nhiều
nhiệm vụ, nhiều công việc, trong đó Hồ Chí Minh coi “cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”; “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn
và là điều kiện tiên quyết để đưa cách mạng tới thành công. Muốn biến đường
lối thành hiện thực, cần phải có đội ngũ cán bộ cách mạng tập hợp được quần
chúng cách mạng, có đủ phẩm chất và năng lực mới đưa được cách mạng đến
thắng lợi.
3


Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, và Nhà nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của quần chúng nhân dân báo cáo cho Đảng, và Nhà nước hiểu rõ, để
đề ra chính sách cho đúng. Vị trí cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với

quần chúng nhưng không phải là “dây dẫn”, là sự chuyển tải cơ học mà đòi hỏi
người cán bộ phải có đủ tư chất, tài năng, đạo đức để làm nhiệm vụ cầu nối đó.
Hồ Chí Minh coi trọng cán bộ nên cũng rất coi trọng công tác đào tạo cán
bộ, Người cho rằng cán bộ có vị trí quyết định trong mọi nhiệm vụ bởi chính
sách đúng đắn có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai, cán bộ yếu
kém. Người nói “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất bại của
chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm
tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
- Cần coi trọng công tác cán bộ. Muốn tổ chức công việc tốt, yêu cầu
người cán bộ phải có tài, có đức, song việc lựa chọn và bố trí, sử dụng phải hợp
lý, đúng người, đúng việc. Nếu không rất có thể hỏng việc mà không phải do
năng lực của cán bộ. Hồ Chí Minh luôn cho rằng trong dân ta không thiếu người
tài, có đức để làm cán bộ, vấn đề còn lại là phải biết phát hiện, bồi dưỡng và tin
tưởng ở họ.
Về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nêu ra các vấn đề lớn và các vấn đề đó
có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là:
- Hiểu biết cán bộ. Theo Hồ Chí Minh trước khi cất nhắc cán bộ, phải
nhận xét rõ ràng. Không chỉ xem xét về công tác của họ mà còn xem xét cả sinh
hoạt, chẳng những xem xét về cách viết, cách nói của họ mà còn xem xét việc
làm của họ có đúng với lời nói không, phải biết ưu điểm của họ và cũng phải
biết khuyết điểm của họ.(1)
- Khéo dùng cán bộ. Trong những bài viết, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: dùng
cán bộ như “dùng mộc”, tùy tài, tùy việc mà dùng người, tránh lạm dùng người
bà con, anh em quen biết, bầu bạn, những kẻ khéo nịnh hót mình, chán ghét
những người chính trực. Biết dùng cán bộ là phải khiến họ yên tâm, vui thú,
hăng say làm việc, khuyến khích cán bộ dám nói, dám làm, có gan phụ trách, có
gan làm việc.
- Cất nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng lựa chọn, cất nhắc đúng cán bộ,
dùng cán bộ cho đúng đó mới là “tình cảm”, hai việc đó phải đi đôi với nhau. Để
11


Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 5, tr.281

4


dùng được đúng cán bộ thì phải biết rõ họ. Bác chỉ rõ: Kinh nghiệm cho ta biết:
mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt tìm thấy nhân tài mới, mặt khác những
người hủ hóa cũng lòi ra(2)
- Thương yêu cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, đây là biện pháp có quan hệt
mật thiết đối với nhiều người trong công tác đào tạo cán bộ và có tác dụng lâu
dài trong xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Quan tâm, thương yêu cán bộ là
phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ, nhất là cán bộ nữ, cán bộ
miền núi vào cơ quan lãnh đạo.
- Phê bình cán bộ. Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên
tắc xây dựng Đảng ta, chúng ta không sợ sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng
là những người lãnh đạo phải biết cách giúp đỡ cán bộ sửa chữa những sai lầm,
khuyết điểm của họ. Sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, trước hết người cán bộ có
sai lầm phải tự kiểm điểm và tiếp thu phê bình của các đồng chí để nhận ra
khuyết điểm của mình và tự giác sửa chữa. Mặt khác các cán bộ lãnh đạo phải
có trách nhiệm phê bình và giúp đỡ để cảm hóa cán bộ của mình sửa chữa
khuyết điểm. Song, không phải tuyệt nhiên không dùng hình thức xử phạt, xử
phạt là biện pháp giúp những cán bộ cố ý phá hoại nhận ra sai lầm của họ. Như
vậy, phê bình đúng, chẳng những không làm giảm uy tín của cán bộ, cuả Đảng
mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, đúng đắn hơn, nhờ đó mà uy tín và
thể diện càng được tăng lên.
Để có cán bộ tốt, đáp ứng được phong trào, nhiệm vụ cách mạng, phải coi
trọng công tác cán bộ. Người coi công tác cán bộ cũng như việc đào tạo nhân tài
là trọng yếu và rất cần thiết. Người nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người”.

1.2.2. Về tiêu chuẩn cán bộ.
Đối với Hồ Chí Minh, Người quan tâm trước tiên là vấn đề đạo đức của
người cán bộ. Người coi đạo đức là “gốc”; phải có đạo đức cách mạng thì
người cán bộ mới có điều kiện để làm việc, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc. Nếu thiếu hoặc yếu kém đạo đức cách mạng thì sẽ không thể làm tốt
công việc được giao. Người cho rằng “cũng như sông có nguồn thì mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Tư tưởng về đạo đức của người cách
22

Sđd, tập 5, tr.274

5


mạng mà Hồ Chí Minh nêu không có nghĩa là người cán bộ không cần có
trình độ nhưng trong quan hệ đức – tài, thì đạo đức là “gốc”, có ý nghĩa quyết
định đối với người cán bộ.
Người đặt ra yêu cầu đạo đức của người cán bộ:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”
Người đã giải thích Cần, Kiệm, Liêm ,Chính rất cô đọng, rõ ràng:
- Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai
- Kiệm là tiết kiệm không xa xỉ, không hoang phí…
- Liêm là trong sạch, không tham lam, không ham địa vị, không ham tiền

tài, không ham người tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh chính đại, không
bao giờ hủ hoá.
- Chính là thắng thắn, đúng đắn. Để chính thì phải chớ tự kiêu, tự ái, chớ
nịnh hót người trên, chớ xem khinh người dưới”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức phải tự rèn luyện một cách kiên trì, bền bỉ
mới có được, phải tự “tu thân tích đức" tựa như:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian lan, rèn luyện mới thành công”
(Nhật ký trong tù)
Theo Hồ Chí Minh, muốn “thành người” và thành “người cán bộ” thì
trước hết là phải học “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân
dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn”. Học là điều kiện tiên quyết để
“thành người” và “người cán bộ”. Người viết:
“Học để làm việc
Làm người
Làm cán bộ”

6


“Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được, là thoái bộ. Xã hội càng
đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình đã không chịu học,
mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ còn phải tự phê bình, Người giải thích:
“Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ, thì ai cũng cần tự phê bình cho tư
tưởng và hành động đúng đắn” “tự phê bình là thật thà nhận, công khai nhận
trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa”.
Nói tóm lại, Hồ Chí Minh coi các đức tính, khiêm tốn, ham học hỏi,

không giấu dốt, thường xuyên tự phê bình, không chủ quan tự mãn, gặp thất bại
không nản chí… là những phẩm chất thuộc tiêu chuẩn hàng đầu của người cán
bộ.
1.2.3. Phát hiện, lựa chọn, đánh giá, sử dụng và cất nhắc cán bộ:
Sinh thời Hồ Chí Minh đặt niềm tin rất cao vào quần chúng, việc phát
hiện, lựa chọn nhân tài không được phân biệt người trong Đảng hay ngoài
Đảng, vấn đề họ phải có tài thật sự. Người cho rằng cần thông qua thực tiễn
cách mạng để lựa chọn cán bộ: Khi “Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra
rất nhiều nhân tài ngoài Đảng, chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ.
Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ,
gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu
nước” “phải trọng nhân tài”.
Như vậy phát hiện, lựa chọn cán bộ trong kháng chiến cũng như trong
hòa bình, xây dựng đất nước đều phải thông qua thực tiễn và kết quả hoạt
động để xem xét lựa chọn cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng cần phải thường xuyên đánh giá cán bộ. Theo
Người: “Mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy nhân tài mới,
một mặt khác những người hủ hoá cũng lòi ra”. Người chỉ rõ "xem xét cán
bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ, không chỉ
xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của
họ. Có người lúc phong trào cách mạng cao, họ vào đảng, họ làm việc rất
hăng. Nhưng lúc phong trào hơi khó khăn thì đâm ra hoang mang. Lúc gặp
sự nguy hiểm hoá phản cách mạng…Nếu ta không xem xét rõ ràng thì lầm là
cán bộ tốt".
Vì vậy, lựa chọn, đánh giá cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét
một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ.
7


Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu với công tác đánh giá cán bộ, Người

đòi hỏi muốn biết đúng về người khác thì trước hết phải “tự biết mình”, “đã
không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái
ở người ta thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình.
Tóm lại, về đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng hiểu người là việc
rất khó, nếu không hiểu đúng thì không dùng đúng, nếu không dùng đúng thì
không thể cất nhắc đúng. Nhưng muốn hiểu người trước hết phải hiểu mình.
Rõ ràng trong đánh giá cán bộ, người đánh giá phải có tâm và có tầm nhìn,
công bằng và trung thực mới lựa chọn được cán bộ tốt.
Đánh giá cán bộ là cơ sở để đề bạt và sử dụng cán bộ đúng người,
đúng việc, đúng lúc. Hồ Chí Minh yêu cầu khi “cất nhắc cán bộ cần phải xét
rõ người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến
phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có tài, mà
dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc”. Do đó, thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thì người đánh giá cán bộ phải khách
quan, vô tư và vì sự nghiệp chung của Đảng.
Khi đề bạt, sử dụng cán bộ thì cần xem xét tiêu chí tổng hợp để xem
người cán bộ đó có đủ tiêu chuẩn đề bạt giữ một chức vụ nào đó và họ có
gần gũi và được quần chúng tin cậy mến phục không. Phải nói rằng đây là
một thước đo khá chuẩn xác và quan trọng trong đề bạt cán bộ.
Khi đã đủ tiêu chuẩn đề bạt thì phải xem người đó thích hợp với việc
gì, sở trường và năng lực như thế nào để bố trí, sử dụng cho đúng. Làm như
vậy là sử dụng đúng người đúng việc. Rõ ràng việc bố trí sắp xếp cán bộ phụ
thuộc vào sự công tâm và sáng suốt của của cơ quan tổ chức và người làm
công tác cán bộ. Như vậy, việc bố trí cán bộ ở cơ quan, tổ chức cần được lựa
chọn kỹ lưỡng. Tránh tình trạng sai chồng lên sai. Điều rất quan trọng nữa là
“khi cân nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác
khác mà định”.
Về phương pháp, cách thức cất nhắc, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cất nhắc
cán bộ không nên làm như “giã gạo” nghĩa là trước khi cất nhắc không xem
xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ

lúc họ khá lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên hạ xuống ba lần như thế
là hỏng cả đời… Hồ Chí Minh chỉ rõ “sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ,
khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ”.
8


Mục đích lựa chọn, đánh giá, cất nhắc cán bộ là để dùng cán bộ sao
cho hiệu quả nhất. Hồ Chí Minh cho rằng, đối với mỗi con người: “không có
ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy chúng ta phải khéo dùng người,
sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng
ta không biết tuỳ tài mà dùng người, thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì
bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng
người, thì hai người đều thành công”. Là người có lòng bao dung, độ lượng,
Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta, trước hết là những người và cơ quan làm
công tác tổ chức cán bộ “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. ta phải
khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”.
Hơn thế nữa, biết dùng người đúng sở trường của họ, đúng tài của họ,
đúng lúc đúng chỗ, tức biết kheo dùng người thì phải “tài nhỏ có thể hoá ra
tài to” nhưng nếu không khéo dùng người thì “tài to cũng hoá ra tài nhỏ”.
1.2.4. Về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác huấn
luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nếu như “cán bộ là gốc của mọi công việc
thì “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, Hồ Chí Minh khẳng
định “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích
cho công việc chung của chúng ta”.
Huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng là khâu có ý nghĩa quyết định đến
trình độ và chất lượng của cán bộ. Hồ Chí Minh chỉ thị học lý luận phải gắn
với thực tiễn, tránh đào tạo chung chung, học thuộc lòng. Thực tiễn không
ngừng biến đổi, do vậy lý luận cũng phải được bổ sung, phát triển, vì thế cán

bộ phải không ngừng học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao.
Theo Hồ Chí Minh, học tập là rất quan trọng, muốn trở thành người và
“người cán bộ” thì phải học: Học để làm việc - Làm người - Làm cán bộ.
Người xưa có câu: “Thành tài thì chưa chắc đã thành nhân” và với Bác
Hồ thì cần phải “làm người” sau đó mới “làm cán bộ” để “thành nhân” rồi
mới “thành tài”, và điều đó trước hết là phải học. Theo Hồ Chí Minh thì
“Học ở trường, học sách vở, lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân
là một thiếu sót rất lớn”.
1.2.5. Về công tác kiểm tra, quản lý và chính sách đối với cán bộ
9


Trong thực tiễn công tác cán bộ, tất yếu phải coi trọng công tác kiểm
tra và quản lý cán bộ.
Kiểm tra là để phát huy ưu điểm, ngăn ngừa khuyết điểm và ngăn chặn
kẻ xấu chui vào bộ máy. Đó chính là công việc của người phụ trách và cơ
quan làm công tác cán bộ, Hồ Chí Minh nói: “Phải thường xuyên kiểm tra để
giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Giao
công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không
biết yêu dấu cán bộ”.
Trong quản lý cán bộ phải thực hiện tốt: chế độ tự phê bình và phê
bình; chế độ khen thưởng và kỷ luật. Trong bài “Tự phê bình” đăng báo
Nhân dân ngày 20 tháng 5 năm 1951, mở đầu bài báo, Người viết:
“Dao có mài, mới sắc
Vàng có thui, mới trong
Nước có lọc, mới sạch
Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”
Đó là sự cần thiết của chế độ tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh đã đề cao nguyên tắc tự phê bình, phê bình, khuyến khích

cấp dưới phê bình cấp trên, cấp trên phê bình, nhận xét phải công bằng, yêu
thương cán bộ, không thành kiến, trù dập, thưởng phạt phải công minh. Trong
thực tế, Người chú ý khen thưởng nhiều mà cũng xử nghiêm những ai có tội
lỗi. Tuy nhiên, Người cũng nhắc nhở đừng lạm dụng thưởng, phạt, bởi vì
thưởng, phạt tràn lan, không đúng lúc, đúng chỗ, thiếu chính xác, thiếu công
bằng thì cũng không có tác dụng tích cực.
Việc kiểm tra, quản lý cán bộ còn có nhiệm vụ ngăn ngừa, chống lại
những tệ nạn tham nhũng, quan liêu rất dễ xảy ra trong cán bộ khi có chức,
có quyền.
Hồ Chí Minh quan niệm kiểm tra, phê bình cán bộ với mục đích là để
họ không kiêu căng, làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức: “Phải vun đắp
chí khí của họ để đi đến chỗ “ bại không nản, thắng không kiêu”. Phải xuất
phát từ tình thương yêu để phê bình và phê bình là mong cho đồng chí mình
tiến bộ”. “ Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ.
Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống
nhất nội bộ”.
10


Vì vậy mà phương pháp phê bình, tinh thần, thái độ phê bình “ phải ráo
riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu
điểm, khuyết điểm; Đồng thời, chớ dùng lời lẽ mỉa mai, chua cay đâm thọc.
Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người”. Còn đối với “những
người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi. Không nên vì bị phê
bình mà nản chí hoặc oán ghét”.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn yêu cầu người cán bộ phải thường xuyên cái
tiến phương pháp công tác và lề lối làm việc để nâng cao hiệu quả công tác.
Điều này được thể hiện rõ ràng trong cuốn “Sửa đổi đường lối làm việc” của
Bác Hồ ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỷ. Đặc biệt trong giai đoạn đổi mới
của đất nước hiện nay cũng như trước yêu cầu hội nhập quốc tế, tư tưởng Hồ

Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi đường lối làm việc” càng có ý nghĩa to lớn
và quan trọng không chỉ đối với cán bộ, Đảng viên mà còn có tác dụng đối
với toàn xã hội.
1.2.6. Về công tác cán bộ nữ.
Trong cuộc đời sự nghiệp của Người, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới sự
nghiệp giải phóng phụ nữ. Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh quan tâm sâu
sắc đến công tác cán bộ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “ Đảng và Chính phủ cần có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố
gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ”.
Người luôn khích lệ động viên: “Vậy phụ nữ phải làm sao cho người ta
thấy phụ nữ giỏi, lúc đó cán bộ không cất nhắc, anh chị em công nhân sẽ cử
mình lên”. Người đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ và
rất chú ý đến việc mở các lớp bồi dưỡng của địa phương, cơ sở. Bác nghiêm
khắc phê phán các địa phương, cơ sở mở lớp học mà có ít cán bộ nữ. Bác nói
“cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót, các đồng chí phụ trách lớp học chưa
quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. đây cũng là một thiếu sót chung ở
trong Đảng. Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay
thành kiến hẹp hòi, như vậy là rất sai. Hiện nay có nhiều phụ nữ tham gia
công tác lãnh đạo ở cơ sở nhiều người rất giỏi”.
11


Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, phụ nữ đã có những đóng góp to
lớn, nhiều chị em đã được phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
anh hùng lao động, chiến sỹ thi đua toàn quốc, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sỹ ưu
tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, nhiều người đạt chức danh giáo sư, phó
giáo sư, là những nhà khoa học đầu ngành v.v… Đây lại là minh chứng cho

sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác cán bộ nữ của Người.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ GIÁO VIÊN
TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔNG TIỀN HẢI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1. Khái quát đặc điểm, tình hình
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Tiền Hải - tỉnh Thái Bình
Huyện Tiền Hải giáp huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình về phía tây. Phía
đông giáp vịnh Bắc Bộ. Phía bắc giáp huyện Thái Thụy Thái Bình. Phía nam
giáp tỉnh Nam Định. Huyện Tiền Hải nằm kẹp giữa hai cửa biển Trà Lý và Ba
Lạt của sông Hồng. Đây là một trong hai địa phương ven biển của tỉnh ta có diện
tích 226 km2, dân số 213 616 người (số liệu năm 2009), hầu hết dân tộc kinh,
dân tộc thiểu số không đáng kể.
Huyện Tiền Hải gồm 1 thị trấn Tiền Hải và 34 xã: An Ninh, Bắc Hải, Đông
Cơ, Đông

Hải, Đông

Hoàng, Đông

Lâm, Đông

Long, Đông

Minh, Đông

Phong, Đông Quý, Đông Trà, Đông Trung, Đông Xuyên, Nam Chính, Nam
Cường, Nam Hà, Nam Hải, Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Phú, Nam Thanh, Nam
Thắng, Nam Thịnh, Nam Trung, Phương Công, Tây An, Tây Giang, Tây Lương, Tây
Ninh, Tây Phong, Tây Sơn, Tây Tiến, Vân Trường, Vũ Lăng.

Tiền Hải là vùng đất trẻ, mới được bồi đắp. Lịch sử hình thành huyện Tiền
Hải chỉ thực sự rõ nét từ thời nhà Nguyễn, khi Doanh điền sứ Nguyễn Công
Trứ năm 1828 đưa dân đến khai hoang lấn biển lập nên các làng xã tại đây. Lúc
đầu (năm 1828, 1832), Tiền Hải thuộc phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (cũ),
gồm 7 tổng, huyện lị đặt tại ấp Phong Lai. Tới năm 1891, nhập thêm hai tổng:
Đại Hoàng (chuyển từ huyện Trực Định, tức huyện Kiến Xương ngày nay, sang)
và Đông Thành (từ huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định), thành ra có 9 tổng và
thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
Là vùng đất trẻ, Tiền Hải không có nhiều những di sản văn hóa lâu đời.
Song, từng là đất thiêng của cuộc khởi nghĩa nông dân Phan Bá Vành; ngoài ra
12


có các di tích như đình Nho Lâm, đình Tiểu Hoàng, đình Tô hay lễ hội làng
Thanh Giám cũng là những tài nguyên du lịch quý giá trên vùng đất này.
2.1.2. Đặc điểm, tình hình trường THPT ….
Trường THPT … nằm ở phía đông huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình thuộc
địa bàn các xã ven biển khó khăn của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Nơi đây
đa phần là kinh tế tiểu nông nhỏ lẻ xen kẽ với phát triển tiểu thủ công nghiệp và
nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản. Người dân đa số làm nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và đi biển thu nhập trung bình thấp.
Trường THPT …. đứng chân trên địa bàn xã Đông Xuyên - huyện Tiền
Hải - tỉnh Thái Bình với diện tích rộng gần 1500m 2, giáp khu dân cư và đường
quốc lộ liên xã Đông Xuyên - Đông Long - Đông Hoàng. Đây là khu vực ven
biển, đa số các hộ gia đình làm nông nghiệp thuần túy, dân trí chưa cao, các điều
kiện cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế. Song những năm gần đây tình hình kinh tế
- xã hội của khu vực có nhiều chuyển biến tích cực, Đông Xuyên đã hoàn thành
các tiêu chuẩn để trở thành một trong những xã của huyện Tiền Hải về đích nông
thôn mới.
- Quá trình thành lập và phát triển: Trường THPT … được thành lập từ

năm 1980 - là một trong những trường được thành lập muộn của tỉnh nhà và trên
địa bàn huyện. Trụ sở chính của trường đặt tại xã Đông Xuyên - huyện Tiền Hải
- tỉnh Thái Bình. Khi mới thành lập, trường có cơ sở vật chất hết sức nghèo nàn,
chỉ có 4 phòng học lợp ngói, nền đất, bảng xi măng với số lượng học sinh ban
đầu chỉ có hơn 100 em. Có những năm trường có quá ít học sinh dự học đứng
trước nguy cơ giải thể như năm học 1981- 1982. Nhưng được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, của chính quyền các cấp, của ngành giáo dục - đào tạo và sự
nỗ lực phấn đấu của đội ngũ thầy, cô giáo, phụ huynh học sinh, nhà trường từng
bước vượt qua khó khăn ban đầu và dần phát triển vươn lên.
- Về Cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường từng bước được đầu tư
nâng cấp theo hướng hiện đại đáp ứng được nhu cầu dạy và học. Hiện nay nhà
trường có hai khu nhà học cao tầng kiên cố với 30 phòng học đủ cho tất cả các
lớp học một buổi/ ngày, có 2 phòng thí nghiệm, 3 phòng máy chiếu, 3 phòng
máy tính đảm bảo các điều kiện học tập đầy đủ. Đặc biệt năm 2016, khu nhà
hiệu bộ đã được hoàn thành có đầy đủ các phòng chức năng phục vụ điều kiện
làm việc của cá nhân, bộ phận và đoàn thể trong nhà trường với 3 phòng giám
13


hiệu, 1 văn phòng, 1 phòng kế toán, 1 phòng thư viện, 2 phòng chờ giáo viên, 5
phòng tổ bộ môn, 2 phòng khách, 1 phòng hội đồng, 1 phòng truyền thống.
- Về cơ cấu tổ chức:
+ Quy mô lớp học: có 30 lớp học (10lớp/1khối) với tổng 1210 học sinh
(năm học 2017 - 2018) trong đó khối 12: 401 em; khối 11: 422 em; khối 10: 387
em (so với năm học 2016 - 2017, số lượng học sinh giảm 30 em là do kết quả
tuyển sinh đầu vào thấp, không đủ chỉ tiêu tuyển sinh).
+ Về đội ngũ cán bộ giáo viên: Tổng số 70 người trong đó biên chế: 59,
hợp đồng: 11, gồm Ban giám hiệu: 2 đồng chí, tổ Văn phòng: 8 đồng chí (biên
chế: 4, hợp đồng: 4), giáo viên: 60 đồng chí (biên chế: 53, hợp đồng: 7); cán bộ
giáo viên nữ là 58 chiếm 83% tổng số cán bộ giáo viên của toàn trường.

Trình độ đào tạo của cán bộ giáo viên: 100% đạt chuẩn, có trình độ từ đại
học trở lên, trong đó có 6 đồng chí đạt trên chuẩn (có trình độ thạc sĩ). Cụ thể:
Môn
Số lượng GV
Trình độ chuẩn
Toán
10
8

6
5
Hóa
5
5
Sinh
3
1
Văn
9
8
Sử
4
4
Địa
3
3
Ngoại ngữ
8
8
GDCD

2
2
GDTC-QP
5
5
Tin học
3
3
Công nghệ
3
3
+ Các tổ chức đảng, đoàn thể:

Trình độ trên chuẩn
2
1
2
1

Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam có 18 đảng viên.
Công đoàn có 70 công đoàn viên
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: có 1235 đoàn viên.
Chi đoàn giáo viên: có 35 đoàn viên.
Tổ bộ môn: 6 tổ chuyên môn gồm: Tổ Toán - Tin, Tổ Văn, Tổ Anh, Tổ Tự
nhiên, Tổ Xã hội và Tổ Văn phòng.
2.2. Thực trạng chất lượng, hiệu quả đội ngũ cán bộ giáo viên trường THPT
Đông Tiền Hải - huyện Tiền Hải - tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch năm học về chất lượng đội ngũ
cán bộ giáo viên và công tác cán bộ.
14



a. Về công tác chuyên môn
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Chi bộ Đảng nhà trường (năm 2015),
cùng với đó hằng năm Ban Giám hiệu đã xây dựng kế hoạch năm học được triển
khai cụ thể trong hội nghị cán bộ công nhân viên chức đầu năm được mọi thành
viên trong hội đồng giáo dục nhà trường cùng đóng góp để xây dựng kế hoạch
hoàn chỉnh.
- Triển khai thực hiện kế hoạch năm học nghiêm túc, đầy đủ: Ngay từ đầu
năm học nhà trường đã có kế hoạch cụ thể từng tháng, từng tuần triển khai đến
từng giáo viên. Trên cơ sở kế hoạch chung của nhà trường từng giáo viên xây
dựng kế hoạch cụ thể của cá nhân mình trong đó đề ra những phương hướng, chỉ
tiêu phấn đấu cụ thể.
- Chi ủy, Ban giám hiệu luôn đảm bảo truyền đạt đầy đủ, chính xác, kịp
thời các hướng dẫn công tác của cấp trên tới cán bộ giáo viên, đặc biệt là các
văn bản mới như Nghị quyết 29 của Bộ chính trị về đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục, chỉ thị 5555 của Bộ Giáo dục và đào tạo về đổi mới phương pháp
dạy học, kiểm tra đánh giá. Mặt khác, tích cực chỉ đạo mọi hoạt động giáo dục
của nhà trường theo đúng văn bản pháp quy và hướng dẫn của Bộ, kế hoạch của
Sở Giáo dục, nhất là trong các kỳ thi.
- Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên thành một
tập thể đoàn kết, có nề nếp, kỷ cương, kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao trong
công việc. Nhà trường luôn quan tâm đầu tư bồi dưỡng lực lượng cán bộ giáo
viên cốt cán làm nòng cốt thúc đẩy các hoạt động chuyên môn hình thành lực
lượng giáo viên điển hình trong giảng dạy và các hoạt động giáo dục khác.
- Luôn chú trọng nâng cao vai trò của cán bộ tổ, nhóm chuyên môn, thực
hiện công khai, dân chủ trong cất nhắc, bổ nhiệm, quy hoạch và điều động
nhiệm vụ cho cán bộ giáo viên. Tăng cường việc phát huy tính năng động, sáng
tạo của cán bộ, giáo viên. Xây dựng phong cách làm việc độc lập, khoa học, tự
chủ trong cán bộ giáo viện. Các tổ, nhóm sinh hoạt chuyên môn đi vào chiều

sâu, tổ chức tốt việc thi giáo viên dạy giỏi các cấp. Đẩy mạnh phong trào đổi
mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá đồng thời cải tiến công tác đánh
giá giáo viên và học sinh.
- Quan tâm chăm lo đời sống cán bộ giáo viên, nhân viên, luôn chú ý tới
chế độ chính sách, kiểm tra, đánh giá khen thưởng kịp thời đối với cán bộ giáo
viên, nhân viên và học sinh đạt những thành tích xuất sắc.
15


b. Về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
- Thường xuyên chú trọng tới việc quy hoạch đội ngũ cán bộ giáo viên.
Nhà trường xác định đúng chủ trương, phương hướng trong chiến lược xây dựng
đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng
thời, quán triệt cho cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy, Ban giám hiệu, lãnh
đạo các đoàn thể nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc tiến hành
công tác cán bộ. Phổ biến rõ ràng các văn bản quy phạm pháp luật về công tác
cán bộ nói chung và cán bộ trong ngành giáo dục nói riêng, nhằm tạo sự thống
nhất về nhận thức. Chi ủy Nhà trường luôn đề cao trách nhiệm trong việc tham
mưu, đề xuất, xây dựng kế hoạch về công tác cán bộ. Nhiều năm qua, nhà
trường đã gắn đào tạo với quy hoạch, sử dụng đội ngũ giáo viên bảo đảm
nguyên tắc, có hiệu quả, đúng quan điểm của Đảng và Bác về công tác cán bộ và
xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
- Xây dựng và thực hiện đúng quy trình đào tạo gắn với quy hoạch, sử
dụng đội ngũ giáo viên có số lượng và cơ cấu phù hợp với mục tiêu, yêu cầu
đào tạo. Để có đội ngũ cán bộ, giáo viên đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trước mắt và cơ bản lâu dài, góp phần hoàn thành chỉ tiêu Nghị
quyết Đại hội đại biểu Chi bộ Nhà trường nhiệm kỳ 2015 – 2020. Ban Chi ủy
Nhà trường xác định rõ các chủ trương, giải pháp thực hiện quy hoạch đội ngũ
giáo viên gắn với các khâu trong công tác cán bộ như: đánh giá, sử dụng, quản
lý, hướng đào tạo, phân định đối tượng đào tạo cơ bản và đối tượng bồi dưỡng

để sử dụng phù hợp với mục tiêu xây dựng đội ngũ giáo viên trong tình hình
mới. Đồng thời, chỉ đạo Ban giám hiệu đánh giá đúng thực trạng đội ngũ; phối
hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường chuẩn bị nhân sự, đề xuất nguồn
quy hoạch. Thực hiện công khai, dân chủ trong quy hoạch, sử dụng, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ và được tiến hành một cách chặt chẽ từ chi bộ đến Ban thường vụ
chi ủy Nhà trường.
- Thực hiện tốt việc quản lý, rèn luyện đội ngũ giáo viên và công tác
chính sách. Nhà trường luôn làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây
dựng ý thức, trách nhiệm, ý chí phấn đấu vươn lên, tinh thần tích cực, chủ động,
sáng tạo trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học của cán bộ giáo viên. Đồng thời,
duy trì nghiêm nền nếp, kỷ cương; gắn xây dựng chuẩn mực đạo đức nhà giáo
với việc thực hiện Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục”; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
16


đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chi thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
XII) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng. Mặt khác,
kịp thời biểu dương, khen thưởng những giáo viên có thành tích trong giảng dạy,
nghiên cứu khoa học; nghiêm khắc phê bình, nhắc nhở những giáo viên có biểu
hiện thiếu cố gắng trong học tập, nghiên cứu, chất lượng giảng dạy thấp, chấp
hành không nghiêm quy chế chuyên môn. Xây dựng sự đoàn kết, thống nhất cao
trong lãnh đạo tạo môi trường sư phạm lành mạnh để mỗi giáo viên rèn luyện
phẩm chất đạo đức, năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên
cạnh đó, thường xuyên quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện
tốt các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với giáo viên; tạo điều kiện thuận
lợi cho đội ngũ giáo viên, nhất là giáo viên nữ phấn đấu vươn lên hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ trong sự nghiệp “trồng người”.
2.2.2. Tình hình và kết quả đã đạt được của nhà trường và cán bộ giáo viên
từ năm 2015 đến tháng 5 năm 2018.

a. Thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, xây dựng kỷ cương nề nếp giảng
dạy trong nhà trường
- Hằng tuần, Ban giám hiệu kết hợp cùng tổ, nhóm chuyên môn tổ chức kiểm tra
việc thực hiện quy chế chuyên môn của mỗi giáo viên thông qua Lịch báo giảng,
sổ ghi đầu bài, sổ điểm; kiểm tra hồ sơ, sổ sách theo đúng quy định một tháng
một lần. Lập kế hoạch dự giờ giáo viên trong từng học kỳ, sau mỗi tiết dự đều
có nhận xét, đánh giá cụ thể.
- Cuối học kỳ mỗi giáo viên tự nhận xét, đánh giá việc thực hiện quy chế chuyên
môn, kết quả thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.
Tổ chức việc dạy tốt - học tốt, giám sát chặt chẽ, sát sao đồng thời có biện pháp
kịp thời để động viên khen - chê cán bộ giáo viên. Tổ chức bồi dưỡng cán bộ
giáo viên tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng chuyên đề của Sở, ngành tổ chức.
Nhờ thực hiện tốt quy chế chuyên môn nên những năm qua nhà trường
đạt được kết quả cao trong mọi mặt.
b. Kết quả cụ thể đạt được
Thành tích đạt được
của CBGV
Năm học
2015-2016

Danh hiệu

Danh hiệu

Chiến sĩ thi

Lao động tiên

đua cấp cơ sở
SL

TL

tiến

11

SL

1%
17

Danh hiệu

Danh hiệu

Giáo viên giỏi Giáo viên giỏi
Tỉnh

TL

SL

98,5%

5

TL

cấp cơ sở
SL

TL
25


2016-2017
2017-2018

15
13

0,7%
0,62%

100%
97%

6
9

28
29

* Thành tích khác
Năm học

2015-2016

Danh hiệu

Danh


SKKN đạt

trường

hiệu Tổ

giải cấp Tỉnh giải cấp
11

SKKN đạt
Cơ sở
25

Bồi dưỡng
Học sinh
giỏi
- Đứng thứ

- Trường tiến

- 5 tổ đạt

tiến xuất sắc.

LĐTT

14/16 trường

- Bằng khen của


- Giấy

bảng B,

Bộ

khen của

trong đó môn

Sở

Lịch sủ, Địa
lý, Toán,
Tiếng Anh
đạt giải
khuyến khích
toàn đoàn.
- Đạt 18/48
lượt giải cá

2016-2017

15

28

nhân.
- Đạt giải


- Trường tiến

- 5 tổ đạt

tiến

LĐTT

Khuyến

- Giấy khen của

- Giấy

khích toàn

Sở

khen của

đoàn trong

Sở

đó Môn Toán
đạt giải nhất,
môn Văn đạt
giải nhì, môn
Tiếng Anh và

môn Lịch sử
đạt giải
khuyến khích
- Đạt 25/45
lượt giải cá
nhân.
18


2017-2018

- Trường tiến

- 4 tổ đạt

13

29

- Đứng thứ

tiến xuất sắc

LĐTT; 1

11/16 trường

- Giấy khen của

tổ đạt


bảng B,

Sở

LĐTT

trong đó môn

xuất sắc

Toán đạt giải

- Giấy

nhì, môn

khen của

tiếng Anh,

Sở

Văn đạt giải
khuyến khích
toàn đoàn.
- Đạt 26/46
lượt giải cá

nhân

(Ghi chú: viết tắt cụm từ sáng kiến kinh nghiệm là SKKN, lao động tiên tiến là
LĐTT trong bảng trên)
* Cán bộ giáo viên trong nguồn quy hoạch từ 2015 - 2020
STT
1

Chức danh Hiệu trưởng
Nguyễn Thị Hường - PHT

Chức danh Phó Hiệu trưởng
Trần Anh Tuân - Bí thư
Đoàn
Trần Thị Hường - Tổ trưởng

2

CM
* Cán bộ giáo viên trong nguồn quy hoạch từ 2020 - 2025
STT
1
2

Chức danh Hiệu trưởng
Nguyễn Thị Hường - PHT

Chức danh Phó Hiệu trưởng
Trần Anh Tuân - Bí thư

Trần Anh Tuân - Bí thư Đoàn


Đoàn
Trần Thị Hường - Tổ trưởng

3

CM
Trịnh Quang Hợp - Tổ

4

trưởng CM
Trần Minh Đạt - Bí thư Chi
đoàn GV

2.2.3. Đánh giá những ưu điểm nổi bật và hạn chế của đội ngũ cán bộ giáo
viên
a. Ưu điểm
19


- Giáo viên của nhà trường có nề nếp làm việc nghiêm túc, khoa học, có tinh
thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao trong công việc, nhiệm vụ được
giao. Luôn ý thức cao trong việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ.
- Đội ngũ giáo viên đều thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn của nhà
trường, tổ, nhóm bộ môn. Nghiêm chỉnh trong soạn giảng, bám sát phân phối
chương trình của Bộ để tự chủ trong dạy và học đạt kết quả cao.
- Thực hiện tốt và bước đầu đem lại hiệu quả cao trong việc đổi mới phương
pháp dạy học, kiểm tra đánh giá tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục.
100% các giáo viên đều ý thức và nỗ lực trong đổi mới phương pháp dạy học,

đặc biệt việc vận dụng các phương tiện, kỹ thuật dạy học hiện đại để phát huy
tính tích cực của học sinh như dạy bằng bài giảng Powerpoint, E - learning, bảng
biểu đồ, mô hình, thiết bị thí nghiệm…
- Các tổ, nhóm chuyên môn duy trì sinh hoạt, trao đổi chuyên môn đều đặn theo
định kỳ, đi sâu vào sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, theo
chuyên đề để có hiệu quả cao.
- Tập thể giáo viên đoàn kết, gắn bó với nhà trường, có lối sống giản dị, chan
hòa, gần dân, có tinh thần tập thể, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt các cuộc vận
động "Hai không", "Dân chủ - Kỷ cương - Tình thương - Trách nhiệm", "Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", "Mỗi thầy, cô giáo là một tấm
gương đạo đức tự học và sáng tạo", đặc biệt là cuộc vận động "Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh".
- Nhiều thầy, cô giáo có bề dày kinh nghiệm, kinh qua nhiều cương vị công tác,
vững vàng về chuyên môn. Nhiều giáo viên có thành tích cao trong dạy mũi
nhọn và bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường.
- Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm tận tâm, nhiệt tình trong công tác quản lý, giáo
dục đạo đức, pháp luật cho học sinh, đặc biệt trong công tác giáo dục học sinh
yếu, kém, động viên các em tới trường. Đội ngũ giáo viên bộ môn kết hợp chặt
chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục học sinh. Chú trọng kèm cặp
những học sinh yếu, kém, lười học để các em vươn lên trong học tập và nâng
cao ý thức kỷ luật.
b. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nêu trên, nhưng nhìn chung vẫn còn
những hạn chế sau:
20


Chất lượng giáo dục nói chung ở mức trung bình của tỉnh nhà. Chất lượng
học sinh giỏi tỉnh còn hạn chế. Hiệu quả giáo dục chưa cao ở một số mặt như
hạn chế về kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học, các hoạt động tập

thể còn đơn điệu chưa lôi cuốn học sinh, một số hoạt động còn mang tính hình
thức, chạy theo phong trào. Điểm tuyển sinh đầu vào thấp chưa được cải thiện.
Đội ngũ nhà giáo đủ về cơ cấu nhưng vẫn thiếu ở một số môn, tỷ lệ giáo
viên hợp đồng còn cao có phần ảnh hưởng đến chất lượng.
Phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá, một bộ phận
nhỏ giáo viên còn chưa thích ứng với đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra
đánh giá. Một số cán bộ, giáo viên nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về công tác
giáo dục "dạy chữ" và "dạy người". Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học ở một số giáo viên chưa tích cực. Việc viết và áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm trong dạy học còn hạn chế.
- Về công tác quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên chức: đã
ban hành các quy chế, quy định trong cơ quan song chưa thực sự đồng bộ, chặt
chẽ. Việc phân công nhiệm vụ cho từng cán bộ giáo viên đã rất cụ thể song việc
kiểm tra, giám sát thực hiện còn hạn chế.
- Cơ sở vật chất hiện nay đang xuống cấp, trang bị phục vụ cho dạy học
theo hướng hiện đại còn thiếu.
- Hoạt động của các đoàn thể chưa thật sự phát huy được hiệu quả. Đặc
biệt, công tác của chi đoàn giáo viên, công đoàn hầu như chỉ mang tính hình
thức, chưa đi sâu vào nội dung.
- Việc thuyên chuyển giáo viên quá nhiều và thường xuyên hằng năm
cũng ảnh hưởng nhiều tới chất lượng đội ngũ, cụ thể những giáo viên được rèn
luyện, trưởng thành có ít nhiều kinh nghiệm giảng dạy và năng lực sư phạm lần
lượt xin chuyển về gần nhà hoặc thậm chí xin nghỉ việc: Năm 2015 - 2016: 4
đồng chí chuyển trường; năm 2016- 2017: 6 đồng chí chuyển công tác (2 xin
nghỉ việc).
2.3. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm
2.3.1. Nguyên nhân tồn tại:
- Việc kiểm tra giám sát còn nhiều hạn chế việc sơ kết, tổng kết, nhân
rộng điển hình tiên tiến, khích lệ khen thưởng chưa kịp thời.
- Ban Chi ủy chưa có chủ trương lâu dài về đầu tư cơ sở vật chất nhà trường.

21


- Trường chỉ có một đồng chí Hiệu phó phụ trách về chuyên môn lại kiêm
phụ trách cơ sở vật chất do vậy trong quá trình thực hiện công việc còn chồng
chéo thiếu đồng bộ.
- Do sự phân công chưa thật sự hợp lý, các đồng chí lãnh đạo tổ chuyên
môn đều làm công tác kiêm nhiệm, được đồng nghiệp tín nhiệm nên gánh vác
nhiều công việc phần nào khó khăn trong hoạt động, một số đồng chí nhà xa,
con còn nhỏ vì vậy sự nhiệt tình, tâm huyết với công việc được giao còn hạn
chế.
- Số đảng viên trong Chi bộ không nhiều (18/70) nên chưa thật sự mạnh.
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên đa phần còn trẻ, chưa có nhiều kinh
nghiệm trong công tác lại chủ yếu ở xa trường, con còn nhỏ do đó ít nhiều ảnh
hưởng đến công việc được giao.
- Các điều kiện phục vụ dạy học thiếu, chưa đủ điều kiện cần thiết cho
việc thực hành của học sinh, chứng minh chất lượng của giáo viên, nhất là đối với
công cuộc đổi mới phương pháp hiện nay.
- Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, một bộ phận cha mẹ học sinh
chưa quan tâm đến con cái. Đời sống của một bộ phận cán bộ giáo viên còn thấp,
chủ yếu phụ thuộc vào lương cơ bản.
2.3.2. Một số kinh nghiệm
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân
dân tỉnh Thái Bình mà trực tiếp là Sở GD-ĐT Thái Bình trong những năm qua
việc nâng cao chất lượng cán bộ giáo viên ở trường THPT Đông Tiền Hải huyện Tiền Hải - tỉnh Thái Bình có được kết quả đáng ghi nhận. Kết quả đó
cũng là nhờ sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ, đảng viên, đội ngũ giáo viên,
công nhân viên nhà trường. Tổng kết công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ giáo viên trong những năm qua của nhà trường, tác giả rút ra một số kinh
nghiệm chủ yếu:
Một là: Phải thường xuyên xây dựng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất

trong chi bộ Đảng, nắm vững các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước, vận dụng đúng đắn tư tưởng, tấm gương đạo đức và
phong cách Hồ Chí Minh để đề ra mục tiêu, giải pháp cho phù hợp với điều kiện
của nhà trường.
- Hai là: Đội ngũ cán bộ chủ chốt phải tự học tập, rèn luyện và nâng cao
trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề…
22


- Ba là: Khi triển khai chỉ thị, nghị quyết cần gắn với thực tế, theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc, khuyến khích và giúp đỡ quần chúng thực hiện. Sơ kết, tổng
kết, tuyên dương, nhân rộng những điển hình tiên tiến, khích lệ khen thưởng kịp
thời.
- Bốn là: trong hoạt động quản lý cần có những chủ trương biện pháp
thích hợp để quản lý cán bộ, giáo viên, công nhân viên, có động viên, khen
thưởng và có phê bình kỷ luật để từ đó khuyến khích cán bộ, nhân viên tích cực
trong công tác cũng như trong mọi hoạt động phong trào của nhà trường.
- Năm là: Công tác thông tin, tuyên truyền vận động các đoàn thể, các tổ
chức xã hội quan tâm đến giáo dục, tạo thêm động lực mới cho giáo dục và kịp
thời chăm lo, quan tâm tới đời sống cán bộ giáo viên, nhân viên.
- Sáu là: Nhà trường phải nâng cao chất lượng dạy học, tạo được niềm tin
cho nhân dân địa phương, trong cha mẹ học sinh đồng thời là động lực để thu
hút được cán bộ giáo viên ưu tú ngày càng gắn bó và tận tâm với công tác giáo
dục của nhà trường.
- Bảy là: Chọn những cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất tốt, nhiệt
tình để làm nòng cốt trong đổi mới giáo dục, tập hợp đội ngũ cán bộ giáo viên
trong tình hình mới thực sự phải dựa vào cán bộ cốt cán để xây dựng Chi bộ
đảng, trong sạch, vững mạnh.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI

NGŨ CÁN BỘ GIÁO VIÊN VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY TẠI TRƯỜNG THPT ĐÔNG TIỀN HẢI.
Đứng trước thực trạng của nhà trường và đặc biệt là đội ngũ cán bộ giáo
viên làm thế nào để đáp ứng được nhiệm vụ chung của ngành giáo dục là "Dù
khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy thật tốt, học thật tốt", tôi mạnh dạn đề
xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
3.1. Tăng cường bồi dưỡng tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lý tưởng
nghề nghiệp cho cán bộ giáo viên.
- Ngày nay, nền kinh tế thị trường phát triển có ảnh hưởng tới các nhà trường,
đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp tới đội ngũ giáo viên đang đứng lớp. Chính vì
vậy nhà trường phải kết hợp với các tổ chức như Chi bộ đảng, công đoàn, đoàn
thanh niên để tập trung bồi dưỡng nhân cách cao đẹp cho người giáo viên, đó là
lòng yêu nghề, mến trẻ, chống thương mại hóa việc dạy học. Gắn quá trình bồi
23


dưỡng lý tưởng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất người giáo viên. Tổ chức
và đưa vào tiêu chuẩn thi đua của mỗi đoàn thể về việc chấp hành chủ trương,
chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần
đoàn kết, phấn đấu không ngừng nâng cao trình độ của mỗi giáo vien được phân
công.
- Tổ chức giáo viên học tập nắm vững mục tiêu giáo dục THPT, cử giáo viên
tham gia các lớp bồi dưỡng do cấp trên hoặc nhà trường tổ chức. Nêu những tấm
gương điển hình trong sự nghiệp giáo dục để tuyên truyền trong đội ngũ giáo
viên.
- Thông qua việc học tập chỉ thị, nghị quyết, văn bản chuyên môn để xác định
cho giáo viên yêu cầu của nhiệm vụ mới là phải nâng cao chất lượng dạy và học,
Đưa việc bồi dưỡng giáo viên vào cơ chế hoạt động chuyên môn của nhà trường.
Bản thân mỗi giáo viên phải có thái độ đúng đắn trong công tác bồi dưỡng,
không ngại khó, ngại khổ, không chủ quan trên cơ sở đó làm cho giáo viên thấy

thực chất trình độ của mình và từ đó xác định yêu cầu không thể không làm của
mỗi giáo viên, tư tưởng đó có thông suốt thì giáo viên mới làm tốt được
3.2. Tăng cường bồi dưỡng năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ giáo viên đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới.
- Tổ chức bồi dưỡng sâu về chuyên môn nghiệp vụ và cả về lý luận khoa học lẫn
về nội dung, phương pháp dạy học cho từng giáo viên. Xây dựng bộ tiêu chuẩn
nghề nghiệp của cán bộ giáo viên; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tự đào
tạo và đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng
của "người thầy" cả về năng lực chuyên môn lẫn kiến thức, nghiệp vụ sư phạm;
- đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong nhà trường, gắn nghiên cứu
khoa học với đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy; xây dựng nhóm chuyên
gia nhằm tăng cường trao đổi chuyên môn, sáng kiến kinh nghiệm trong các tổ,
nhóm. Tổ chức và khuyến khích cán bộ giáo viên tham gia viết báo cáo chuyên
đề, sáng kiến kinh nghiệm, thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, thi làm đồ dùng
dạy học… nhằm trao đổi kinh nghiệm giảng dạy.
- Tổ chức mời giáo viên giỏi cấp tỉnh, chuyên viên của Sở về trao đổi, tọa đàm
để giáo viên học tập và vận dụng vào thực tiễn giảng dạy tại trường.
- Tạo mọi điều kiện cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ: như bố trí thời khóa biểu, công việc hợp lý để giáo viên có thời gian đi học
và hỗ trợ phần nào kinh phí nếu có thể.
24


- Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao về phương pháp sư phạm và tâm lý
giáo dục, bên cạnh việc cử giáo viên cốt cán đi học theo chương trình của Bộ,
Sở nhà trường còn tổ chức thông qua các hình thức ngoại khóa, hội thảo, hội
giảng.
- đổi mới công tác quản lý, sử dụng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ cán bộ giáo viên
theo hướng phân công, phân cấp về trách nhiệm, quyền hạn và giao quyền tự
phân công, tự chịu trách nhiệm cho các tổ, nhóm chuyên môn về tỉ lệ chất lượng

mỗi kì, mỗi năm.
3.3. Tăng cường cơ sở vật chất dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới.
- Tăng cường các nguồn lực của nhà trường đầu tư cho xây dựng, sửa chữa cơ sở
vật chất trường lớp đảm bảo môi trường xanh - sạch - đẹp. Cân đối thu - chi hợp
lý để hiện đại hóa các phòng học, phòng chức năng… nhằm đáp ứng yêu cầu đổi
mới chương trình, nội dung giáo dục trong thời gian tới.
- Thực hiện việc xã hội hóa giáo dục, huy động nguồn đóng góp của các mạnh
thường quân, của cựu học sinh, phụ huynh để nâng cao hiệu quả, đa dạng hóa
nguồn lực tài chính cho nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
- Có kế hoạch cụ thể đảm bảo đủ trang thiết bị, đồ dùng dạy học để thực hiện
chương trình và phương pháp dạy - học mới, trong đó sớm sắp xếp việc trang bị
máy chiếu cho từng lớp học. Xây dựng kế hoạch xây nhà công vụ, nhà đa năng
cho giáo viên và học sinh để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu dạy học.
3.4. Về công tác cán bộ:
Thứ nhất, Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
và rèn luyện cán bộ.
Phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ để xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trước hết, phải được bắt
đầu từ việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện cán bộ. Đó là chìa
khoá của việc nâng cao chất lượng cán bộ trong thời kỳ mới. Vận dụng điều đó
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ giáo viên cần tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
- đổi mới cách thức, quy trình thực hiện quy hoạch cán bộ.
Về mặt nhận thức, cần khẳng định phải có quy hoạch cán bộ, đưa công tác
quy hoạch cán bộ trở thành nhiệm vụ thường xuyên của chi bộ Đảng nhà trường.
Ban Chi ủy, Ban giám hiệu và hiệu trưởng nhà trường cần tổng kết đánh giá kết
quả, tìm nguyên nhân, và khắc phục kịp thời những khiếm khuyết trong việc
25



×