Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI TẬP LỚN NGUYÊN LÍ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.11 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----------

BÀI TẬP LỚN

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN

 Sinh viên : Trương Mỹ Huyền Trang
 Lớp Quản trị Khách sạn POHE
 STT : 42
 Mã sinh viên : 11144437

Hà Nội, 18/01/2015


CÂU HỎI

 Câu 1.Phân tích quan điểm của Mác về lượng giá trị một đơn vị hàng hóa.

Theo quan điểm của Mác, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì lượng giá trị một đơn vị hàng hóa sẽ thay đổi theo chiều
hướng như thế nào? Giải thích.
Quan điểm trên có ý nghĩa như thế nào đối với doanh nghiệp trong lĩnh
vực sản xuất.

 Câu 2. Trình bày quan điểm về khủng hoảng kinh tế và những biện pháp

chống khủng hoảng kinh tế của Mác. Cho biết khả năng vận dụng những
biện pháp chống khủng hoảng Kinh tế của Mác vào nền Kinh tế thị trường


hiện nay.


Lượng giá trị hàng hóa theo quan điểm của Các Mác
1.Khái niệm
- Giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng
hóa. Vậy lượng lao động của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản
xuất ra hàng hóa đó và tính bằng thời gian lao động. Lượng giá trị hàng hóa không phải
do mức phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi
thời gian lao động xã hội cần thiết.
- Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng
hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với một trình độ
trang thiết bị trung bình , trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động
trung bình trong XH đó. Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa ấy mới quyết định giá trị của hàng hóa đó.
2. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa:
- Để sản xuất ra hàng hóa thì cần phải có chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ
tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc,công cụ, nguyên vật liệu,…và lao
động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành sản phẩm mới.Trong
quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản xuất đóng vai trò bảo tồn và di
chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm , đây là bộ phân giá trị cũ trong sản
phẩm ( c) , còn lao động trừu tượng ( biểu hiện ở sự hao phí lao động sống trong quá
trình sản xuất ra sản phẩm) có vai trò làm tăng giá trị sản phẩm, đây là bộ phận giá trị
mới trong sản phẩm (kí hiệu là v+m). Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hoá bao gồm
hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới.
Kí hiệu W = c+v+m


Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng

tới lượng giá trị của hàng hóa. Chúng ta xem xét ba yếu tố cơ bản: năng suất lao động,
cường độ lao động và mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động.
• Năng suất lao động : Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động. Nó được
đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời
gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động
tăng lên có nghĩa là cũng trong một thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng
hóa sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị
của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. Như vậy, giá trị của hàng
hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
• Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một
đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng
của lao động. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần
kinh trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay
căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng
(hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng
tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng
cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao động cho nên hao
phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.




Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của
hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao
động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà một
người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực
hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện
mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động

giản đơn. Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên. Ý
nghĩa của việc nghiên cứu giá trị hàng hóa. Việc nghiên cứu lượng giá trị hàng
hóa là thật sự cần thiết, thứ nhất là để xác định được giá cả của hàng hóa làm ra,
thứ hai là để tìm ra được những nhân tố tác động đến nó, từ đó có thể tìm ra
cách để làm giảm giá cả sản xuất (ví dụ tăng năng suất, đầu tư khoa học công
nghệ hiện đại…) mà vẫn giữ nguyên hoặc làm tăng thêm giá trị để tiến tới cạnh
tranh trên thị trường, đây chính là điều mà các nhà làm kinh tế luôn hướng tới
nhằm đạt được lợi nhuận cao.

 Theo quan điểm của Mác, lượng giá trị một đơn vị hàng hóa phụ thuộc vào năng
suất lao động, cường độ lao động, mức độ phức tạp của lao động… vì thế cùng
với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ta sẽ có thêm nhiều ứng
dụng máy móc kĩ thuật, công nghệ cao được áp dụng vào quy trình sản xuất,
trình độ công nhân được cải thiện, nâng cao -> năng suất lao động sẽ tăng lên
,thời gian để làm ra một sản phẩm sẽ giảm đi -> do đó lượng giá trị một đơn vị
hàng hóa cũng sẽ giảm. Lượng giá trị hàng hóa tỉ lệ thuận với số lượng lao động
kết tinh và tỉ lệ nghịch với năng suất lao động.


 Quan điểm của Các Mác về lượng giá trị hàng hóa có ý nghĩa lớn đối với các
doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất , thứ nhất là xác định được giá cả hàng hóa
làm ra, thứ hai là hiểu được những nhân tố ảnh hưởng đến nó, từ đó tìm ra cách
làm giảm đi giá cả sản xuất ( đầu tư khoa học công nghệ để tăng năng suất…) mà
vẫn giữ nguyên hoặc làm tăng thêm giá trị sản phẩm để có thể tiến tới cạnh tranh
trên thị trường.
• Ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình sản xuất.. Đổi mới công nghệ phải
dựa trên chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với xu thế công nghệ
thế giới. Cần tranh thủ tiếp thu những công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, mạnh
dạn đầu tư các dây chuyền sản xuất hiện đại, khi đó phần lớn công việc sẽ được
thực hiện bằng máy móc, giảm đi lượng công việc tay chân mà các công nhân

phải làm.
• Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên có kiến thức, kĩ thuật cao, đủ khả năng
điều hành và sử dung các loại máy móc hiện đại. Phổ biến cho công nhân những
kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm, giá cả thị trường…để nâng cao
chất lượng đội ngũ nhân viên, làm ra được những sản phẩm mẫu mã đa dạng,
đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng.
• Biết sử dụng hợp lý những nguồn nguyên liệu sẵn có , giá thành rẻ để đưa vào
sản xuất
• Đặt nhà máy ở những nơi gần với thị trường tiêu thụ , trục giao thông thuận lợi
sẽ làm giảm đáng kể chi phí vận chuyển mà vẫn đảm bảo năng suất.
• Mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường, tiếp cận nhiều đối tượng khách
hàng.


Quan điểm của Mác về khủng hoảng kinh tế
1.Những lý luận của Mác về khủng hoảng kinh tế và bản chất của nó:
Ngay từ khi tiền tệ xuất hiện trong sản xuất hàng hóa giản đơn, nó đã mang trong mình
mầm mống của sự khủng hoảng. Đến chủ nghĩa tư bản, khi mà nền sản xuất đã được xã
hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Sự ra đời của cuộc
đại công nghiệp cơ khí đầu thế kỉ XIX đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
bị gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ.Hình thức đầu tiên và phổ
biến trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất “thừa” với các biểu
hiện chủ yếu sau:


Khủng hoảng sản xuất thừa của tư bản công nghiệp do sự tắc nghẽn trong
quá trình lưu thong hàng hóa của tư bản thương nghiệp.




Khủng hoảng tài chính tiền tệ do sự dư thừa của các loại giấy tờ có giá ( tư
bản giả) . Sự dư thừa của tư bản tiền tệ trong hệ thống các ngân hàng dẫn đến
những cuộc khủng hoảng tiền tệ giữa các quốc gia do sự di chuyển của các dòng
vốn lưu động, gây nên sự thiếu ở thị trường này nhưng lại thừa tiền ở thị trường
khác.



Khủng hoảng nợ công do sự dư thừa của trái phiếu chính phủ, thứ để biến
những khoản tiền tiết kiệm của người dân trở thành tư bản.

Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là theo Mác, khủng hoảng kinh tế đề cập
đến quá trình tái sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những
xung đột giữa các giai cấp trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động
một quá trình tích tụ tư bản mới.


2. Những nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế dưới cái nhìn của Mác:
Theo Mác , nguyên nhân của khủng hoảng tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
 Mâu thuẫn giữa tính tổ chứ, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và
khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội
 Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản
với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hóa
 Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê
3. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế:
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản của chũ nghĩa tư bản
mang tính chu kì. Chu kì kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế
tư bản vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Một chu
kì kéo dài khoảng 8-12 năm. Các Mác chính là người đầu tiên phát hiện ra tính chu kì

của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế gồm có 4 giai đoạn:
• Khủng hoảng : là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn
này , hàng hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh do cung lớn hơn cầu, sản xuất
đình trệ, các xí nghiệp đóng cửa. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ,
phá sản, lực lượng. Khủng hoảng công nghiệp và thương nghiệp dẫn đến cả
khủng hoảng tiền tệ tín dụng, phá hủy nghiêm trọng lực lượng sản xuất, người
lao động thất nghiệp đông đảo, đời sống vô cùng khó khăn. Nghiêm trọng hơn
đó lại là điều kiện để các nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân, do đó công
nhân buộc phải chấp nhận các điều kiện lao động nặng nhọc, hoặc tiền lương
thấp trong khi đó cường độ lao động lại tăng. Đây là giai đoạn mà các mâu
thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.


• Tiêu điều : là giai đoạn tiếp sau khủng hoảng. Đặc điểm của giai đoạn này là
sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng
lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi
nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi tình trạng bế
tắc, các nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thâó tiền
công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố
định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản
cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện
cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
• Phục hồi : là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất.
Công nhân lại được thu hút vào làm việc, mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật
giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
• Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ
trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được
mở rộng và xâu dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay,
năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho

một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.


Những biện pháp của Mác để chống khủng hoảng kinh tế:
Theo Mác,để chống khủng hoảng kinh tế và tác động xấu của tính chu kì trong khủng
hoảng , ta cần phải kéo dài thời gian phục hồi,hưng thịnh và rút ngắn thời gian khủng
hoảng ,tiêu điều trong một chu kì. Mác đã đề ra những biện pháp chủ yếu sau:
• Hạn chế và cố gắng triệt tiêu những mâu thuẫn sẵn có và mâu thuẫn mới phát
sinh trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Việc giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn
có thể giúp ngăn chặn khủng hoảng kinh tế và giảm được những thiệt hại đáng
kể khi khủng hoảng xảy ra.
• Các nhà tư bản phải giảm chi phí sản xuất bằng cách hạ thấp tiền công, tăng
cường độ và thời gian lao động của công nhân đồng thời đổi mới tư bản cố định
( máy móc, thiết bị…), từ đó làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
• Nhà nước cần có tác động trong việc xây dựng một hệ thống ngân hàng thống
nhất, đảm bảo mức cung ứng tiền tệ ổn định , đảm bảo mức lãi suất chênh lệch
trong các ngành có tỉ suất lợi nhuận khác nhau
• Giảm thuế và hạ lãi suất cho vay để kích cầu
• Các nhà tư bản cần phải kết hợp quá trình đào tạo qua sự phát triển của lực
lượng sản xuất với khoa học kĩ thuật để đảm bảo cơ cấu lao động ở mức hợp lý
với điều kiện sản xuất của mọi quốc gia nhưng không bị chi phối bởi giới hạn
thị trường
• Cân bằng hợp lý giữa cung và cầu trên thị trường
• Các tập đoàn, công ti lớn phải đặt dưới sự bảo trợ của nhà nước, hay nói cách
khác là quốc hữu hóa một phần nền kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa. Từ đó
nâng cao hiệu quả trong tổ chức quản lý và hạn chế nhiều rủi ro trong hoạt động.


Vận dụng các biện pháp chống khủng hoảng KT của Mác

vào nền kinh tế thị trường hiện nay
• Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt nguồn từ ngành tài chính tín dụng đã gây
nhiều thiệt hại to lớn cho nền kinh tế. Trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không
chỉ có các nước tư bản phương tây mới chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế, nhiều nước như Việt Nam cũng chịu tác động lớn tới nền kinh tế quốc dân.
Trước cuộc khủng hoảng kinh tế , nhiều nước phương Tây đã áp dụng những
biện pháp chống khủng hoảng của Các Mác như: chính phủ Mỹ ra tay nới lỏng
chính sách tiền tệ hết cỡ với việc hạ lãi suất cho vay, triển khai nhiều gói kích
thích kinh tế ,xây dựng cơ sở hạ tầng , hỗ trợ các hộ dân và tạo thêm việc làm…
-Trước diễn biến nền kinh tế Việt Nam hiện nay , Chính phủ đã xác nhận nhiệm vụ
trọng tâm cấp bách “ phải tập trung mọi nỗ lực để ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc
đẩy sản xuất – kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ,kích cầu đầu tư và tiêu dùng…”
• Tiết kiệm chi tiêu : Trong lúc khó khăn, tiết tiệm được coi là quốc sách. Tại sao
mỗi khi khó khăn con người mới nghĩ đến tiết kiệm như một giải pháp chứ không
phải là một thói quen? Nếu mọi người đừng tiêu xài hoang phí và sử dụng tiền
không phải của mình đầu tư nhằm sinh lời ảo thì có lẽ đã không xảy ra khủng
hoảng kinh tế. Khi khủng hoảng, con người mới nhận thấy rõ nhất giá trị thực của
nền kinh tế, giá trị thực tài sản của mình và bắt đầu biết quý trọng, tiết kiệm những
đồng tiền mồ hôi nước mắt khi chi tiêu.


Cơ cấu lại danh mục đầu tư: Hơn lúc nào hết, trong thời kỳ khủng hoảng, nền

kinh tế suy thoái, các nhà đầu tư và tổ chức càng cần phải xem xét lại danh mục
đầu tư, duy trì những khoản đầu tư mang lại hiệu quả cao, và cắt giảm một số
khoản không cần thiết. Điều quan trọng là nhà đầu tư cần phải biết đâu là danh
mục cần loại bỏ và đâu là danh mục nên giữ lại, để đầu tư sao cho hiệu quả và hợp


lý, tránh ít nhất những thiệt hại có thể xảy ra. Thông thường, các nhà đầu tư sẽ

chuyển đổi từ những danh mục đầu tư đã phát triển nóng như bất động sản, chứng
khoán sang những khoản mục an toàn hơn là vàng, đôla, trái phiếu Chính phủ và
tiết kiệm.
• Tuy nước ta đã thành công trong việc chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhưng sản xuất nhỏ,
phân tán, nhất là trong nông nghiệp, vẫn còn chiếm một bộ phận lớn của nền kinh
tế quốc dân. Bởi vậy, muốn có nền kinh tế thị trường hiện đại phải chuyển sản xuất
nhỏ muốn lên sản xuất lớn, tập trung.
• Phải đề cao tính tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở, đặc biệt là tính tự chủ về
quyền chiếm hữu và sử dụng tư liệu sản xuất. Xóa bỏ mọi thủ tục phiền hà gây trở
ngại cho việc phát huy tính năng động, sáng tạo của các cá nhân và các doanh
nghiệp trong những lĩnh vực mà luật pháp không cấm.
• Nắm vững các nhân tố quyết định sự vận động của giá cả thị trường để có
những biện pháp điều tiết thích hợp, không thể điều tiết giá cả bằng mệnh lệnh
hành chính. Một mặt, tạo môi trường thuận lợi cho cạnh tranh lành mạnh để hình
thành giá trị thị trường và giá cả thị trường thống nhất, có luật chống độc quyền,
chống hạn chế cạnh tranh. Mặt khác, đối với những mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và đời sống, để ổn định giá cả, nhà nước phải lập quỹ dự trữ (bằng hàng hóa
hay bằng ngoại tệ mạnh) nhằm điều tiết cung – cầu, từ đó điều tiết giá cả, đồng
thời phải ổn định sức mua của tiền.
• Hậu quả tất yếu của cạnh tranh (dù là cạnh tranh lành mạnh) là sự phân cực giầu
và nghèo, nên nhà nước phải điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, chủ yếu là
thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân, hỗ trợ những tầng
lớp yếu thế và những người gặp rủi ro nhằm đảm bảo an ninh xã hội.


• Xu hướng quốc tế hóa kinh tế là xu hướng khách quan của kinh tế thị trường.
Nhà nước phải xây dựng cơ cấu kinh tế mở, chủ động tham gia phân công lao động
và hợp tác quốc tế, trên cơ sở phát huy cao độ nội lực, tranh thủ có hiệu quả ngoại
lực, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển nhanh và bền vững.

• Trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay
và trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản còn chi phối nền kinh tế thế giới thì chưa thể
tránh khỏi tác động của khủng hoảng. Bởi vậy, cần có giải pháp phòng ngừa và hạn
chế tác động đó. Thí dụ: cùng với việc lập quỹ dự trữ quốc gia, như đã nói ở trên,
phải nâng cao trình độ marketing của các doanh nghiệp, tăng cường việc nghiên
cứu và dự báo tình hình kinh tế thế giới và trong nước làm cơ sở khoa học cho việc
hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường kỷ cương phép nước,
kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tài chính – tiền tệ; chống đầu cơ, lừa
đảo v.v..
Khủng hoảng kinh tế nói chung và khủng hoảng kinh tế chu kì nói riêng là điều
không thể thiếu trong nền kinh tế hiện nay. Các biện pháp trên cho thấy tác dụng
và khả năng vận dụng tư tưởng của Mác vào chống khủng hoảng và suy giảm
kinh tế. Quanhững thực tiễn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cần rút ra
những bài học bổ ích và kịp thời để có những đối sách cần thiết giúp phòng tránh,
hạn chế những tác hại của khủng hoảng kinh tế.

Tài liệu tham khảo
• Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin ( Bộ GD-ĐT)
• Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
• 1 số bài viết trên khotailieu.com



×