Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.62 KB, 13 trang )

Bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ
năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
A.

Mở đầu
Từ rất lâu rồi, nhãn hiệu đã được sử dụng để phân biệt hang hóa, sản

phẩm. Khoảng 3000 năm trước, những người thợ Ấn Độ đã biết dung nhãn hiệu
để khắc tên trên sản phẩm của mình khi chuyển ra nước ngoài, hay ở Trung
Quốc khoảng 2000 năm trước, các thương nhân cũng đã biết đánh dấu nhãn hiệu
của mình trên các sản phẩm, hang hóa như bình gốm, sứ, cốc,… Tuy nhiên, thời
đó thì nhãn hiệu là vấn đề vẫn chưa thực sự được chú trọng do nó còn chưa
mang tính kinh tế phổ biến. Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường ngày càng cao, việc xuất nhập khẩu hang hóa ra thị trường nước ngoài
tiêu thụ diễn ra phổ biến, các sản phẩm hang hóa thì ngày một biến đổi phong
phú, đa dạng hơn để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dung trên thế giới. Điều
này đặt ra cho các nhà kinh tế cần phải có nhãn hiệu riêng để phân biệt sản phẩm
của mình với sản phẩm của doanh nghiệp khác. Với ý nghĩa như vậy thì nhãn
hiệu được tạo ra như một cách thức để ghi nhận, bảo vệ, phân biệt các sản phẩm
của các doanh nghiệp khác nhau, nhất là các doanh nghiệp nổi tiếng. Vấn đề bảo
hộ nhãn hiệu thì ngày càng quan trọng không chỉ để bảo vệ lợi ích của chủ sở
hữu mà còn bảo vệ lợi ích của người tiêu dung, xã hội.
Bảo hộ nhãn hiệu là một trong những vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
mà thế giới rất quan tâm, nhất là những nhãn hiệu nổi tiếng. Việt Nam cũng
đang rất tích cực vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng giúp các doanh nghiệp cũng
như người tiêu dung bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Để làm rõ hơn vấn đề
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, em xin trình bày về “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)”.


B.


I.

Nội dung
Một số vấn đề lý luận chung
1. Nhãn hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng.
Để làm rõ vấn đề bảo hộ với nhãn hiệu nổi tiếng, trước tiên chúng ta cần

làm rõ các khái niệm cơ bản. Theo quy định tại khoản 16 điều 4 luật Sở hữu trí
tuệ “nhãn hiệu là dấu hiệu để phân biệt hang hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau”. Với sự phát triển của nền kinh tế thì nhãn hiệu ra đời được coi
là một biện pháp hiệu quả nhằm chống lại các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, nhằm bảo vệ uy tín cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh doanh. Nhãn hiệu thường là các dấu hiệu như chữ cái, từ, ngữ, hình ảnh,
hình vẽ, kể cả hình ba chiều hay cũng có thể là sự kết hợp của các yếu tố này.
được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc và được sử dụng trên hang hóa, dịch
vụ, giúp các doanh nghiệp có thể đánh dấu được sản phẩm của mình cũng như
người tiêu dung có thể phân biệt được các sản phẩm khác nhau trên thị trường.
Về khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng thì trên thế giới hiện nay chưa có khái
niệm thống nhất, chính xác. Các công ước Quốc tế cơ bản trong lĩnh vực bảo hộ
Quyền sở hữu công nghiệp như Công ước Paris 1883 hay hiệp định TRIPs, các
quy định có liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng chủ yếu là quy định mang tính
nghĩa vụ, buộc các nước thành viên phải có cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
chống lại việc vi phạm (sao chép, bắt chước, chuyển đổi, và có khả năng gây
nhầm lẫn) của người thứ ba, còn việc nhãn hiệu nào được coi là nhãn hiệu nổi
tiếng thì từng quốc gia lại có các quan điểm khác nhau phụ thuộc vào quốc gia
đó. Theo quy định tại khoản 20 điều 4 luật Sở hữu trí tuệ “nhãn hiệu nổi tiếng là
nhãn hiệu được người tiêu dung biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.
Như vậy, tại Việt Nam thì để được coi là nhãn hiệu nổi tiếng thì nhãn hiệu đó
phải được người tiêu dùng Việt Nam biết đến, công nhận. Việc công nhận đó là
nhãn hiệu nổi tiếng có thể phụ thuộc vào số lượng hang hóa, sản phẩm được tiêu

thụ trong một thời hạn nhất định, được biết đến rộng rãi qua các phương tiện
truyền thông đại chúng như chương trình truyền hình, internet,..


2. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
Khi nhãn hiệu trở nên nổi tiếng, được người tiêu dung thừa nhận rộng rãi
và tín nhiệm thì nó sẽ đem lại một lợi thế không nhỏ cho các chủ sở hữu nhãn
hiệu. Nhãn hiệu nổi tiếng chính là biểu tượng cho danh tiếng của nhà sản xuất, là
kết tinh của trí tuệ và vật chất của doanh nghiêp trong thời gian dài, vì vậy nhãn
hiệu nổi tiếng là tài sản có giá trị rất lớn. Trên thế giới có rất nhiều nhãn hiệu nổi
tiếng, chẳng hạn như nhãn hiệu Cocacola được định giá lên tới cả tram triệu
USD. Vì vậy, việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là vấn đề ngày càng bức thiết, đặt
ra cho các quốc gia trên thế giới phải có pháp luật cụ thể để điều chỉnh sao cho
phù hợp. Theo quy định tại Hiệp định Trips “thuật ngữ bảo hộ phải bao gồm các
vấn đề ảnh hưởng đế khả năng đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc
thực thi các quyền sở hữu trí tuệ cũng như các vấn đề ảnh hưởng đế việc sử
dụng quyền sở hữu trí tuệ”. Như vậy, là môt đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
thì, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là một bộ phận của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
nói chung mà ở đó không chỉ là việc xác lập quyền mà còn ở việc thực thi quyền
đó trên thực tế, cụ thể là việc áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu, ngăn chặn các hành vi xâm phạm
như sử dụng, khai thác trái phép nhãn hiệu đó.
II.

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ năm

2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
1.

Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng

Để được coi là nhãn hiệu nổi tiếng thì phải đáp ứng được những tiêu chí quy
định tại điều 75 luật Sở hữu trí tuệ:
“1. Số lượng người tiêu dung liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc
mua bán, sử dụng hang hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng
cáo;
2. Phạm vi lãnh thổ mà hang hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu
hành;


3. Doanh số từ việc bán hang hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu
hoặc số lượng hang hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung
cấp;
4. Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;
5. Uy tín rộng rãi của hang hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;
6. Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;
7. Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;
8. Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu
tư của nhãn hiệu:”
Theo các tiêu chí này thì trước hết nhãn hiệu nổi tiếng phải được phổ biến
rộng rãi tới số lượng lớn người tiêu dung thông qua việc mua bán, sử dụng hoặc
qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn
hiệu phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện như phải được biết đến trên nhiều
quốc gia, lãnh thổ, có uy tín đối với người tiêu dung, doanh thu mà nhãn hiệu
này đem lại cho nhà sản xuất phải lớn và được sử dụng liên tục trong thời gian
dài từ khi xuất hiện trên thị trường tới khi được công nhận, duy trì là nhãn hiệu
nổi tiếng. (ví dụ như nhãn hiệu quả táo cắn dở của Apple- công ty sản xuất các
sản phẩm điện tử là một trong những nhãn hiệu nổi tiếng hang đầu thế giới, với
mức doanh thu khổng lồ 46,9 tỷ USD, giá trị thương hiệu 145,3 tỷ USD và các
sản phẩm mang nhãn hiệu quả táo cắn dở của apple đã và đang được sử dụng
rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới). Bên cạnh đó, số lượng quốc gia bảo hộ cũng

là một tiêu chí để đánh giá đó có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không (chẳng
hạn như nhãn hiệu sữa vinamilk là một nhãn hiệu sữa được coi là nổi tiếng ở
Việt Nam, được nhiều người tiêu dung Việt Nam biết đến, tuy nhiên, xét trên
phạm vi thế giới thì đây lại không phải là một nhãn hiệu nổi tiếng vì nhãn hiệu
sữa Vinamilk mới chỉ được bảo hộ nhãn hiệu duy nhất tại Việt Nam). Ngoài ra,
yếu tố giá trị chuyển giao quyền sử dụng, giá chuyển nhượng, giá trị góp vốn
đầu tư của nhãn hiệu cũng là một trong các tiêu chí để đánh giá nhãn hiệu nổi


tiếng. Nhãn hiệu nổi tiếng có giá trị thương mại lớn hơn rất nhiều so với các
nhãn hiệu thông thường( ví dụ như nhãn hiệu P/S là nhãn hiệu thông thường ở
Việt Nam có giá trị chuyển nhượng là 7,3 triệu USD trong khi đó thì nhãn hiệu
nổi tiếng như Microsolf có giá trị chuyển nhượng là 69,3 tỷ USD năm 2015 theo
tạp chí forbes).
2. Cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng cũng là một quan hệ
pháp luật về sở hữu, nó cũng giống như các quan hệ sở hữu khác, phát sinh khi
có những căn cứ pháp lý nhất định.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 103/2006/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung bởi nghị định số 122/2010/NĐ-CP): “quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn
hiệu đó theo quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ 2005 mà không cần thực
hiện thủ tục đăng kí”. Như vậy, xuất phát là nhãn hiệu mang uy tín, danh tiếng
lớn trên phạm vi thế giới sau một thời gian nhất định kể từ ngày được đăng kí
bảo hộ thì khác hẳn với nhãn hiệu hang hóa thông thường, cơ chế bảo hộ đối với
nhãn hiệu nổi tiếng là cơ chế tự động, không phụ thuộc vào việc đã đăng kí tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay chưa mà chỉ dựa vào việc nhãn hiệu đó đã
được sử dụng như thế nào trên thực tế. Ngoài ra, quy định nhãn hiệu nổi tiếng
được xác lập thông qua thủ tục công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chứ không phải thông qua việc nộp đơn đăng kí nhãn hiệu như các loại nhãn

hiệu thông thường khác. Tuy nhiên thì trên thực tế các chủ sở hữu, các doanh
nghiệp vẫn tiến hành thực hiện thủ tục đăng kí cho nhãn hiệu để đảm bảo chắc
chắn cho quyền và lợi ích chính đáng của mình, tránh có những tranh chấp về sử
dụng nhãn hiệu có thể xảy ra.
Căn cứ vào Thông tư số 01/2007/TT- BKHCN (sửa đổi, bổ sung bởi thông
tư 05/2013/TT- BKHCN): “trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng được công nhận
theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc theo quyết định công nhận của Cục sở hữu trí
tuệ thì nhãn hiệu nổi tiếng đó sẽ được ghi nhận vào Danh mục nhãn hiệu nổi


tiếng được lưu giữ tại Cục sở hữu trí tuệ”. Như vậy, để được công nhận là nhãn
hiệu nổi tiếng thì nhãn hiệu đó phải đáp ứng được các tiêu chí quy định tại Điều
75 Luật sở hữu trí tuệ và các cơ quan có thẩm quyền công nhận nhãn hiệu nổi
tiếng là Tòa án và Cục sở hữu trí tuệ khi có đơn yêu cầu cầu của cá nhân, tổ
chức trong trường hợp phát sinh tranh chấp, có hành vi xâm phạm đến nhãn hiệu
nổi tiếng và cá nhân, tổ chức phải chứng minh được rằng nhãn hiệu của mình là
nổi tiếng. Cục sở hữu trí tuệ không nhận đơn đăng kí cũng như đơn đề nghị công
nhận nhãn hiệu nổi tiếng dưới bất kì hình thức nào. Việc xem xét một nhãn hiệu
nổi tiếng có thể xảy ra trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, khi cá nhân tổ chức, tiến hành nộp đơn đăng kí nhãn hiệu nhưng
bị từ chối vì nhãn hiệu rơi vào trường hợp trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu của người khác. Khi đó, để có thể đăng kí thì chủ sở hữu phải tiến
hành chứng minh nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng dựa trên các tiêu chí
quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, khi cá nhân, tổ chức yêu cầu hủy bỏ hiệu lực một văn bằng bảo hộ
hoặc phản đối việc cấp giấy chứng nhận đăng ký một nhãn hiệu dựa trên cơ sở
nhãn hiệu tương tự hoặc trùng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của mình trong hai
trường hợp: Sử dụng nhãn hiệu đó cho các hang hóa, dịch vụ trùng hoặc tương
tự; sử dụng cho các hang hóa, dịch vụ không tương tự nhưng gây ra hậu quả
như: có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dung về nguồn gốc hang hóa,

dịch vụ; có khả năng làm giảm danh tiếng, uy tín, khả năng phân biệt của hang
hóa (Điều 96 Luật sở hữu trí tuệ).
Thứ ba, khi cá nhân, tổ chức yêu cầu xử lý những hành vi xâm phạm quyền
đối với nhãn hiệu nổi tiếng khi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn
hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi
tiếng cho hang hóa dịch vụ bất kì, gây nhầm lẫn về nguồn gốc hang hóa, gây ấn
tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu
nhãn hiệu nổi tiếng (điểm d khoản 1 Điều 129 Luật sở hữu trí tuệ).


Thứ tư, khi cá nhân, tổ chức yêu cầu xử lý những hành vi cạnh tranh không
lành mạnh nhằm mục đích lợi dụng, làm giảm uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu
nổi tiếng ( Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ).
Tóm lại, vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng sẽ được thực hiện tại bất kì thời
điểm nào khi có xảy ra tranh chấp và chủ sở hữu có thể chứng minh được nhãn
hiệu của mình là nổi tiếng. Khi đó thì chủ sở hữu có quyền khởi kiện ra tòa án
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu nổi tiếng của mình; buộc
chủ thể xâm phạm phải chấm dứt ngay hành vi xâm phạm, xin lỗi công khai,
tiêu hủy các sản phẩm hang hóa, khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại nếu
có. Từ những phân tích trên có thể thấy rằng việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng có
mức độ cao hơn hẳn so với nhãn hiệu thông thường, chủ sở hữu nhãn hiệu nổi
tiếng cũng vì thế mà có các quyền năng đặc biệt nhằm tang mức độ bảo mật tối
đa đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
III. Thực trạng của bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam hiện nay
Luật sở hữu trí tuệ 2005 ra đời cùng các văn bản pháp luật khác đã tạo ra
một hành lang pháp lý quan trọng, tương đối đầy đủ và vững chắc cho việc bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam. Các quy định liên quan đến khái niệm, tiêu
chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng khá rõ rang, đầy đủ, tương đồng với các nước
trên thế giới, phù hợp với với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết

và là thành viên. Bên cạnh đó, trách nhiệm bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng của chính
các chủ sở hữu nhãn hiệu đó cũng đã và đang được phát huy một cách tích cực,
tạo điều kiện cho chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng có quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, tự định đoạt, góp sức mình vào việc bảo vệ giá trị đích thực của chính
các loại hang hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng mà họ đang kinh doanh.
Ngoài ra còn có sự phối hợp của các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp hiệp hội
với cơ quan như Cục sở hữu trí tuệ trong việc tổ chức các chương trình như
Chương trình tư vấn, đánh giá và trao giấy chứng nhận Nhãn hiệu cạnh tranhnhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam, Chương trình bình chọn hang Việt Nam chất


lượng cao, Chương trình chắp cánh thương hiệu cũng là một trong những
phương thức, biện pháp hiệu quả trong việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt
Nam, nơi nhãn hiệu hang hóa, dịch vụ uy tín, chất lượng được vinh danh, góp
phần quảng bá cho chính các nhãn hiệu đó, đồng thời cũng là thước đo nhãn
hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì việc bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam vẫn còn gặp một số bất cập, cụ thể như:
Thứ nhất, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì nhãn hiệu
nổi tiếng tại Viêt Nam được bảo hộ không cần phải qua thủ tục đăng kí. Sự nổi
tiếng của nhãn hiệu chỉ cần đánh giá trên phương diện là sự công nhận của
người tiêu dung Việt Nam thông qua số lượng hang hóa, dịch vụ tiêu dung, sử
dụng,…vì thế, khi xảy ra tranh chấp thì chủ sở hữu phải tự chứng minh nhãn
hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng thông qua các tiêu chí cụ thể. Điều này đã
làm cho công tác chứng minh mất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc. từ đó
quyền và lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng sẽ bị xâm phạm, không
được bảo vệ một cách kịp thời.
Thứ hai, công tác thực thi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng thì tại
Việt Nam chưa cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu nổi tiếng cho bất kỳ một nhãn
hiệu nổi tiếng nào. Thực tế, các nhãn hiệu nổi tiếng như Cocacola, Pepsi, Honda,
… chỉ được cấp giấy chứng nhận hang hóa, chứng nhận nhãn hiệu thông thường.
Điều này cũng đã gây rất nhiều khó khan, rắc rối khi có tranh chấp xảy ra.

Thứ ba, tình trạng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng còn diễn ra
phổ biến, dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau mà các giải pháp, biện pháp
cụ thể để giải quyết những vướng mắc này thì còn rất ít, tỏ ra kém hiệu quả
khiến công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền như Công an,
hải quan, đội quản lý thị trường gặp rất nhiều khó khan trong việc áp dụng pháp
luật. Ví dụ như các mẫu mã quần áo trên thị trường hiện nay chủ yếu là hang
may gia công, giá rẻ nhưng lại gắn mác những nhãn hiệu nổi tiếng như VL,
levi’s,… được bày bán tràn lan nhưng lực lượng quản lý thị trường không thể
kiểm soát hết được và nếu phát hiện cũng chỉ xử phạt mức độ nhẹ.


Thứ tư, quy định các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng còn chưa rõ ràng.
Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ quy định 8 tiêu chí được xem xét khi đánh giá nhãn
hiệu nổi tiếng nhưng lại không quy định rõ để một nhãn hiệu được công nhận là
nổi tiếng thì phải thoả mãn tất cả các tiêu chí này hay chỉ một hoặc một số tiêu
chí.
Thứ năm, hiện nay nhiều nhãn hiệu nổi tiếng toàn cầu đã hiện diện ở nước
ta nhưng lại chưa được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam. Lý do là
theo quy định của pháp luật, cần phải có quyết định công nhận của Cục sở hữu
trí tuệ hay bản án, quyết định của Toà án. Đồng thời, các cơ quan thực thi quyền
gặp khó khăn trong xử lý những vụ việc liên quan đến hành vi xâm phạm nhãn
hiệu có danh tiếng, uy tín toàn cầu (INTEL, IBM, BMW...) do quy định chưa rõ
ràng về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn, đối với vụ việc liên
quan đến nhãn hiệu INTEL, bên vi phạm sử dụng nhãn hiệu này cho dịch vụ xây
dựng chứ không phải cho các sản phẩm về máy tính, phần mềm. Thời điểm hiện
tại, chưa có đủ căn cứ để khẳng định INTEL là nhãn hiệu nổi tiếng. Nếu INTEL
được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng, hành vi nêu trên mặc nhiên bị coi là hành
vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
IV. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả với công tác bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng

Thứ nhất, có thể định nghĩa rõ rang hơn về nhãn hiệu nổi tiếng như nhãn
hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến bởi bộ phận người tiêu dung Việt Nam
và có danh tiếng tại Việt Nam và các yếu tố đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng nên
được quy định theo hướng cụ thể hoá 2 điều kiện được xác định trong định
nghĩa nêu trên, đó là: được biết đến rộng rãi bởi bộ phận người tiêu dùng có liên
quan tại Việt Nam; và có danh tiếng tại Việt Nam. Theo đó, cần xem xét một số
yếu tố như mức độ biết đến hoặc công nhận nhãn hiệu bởi bộ phận công chúng
có liên quan; thời gian, quy mô và khu vực địa lý của bất kỳ hoạt động sử dụng,
quảng bá nhãn hiệu bao gồm quảng cáo hoặc quảng bá, giới thiệu tại các triển
lãm, hội chợ đối với hàng hóa,dịch vụ mang nhãn hiệu; thời gian và khu vực địa


lý mà nhãn hiệu đã được đăng ký và/hoặc đã được nộp đơn đăng ký; hồ sơ thực
thi thành công quyền độc quyền nhãn hiệu, đặc biệt là phạm vi mà nhãn hiệu
được công nhận là nổi tiếng bởi cơ quan có thẩm quyền; giá trị gắn liền với nhãn
hiệu.
Thứ hai, các nhãn hiệu nổi tiếng được Cục sở hữu trí tuệ ghi nhận vào
Danh mục nhãn hiệu nổi tiếng. Danh mục này có thể thay đổi bằng cách bổ sung
thêm nhãn hiệu mới hoặc loại bỏ nhãn hiệu trong Danh mục trên cơ sở thực tế
nhãn hiệu đó có thoả mãn các điều kiện để được công nhận là nổi tiếng hay
không.
Thứ ba, pháp luật nên quy định cụ thể về thủ tục công nhận hay đăng ký
nhãn hiệu nổi tiếng, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức có thể chủ động yêu
cầu công nhận nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng khi đã đáp ứng đầy đủ
các tiêu chí theo quy định. Điều này sẽ là cơ sở pháp lý cho các chủ sở hữu nhãn
hiệu có thể hạn chế được các nguy cơ xâm phạm đến nhãn hiệu nổi tiếng của
mình, tránh tình trạng xâm phạm rồi mới xử lý và đặc biệt là khi giải quyết tranh
chấp thì tòa án có thể dựa vào các tiêu chí có sẵn đó để giải quyết các vụ việc
nhanh gọn, hành vi vi phạm sẽ nhanh chóng bị xử lý và chấm dứt.
Thứ tư, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ để đảm bảo quy trình tiếp

nhận và xử lý yêu cầu của các chủ thể được diễn ra nhanh chóng kịp thời. Đẩy
mạnh hơn nữa việc mở các lớp tập huấn, cử các cán bộ đi nghiên cứu, học tập tại
các nước có pháp luật Sở hữu trí tuệ tiến bộ là điều cần thiết.
Thứ năm, về nguyên tắc, thẩm quyền công nhận nhãn hiệu nổi tiếng thuộc
về Cục Sở hữu trí tuệ và Toà án. Trong trường hợp cần thiết, các cơ quan thực
thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính có thể xem xét để khẳng định
một nhãn hiệu là nổi tiếng.Trong quá trình thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu,
trong thủ tục phản đối đơn, huỷ bỏ hiệu lực, chấm dứt hiệu lực giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu hoặc trong quá trình thụ lý giải quyết đơn yêu cầu xử lý hành
vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu bởi các cơ quan có thẩm quyền mà có đơn
yêu cầu của một trong các bên liên quan yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng


thì Cục Sở hữu trí tuệ có thể tùy theo sự việc và các bằng chứng cụ thể của vụ
việc đó, xem xét quyết định liệu nhãn hiệu được yêu cầu có phải là nhãn hiệu
nổi tiếng hay không. Đồng thời, trong quá trình xét xử các tranh chấp dân sự
hoặc hành chính liên quan đến nhãn hiệu, các bên liên quan có thể yêu cầu tòa
án nhân dân có thẩm quyền, tùy theo sự việc và các bằng chứng cụ thể của vụ
việc đó, xem xét công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng
Cuối cùng, nâng cao ý thức tự bảo vệ của chủ sở hữu cũng như người tiêu
dung. Người tiêu dung thì chấp nhận sử dụng hang hóa, dịch vụ vi phạm bởi giá
cả cạnh tranh hoặc cũng có thể không biết đó là sảm phẩm của hành vi xâm
phạm.


C.

Kết luận
Trong quá trình hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển của các loại hang


hóa dịch vụ, với vai trò là thành viên của các tổ chức quốc tế về kinh tế, kí kết
các điều ước Quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp thì việc phát triển,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là một thực tế cấp
thiết đặt ra đối với Việt Nam nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng một cách tối đa, ngăn chặn những hành vi xâm
phạm nhãn hiệu nổi tiếng và giảm xuống ở mức thấp nhất.
Trên đây là bài tiểu luận về đề tài “bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng theo
quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)”. Trong quá
trình tìm hiểu, làm bài thì còn nhiều thiếu sót, mong thầy (cô) có những ý kiến
đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn.


D. Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam,
Nxb. CAND, 2013.
2. Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2009) , Nxb. Lao Động.
3. />4. Nghị định số: 103/2006/NĐ-CP, Nghị định số: 122/2010/NĐ- CP
5. Thông tư số : 01/2007/TT- BKHCN.



×