Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Ý NGHĨA và GIÁ TRỊ TUYÊN NGÔN độc lập của CHỦ TỊCH hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.73 KB, 14 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ
Nhóm số:8
Đề tài nghiên cứu:
Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Trưởng nhóm:
STT

Họ và tên

Nhiệm vụ được
phân công

1

Tìm hiểu và
trình bày
phần I,II

2

Tìm hiểu và
trình bày phần
III, IV

Kết quả đạt
được

Đánh giá
điểm (từ 0
đến 4 điểm)


3,5

3,5

Nhóm trưởng


Bản tuyên ngôn độc lập
“Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy
rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng,
bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái
hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ
nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở
Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản
dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ,
nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân
buôn trở nên bần cùng.


Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta
một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn
cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta
rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta
càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ
Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân
Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo
hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh
để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố
Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt
số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và
nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều
người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam
Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ
không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả

nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay
Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích
thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại
đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng
hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại
biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ
hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.


Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn
thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân
tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không
công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân
tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc
đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”

Hồ Chí Minh



I.Hoàn cảnh ra đời bản Tuyên ngôn độc lập
– Giữa những ngày CMT8 đang diễn ra sôi sục Hà nội, Huế, Sài Gòn đã giành
đựơc chính quyền.
– 25/8/1945 Hồ Chí Minh cùng với TƯ Đảng, UB dân tộc giải phóng từ Tân Trào
về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người, chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân
Chủ Công Hòa được thành lập, công cuộc chuẩn bị cho ngày chính phủ lâm thời
ra mắt trước quốc dân đồng bào được tiến hành khẩn trương.
– Ngày 28/8/1945 chính quyền đã dành được trong toàn quốc. Việt Nam thực
sự trở thành 1 nước độc lập, tự do. Thay mặt cho chính phủ lâm thời Hồ Chí
Minh viết “Tuyên ngôn độc lập” tại gác 2 số 48 phố Hàng Ngang – Hà Nội.
– Ngày 2/9/1945 trước sự chứng kiến của hàng vạn nhân dân thủ đô – đại diện
cho nhân dân cả nước, thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ
Công Hòa, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với nhân dân cả nước và ndân thế
giới bản “Tuyên ngôn Độc Lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Công Hòa.
II. Nội dung cơ bản của bản Tuyên ngôn độc lập
+ Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc Lập, người trích dẫn 2 lời Tuyên ngôn Độc Lập,
đó là Tuyên ngôn Độc Lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền của Pháp
(1791) để khẳng định những quyền thiêng liêng cơ bản của con người mà ko ai
có thể xâm phạm được. Từ đó suy ra ”Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra
đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự
do”. Tuyên ngôn khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc và
thật sự đã trở thành 1 nước tự do độc lập”. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh
mà nhân dân Việt Nam đã giành được từ tay Nhật 8/1945.
+ Trong bản Tuyên ngôn Độc Lập, Hồ Chí Minh đã tố cáo mạnh mẽ tội ác cuả
thực dân Pháp hơn 80 năm cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, thi hành những
luật pháp dã man, lập ra những nhà tù nhiều hơn trường học, tắm các cuộc
khởi nghĩa của ndân ta trong bể máu, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý khiến cho
nhân dân ta bị bần cùng, nước ta têu điều xơ xác.
+ Tuyên ngôn cũng tố cáo thực dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng Nhật kể từ mùa

thu 1940 nước ta trở thành thuộc địa của Nhật – Pháp. Nhưng từ 9/3/1945


Nhật đảo chính hất cẳng Pháp, nước ta đã trở thành thuộc địa duy nhất của
Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, 14/8/1945 nhân dân cả
nước đã nổi dậy dành chính quyền từ tay Nhật lập nên nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa.
+ Tuyên ngôn khẳng định: Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị nhân dân
ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm nay, đánh đổ chế độ quân chủ
chuyên chế mấy mươi thế kỷ, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
+ Tuyên ngôn tuyên bố thoát li mọi quan hệ với Pháp, xoá bỏ mọi đặc quyền
của Pháp ở Việt Nam và các Hiệp ước Pháp ký về Việt Nam, nhân dân Việt Nam
kiên quyết chống lại mọi âm mưu quay trở lại của thực dân Pháp, đồng thời
kêu gọi các nước đồng minh công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam
vừa dành đựơc từ tay phát xít Nhật
+ Cuối cùng bản tuyên ngôn khẳng định nước Việt Nam đã được tự do và độc
lập, nhân dân Việt Nam quyết không quản ngại hi sinh để bảo vệ quyền tự do
và độc lập ấy: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng và tính mạng, của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
III. Ý nghĩa bản Tuyên ngôn độc lập
Chúng ta đã từng được biết đến Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch
tướng sỹ của Trần Quốc Tuấn và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đều được
coi là những bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam. Nhưng, cả ba bản
Tuyên ngôn này đều mới chỉ dừng lại ở giá trị “nước phải độc lập”.
Là người Viêt Nam yêu nước, thương dân nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
đầu tiên của Viêt Nam đã thống nhất hai nôi dung “nước phải đ ôc l âp” và
“dân phải tự do”. Chính vì thống nhất hai mục tiêu “nước đ ôc lâp” và “dân phải
tự do, hạnh phúc” mà Hồ Chủ tịch là người đầu tiên của nhân loại đã giương
cao hai ngọn cờ “Đôc lâp dân tôc” và “Chủ nghĩa xã hôi” trong thời đại ngày
nay. “Không có gì quý hơn đôc lâp tự do ” là điểm xuất phát và là nội dung lớn

nhất trong sự nghiệp cách mạng của Người, là chân lý sáng ngời thời đại do
Người vạch ra mãi soi sáng cho cách mạng Vi êt Nam và cách mạng nhân loại.
Tính dân tộc và tính thời đại được thể hiện rất rõ ràng và súc tích trong tư
tưởng chủ đạo xuyên suốt của bản Tuyên ngôn Đôc lâp là “Không có gì quý
hơn độc lập tự do”. Bản Tuyên ngôn Đôc lâp của nước Viêt Nam Dân chủ Công
hòa vì thế là một “áng thiên cổ hùng văn” của dân tộc Vi êt Nam và của nhân
loại.


Bản Tuyên ngôn Đôc lâp được viết và hoàn thành trong môt thời gian rất ngắn.
Nhưng nhất định Tuyên ngôn Đôc lâp - một văn bản chính luận hiện đại với hệ
thống lý lẽ đanh thép và hệ thống dẫn chứng hùng hồn không thể chối cãi, có
sức thuyết phục cao - phải là kết quả của cả một quá trình trăn trở, suy ngẫm
trong hành trình tìm đường cứu nước qua nhiều quốc gia trên thế giới của Chủ
tịch Hồ Chí Minh; là kết quả của thực tiễn lãnh đạo tài tình đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi của Người. Tuyên ngôn Đôc l âp đã thể hiện sự sáng suốt,
nhạy bén và tầm nhìn chiến lược sâu rộng, khả năng dự báo thiên tài của Chủ
tịch Hồ Chí Minh; là kết quả của tầm nhìn sâu rộng, của bao suy nghĩ trăn trở,
và hơn cả là của một tấm lòng luôn luôn hướng về đất nước, về nhân dân của
Hồ Chủ tịch.
Có được thành quả to lớn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam thắng lợi của cách mạng giành chính quyền chỉ diễn ra trong thời gian ngắn
nhất, tổn thất nhỏ nhất, nhưng thành công lớn nhất, triệt để nhất trong lịch sử
nhân loại - công đầu phải thuôc về sự nghiêp cách mạng của nhân dân Vi êt
Nam, nhưng vai trò của Hồ Chủ tịch là không thể phủ nhân. Trực tiếp lãnh đạo
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người đã dự đoán thiên tài “Đồng minh
thắng, phát xít thua, Việt Nam nhất định độc lập”, và Người đã chớp lấy thời
cơ kịp thời nhất đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vĩ đại.
Tuyên ngôn Đôc lâp là kết quả của thực tiễn cách mạng nhân đạo công sản của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thực tiễn 1911 - 1919, sau bản Yêu sách của nhân dân
An Nam đã cho Người câu trả lời: “Đâu đâu trên thế gian này cũng chỉ có hai

hạng người, môt hạng người áp bức bóc lôt và môt hạng người bị áp bức bóc
lôt. Đâu đâu trên thế gian này cũng chỉ có môt sự thât là tnh ái hữu giữa
những người vô sản”. Người đã từ bỏ dân chủ tư sản, đến với dân chủ vô sản
không chỉ vì đôc lâp dân tôc mà chủ yếu vì hạnh phúc của nhân dân. Người đã
viết Bản án chế độ thực dân Pháp vào năm 1925 trên tinh thần luận tội kẻ thù
đã xâm phạm quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá
nhân con người và dân tộc, không chỉ ở Việt Nam, Đông Dương mà còn ở cả
châu Phi, châu Mỹ Latinh. Người lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho
Viêt Nam, vì Người đã nhân thức được răng cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp
đều không triêt để, cách mạng thắng lợi rồi mà công, nông vẫn bị áp bức. Chỉ
có Cách mạng Tháng Mười Nga mới là cuôc cách mạng triêt để: nước Nga có
chuyên lạ đời, là người nô lê trở thành người tự do. Dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, với tấm lòng nhân ái bao la của mình mà Người đã chỉ rõ con
đường giải phóng của con người Việt Nam, – cách mạng vô sản - góp phần chỉ
rõ con đường giải phóng của các dân tộc thuộc địa và của nhân dân lao động


toàn thế giới. Hành trình cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hành trình
kiên định đấu tranh vì nền độc lập tự do, vì hạnh phúc của con người lao động
cực khổ trên toàn thế giới.
Đứng trước những thử thách khắc nghiệt của lịch sử, một dân tộc không biết
đấu tranh cho độc lập, tự do thì rõ ràng không xứng đáng được hưởng nền độc
lập, tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
dân tộc Việt Nam đã trải qua những chặng đường gian lao, đầy máu và nước
mắt; nhân dân Việt Nam đã chịu kiếp đọa đày, áp bức dưới gông xiềng của chủ
nghĩa thực dân ngót gần trăm năm; non sông Việt Nam đã bị cắt chia thành 3
kỳ bởi mưu đồ tàn độc triệt tiêu sức mạnh tiềm tàng của lòng yêu nước, sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân... Từ trong những đêm dài nô lệ, tăm tối,
nhân dân Việt Nam đã vùng lên “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm
nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập [..] đánh đổ chế độ quân chủ mấy

mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.
Các ý nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập là:
a)Sự ra đời bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Vi êt Nam Dân chủ C ông hòa
thực sự là một mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam; đã khẳng định
những quyền dân tôc cơ bản của dân tôc Viêt Nam và trở thành một cuộc đối
thoại lớn có ý nghĩa lịch sử trọng đại: Tuyên bố với thế giới về việc chấm dứt 80
năm đô hộ của thực dân Pháp và hàng nghìn năm phong kiến ở Việt Nam;
Tuyên bố sự ra đời và yêu cầu Quốc tế công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa; Khẳng định quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập của Việt Nam; Thể hi ên quyết tâm cao nhất của dân t ôc
trong đấu tranh giữ gìn đôc lâp dân tôc, tự do hạnh phúc của nhân dân.
Nếu như bản tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp chỉ đơn thuần đề cập đến
quyền con người như một sự tất yếu của tạo hóa thì Chủ tịch Hồ Chí Minh băng
trí tuệ mẫn tiệp, băng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam
đã phát triển sáng tạo, đưa ra một mệnh đề không thể phủ nhận về quyền độc
lập của mọi dân tộc. Quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để
bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con
người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân
tộc. Giáo sư Nhật Bản Singô Sibata từng đánh giá: “Cống hiến nổi tiếng của cụ
Hồ Chí Minh là ở chỗ đã phát triển quyền con người thành quyền dân tộc”.


b)Ngay sau Lễ tuyên thệ của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, Người nói: “Độc lập tự do là của quý báu, quý giá vô ngần, ta đã khổ sở
trong bao nhiêu năm mới giành được, cần cố gắng giữ gìn, bảo vệ”. Ngay sau
tuyên bố trịnh trọng với dân tôc và toàn thế giới về quyền bình đẳng thế giới
của dân tôc, quyền mưu cầu tự do sung sướng của nhân dân và tuyên bố quyết
tâm cao nhất của dân tôc Viêt Nam để quyết giữ gìn đôc lâp tự do ấy, là những
tuyên bố danh thép khác của Người: “Tôi chỉ có môt ham muốn, ham muốn tôt

bâc, là làm sao nước ta được hoàn toàn đôc lâp, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo măc, ai cũng được học hành”, “Nước đ ôc l âp
mà dân không được tự do hạnh phúc thì đôc lâp đó chẳng có ý nghĩa gì” “Thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô l ê”,
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”,..(Trích Hồ Chí Minh toàn tập) đã khích lê
dân tôc Viêt Nam đánh thắng các đế quốc to, hùng mạnh nhất thế giới và thời
đại ở thế kỷ XX, giữ vững đôc lâp dân tôc và đang từng bước mang lại ngày
càng nhiều các hạnh phúc to lớn cho nhân dân.
Nền độc lập, tự do mà nhân dân Việt Nam giành lại được “là hoa, là quả của
bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hi sinh của những người con
anh dũng của dân tộc Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung trên những
hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. [...] là kết quả của bao nhiêu
hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam”. Những
tuyên bố đanh thép trong bản Tuyên ngôn độc lập về quyền độc lập, tự do tất
yếu của dân tộc Việt Nam đã “đánh đòn phủ đầu”, đập tan những luận điệu
xuyên tạc trong âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp và ý đồ can
thiệp của các nước đế quốc đối với Việt Nam. Mọi hành vi xâm phạm độc lập,
chủ quyền của Việt Nam đều vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại với xu
hướng phát triển chung của nhân loại tiến bộ. Toàn thể dân tộc Việt Nam
“quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”.
c) Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong một
thời điểm trọng đại và phức tạp của lịch sử, có ý nghĩa xác lập tính hợp pháp và
hợp hiến của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; là tác phẩm bất hủ của Hồ
Chủ tịch; là bản anh hùng ca mở đầu kỷ nguyên mới Đôc l âp tự do và Chủ
nghĩa xã hôi của dân tôc Việt Nam. Ngày nay, Tuyên ngôn Đôc lâp đồng thời
còn có giá trị đấu tranh bác bỏ những lý lẽ láo xược cùng âm mưu tái chiếm
Việt Nam của các lực lượng thù địch, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư
luận quốc tế vì môt nước Viêt Nam đôc lâp có chủ quyền toàn ven lãnh thổ.



d) Bản Tuyên ngôn Đôc lâp không còn chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà
đó còn là sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế
giới, đặc biệt là các dân tộc kém và chưa phát triển. Tuyên ngôn Độc lập của
nước Việt Nam Dân chủ Công hòa đã được thế giới coi như là Tuyên ngôn nhân
quyền của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới.
“Đó là một đạo luật mới của nhân dân thế giới khẳng định quyền tự do, độc
lập bất khả xâm phạm của các dân tộc bị áp bức” (Đánh giá ý nghĩa quốc tế, ý
nghĩa thời đại của Tuyên ngôn độc lập của nước ta, trong lễ trao băng Tiến sĩ
luật khoa danh dự cho Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1959, của ông Giám đốc
Trường Đại học Tổng hợp Băng-Đung (Indonesia)).
IV.Giá trị bản Tuyên ngôn độc lập
1.Giá trị văn học
Tuyên ngôn Độc lập còn là một tác phẩm văn chương mẫu mực mà ở tác phẩm
ta cảm nhận được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận với chất văn
chương mang tư tưởng lớn lao của thời đại mới.
a) Tuyên ngôn Độc lập là bài văn chính luận mẫu mực :
– Sức thuyết phục mạnh mẽ được toát ra từ lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép
tác động mạnh đến lí trí người đọc người nghe
Nhiệm vụ của phần mở đầu của một bản tuyên ngôn là nêu nguyên lí chung
làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài.
Để xác định cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của mình Bác đã mở đầu băng
cách trích dẫn 2 câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới
Bản Tuyên ngôn Độc Lập 1776 của Mĩ viết :“Tất cả mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”.
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1791 cũng nói :
“Người ta sinh ra có quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi. Và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

–>Băng cách ấy, Bác không chỉ đặt cơ sở tư tưởng vững chắc cho bản Tuyên
ngôn Độc lập mà còn khéo léo và kiên quyết khẳng định quyền độc lập tự do
của dân tộc ta băng chính những lời lẽ của người Pháp người Mĩ, dùng gậy ông


đập lưng ông nhăm rung lên hôi chuông cảnh báo ngăn chặn âm mưu xâm lược
của chúng
–>Băng cách mở đầu như thế, Bác đã đặt ba cuộc cách mạng ngang nhau, ba
nền độc lập ngang nhau. Bác đã nâng tầm vóc văn hóa Việt Nam sánh ngang
với ánh sáng văn minh thế giới
Nét sáng tạo mới mẻ trong ngòi bút chính luận Hồ Chí Minh không chỉ ở việc
trích dẫn trong 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng mà Bác còn suy rộng phát triển vấn
dề lên thành một tư tưởng mới :
+ Những gì tuyên ngôn của người Pháp người Mĩ đưa ra đều đáp ứng cho nhu
cầu thuộc về cá nhân, về cái tôi của mỗi người, không có bóng dáng của lập
trường dân tộc
+ Tài lập luận của Bác là ở chỗ Bác cho răng mọi người là tất cả con người, tất
cả con người làm thành dân tộc. Do đó mọi người có thể thay thế băng dân
tộc : “Từ lời nói bất hủ ấy suy rộng ra có nghĩa là : Tất cả các dân tộc trên thế
giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Óc suy luận của nhà chính trị Hồ Chí Minh quả là sáng suốt và lôgic, biết cách
dùng từ và dùng đúng chỗ. Từ quyền con người Bác đã vận dụng thiết thực và
sáng tạo vào quyền độc lập dân tộc, từ khái niệm con người cá nhân sang khái
niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục.
2.Giá trị lịch sử bản Tuyên ngôn độc lập
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử to lớn :
a) Sự kế thừa hết sức khéo léo, chặt chẽ của Người từ hai bản tuyên ngôn nổi
tiếng trong lịch sử nhân loại, Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Pháp, đã buôc đế quốc Pháp và đế

quốc Mỹ thừa nhận về quyền con người và quyền độc lập tự do của dân tộc
Viêt Nam nói riêng, của mọi dân tôc trên thế giới nói chung.
b) Việc kế thừa hết sức tài tình hai bản tuyên ngôn ấy của Người đã làm cho
Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Công hòa và hai bản tuyên
ngôn bất hủ ấy của nhân loại có cùng vị trí như nhau trên trường quốc tế. Vì
thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân
tộc lớn nhất của Viêt Nam.


c) Nâng quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc là một sáng tạo thiên tài
của Hồ Chủ tịch, thể hiện tâm huyết lớn của Người dành cho dân tộc Vi êt Nam
và các dân tôc trên thế giới. Người đã phát triển quyền lợi của con người thành
quyền lợi của dân tộc; Khẳng định tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết
định lấy vận mệnh của mình.
d) Phần lớn nôi dung mở đầu của bản Tuyên ngôn Đôc lâp là nhăm tố cáo,
vạch trần bản chất cướp nước, giả danh nhân đạo, lợi dụng lá cờ tự do bình
đẳng, phi nhân, phi nghĩa trái với nhân đạo và chính nghĩa của thực dân Pháp.
Cùng với hai tác phẩm Bản án chế đô thực dân Pháp và Đây Công lý của thực
dân Pháp ở Đông Dương, bản Tuyên ngôn Đôc lâp của Người không chỉ tố cáo
vạch trần tôi ác của chủ nghĩa thực dân trước công luận thế giới, mà còn có tác
dụng giúp nhân loại phòng tránh và chống thành công hiên tượng phản văn
hóa nhất của thế kỷ XX là chủ nghĩa thực dân.
e) Sau khi tố cáo những tôi ác tầy trời của bọn thực dân và phong kiến tay sai,
chỉ một câu “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khái quát được tất cả những biến động lớn nhất của Việt Nam ở nửa đầu
thế kỷ XX, đặt dấu chấm hết cho các thể chế cũ, mở ra một thời đại mới với
môt thể chế chính trị mới của Viêt Nam - Thể chế Dân chủ C ông hòa. Bản
Tuyên ngôn Độc lập vì thế là kết quả của bao nhiêu xương máu của bao nhiêu
thế hê đồng bào Việt Nam; Là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin
tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam; Là “tiếp nối bài thơ của Lý Thường

Kiêt trên sông Như Nguyêt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,.. thể hiên
truyền thống bất khuất kiên cường của dân tôc Viêt Nam trong công cu ôc đấu
tranh giành đôc lâp”, mà nếu mô tả nó thì “phải vẽ môt thanh gươm và tô
đâm môt màu máu. Máu nhuôm đỏ ruông nương nơi ta cầy cấy, máu nhu ôm
đỏ cầu ao nơi em ta giăt giũ hàng ngày, máu nhuôm đỏ mảnh sân nơi con ta nô
đùa ngày bé. Dân tôc Viêt Nam từ trong máu lửa mà đi lên, dân tôc ấy anh
dũng biết nhường nào!”
Bảo vệ chủ quyền và lợi ích dân tộc
Sáu mươi chín năm đã trôi qua nhưng những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập về sự thống nhất biện chứng giữa
quyền dân tộc và quyền con người, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên
quyết để giữ vững nền độc lập tự do vẫn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
quán triệt, vận dụng và phát triển tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh trong
công cuộc đổi mới, khẳng định “Con người là trung tâm của chiến lược phát


triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm
chủ của nhân dân”.
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng chỉ rõ: Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Nhân dân làm chủ; thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng văn minh, mọi người có cuộc
sống ấm no hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Tôn trọng quyền con
người cũng chính là tạo động lực để thúc đẩy sự phát triển của xã hội bởi con
người là chủ thể xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự kiện Việt Nam được bầu làm
thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 (ngày
12/11/2013) không chỉ thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta “coi
quyền con người là giá trị và nguyện vọng chung của nhân loại, thể hiện chính

sách nhất quán, tôn trọng, bảo đảm quyền con người và chủ trương tăng
cường đóng góp và thúc đẩy hợp tác quốc tế của Việt Nam trên lĩnh vực này”
mà còn là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ và bảo đảm ngày càng tốt hơn
các quyền của người dân.
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh-quốc
phòng... Tuy nhiên, đất nước cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức, trong đó, theo nhận định của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, “đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố,
tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích
kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp”; đặc biệt là tình hình xâm phạm và tranh chấp
chủ quyền ở Biển Đông đang đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia, độc lập
dân tộc và toàn ven lãnh thổ.
Trong bối cảnh quan hệ quốc tế đa chiều, phức tạp, Đảng ta xác định bảo vệ
nền độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm
quyền con người, bảo đảm cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân. Việt Nam là đất nước yêu chuộng hòa bình đồng thời, như Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phát biểu trước báo chí quốc tế về Biển Đông:
“Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì
chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong
muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ,


chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận
đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển
vông, lệ thuộc nào đó”.
Lập trường kiên định của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo
chính là sự nối tiếp và tỏa sáng ý chí kiên cường bất khuất, quyết tâm bảo vệ

nền độc lập, tự do mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt cho 20 triệu đồng bào
tuyên bố trước toàn thể thế giới tại quảng trường Ba Đình lịch sử: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Trong bối cảnh ngày nay - chiến tranh vẫn không ngừng vang lên ở châu Phi,
Trung Cận Đông, bán đảo Bancăng,.. trong đó không thể không có sự nhúng tay
của chủ nghĩa đế quốc - những giá trị vạch thời đại và trường tồn của Tuyên
ngôn Độc lập 1945 của Việt Nam: Thống nhất đôc lâp dân tôc với tự do, hạnh
phúc của nhân dân là đồng thời giương cao hai ngọn cờ đôc lâp dân tôc và chủ
nghĩa xã hôi; Thống nhất biên chứng quyền con người với quyền dân tôc, đ ăt
cơ sở khoa học và nền móng pháp lý cho công cuôc xây dựng nhà nước của
dân, do dân và vì dân, xác lâp nền văn hóa chính trị dân chủ mới – dân là gốc;
Khẳng định quyền tự quyết và thể hiên quyết tâm cao nhất của mỗi dân tôc
trong đấu tranh giữ gìn đôc lâp dân tôc;.. cùng với tinh thần đấu tranh không
mệt mỏi và không khoan nhượng cho độc lập tự do của dân tộc và quyền sống,
quyền hạnh phúc của con người của nhân dân và dân tôc Việt Nam mãi mãi
không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà mãi mãi còn nguyên tính thời đại.



×