Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Quyền đại diện giữa vợ và chồng theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.72 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình được pháp
luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng khi tham gia
vào các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, lao động… khi chính họ không
thể trực tiếp tham gia các giao lưu dân sự đó và cũng là đảm bảo cho quyền và
lợi ích của bên thứ ba khi tham gia giao dịch, vì lý do đó Luật hôn nhân và gia
đình 2014 đã quy định về các căn cứ để xác lập quyền đại diện giữa vợ và
chồng, các trường hợp đại diện,... để hiểu rõ hơn về vấn đề nhóm em xin được
chọn đề số 03 về: Quyền đại diện giữa vợ và chồng theo luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA
VỢ VÀ CHỒNG
1. Khái niệm đại diện
Theo từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất
bản Tư pháp thì đại diện được hiểu như sau như sau:
"Đại diện được việc một người, một cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực
hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện". Như vậy đại diện có
thể được tiếp cận với các ý nghĩa sau:
- Là một tiểu chế định pháp luật dân sự - hôn nhân và gia đình. Chế định pháp
luật về đại diện ở đây có thể hiểu theo nghĩa hẹp đó là là tổng thể các quy phạm
pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình điều chỉnh nhóm quan hệ về đại diện giữa
những chủ thế pháp luật nhất định, cụ thể. Các cá nhân, tổ chức tham gia vào
quan hệ đại diện bắt buộc phải tuân thủ các quy định pháp luật về đại diện.
- Đại diện còn được tiếp cận là một quan hệ pháp luật dân sự - hôn nhân và gia
đình


Qua việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự khẳng định đại diện là một
quan hệ pháp luật dân sự
2. Khái niệm đại diện giữa vợ và chồng


“Đại diện giữa vợ và chồng là việc một bên vợ hoặc chồng nhân danh
bên kia hoặc nhân danh vợ chồng, xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch theo
quy định của luật HN&GĐ, BLDS và các luật khác liên quan hoặ theo ý chí của
vợ (hoặc chồng) ủy quyền cho chồng (hoặc vợ) thực hiện thay trong các giao
dịch mà pháp luật đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng, nhằm bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, của gia đình và bên thứ ba trong
giao dịch1”.
3. Bản chất pháp lí và đặc điểm của đại diện giữa vợ và chồng
a , Bản chất pháp lí
- Bản chất pháp lí của quan hệ đại diện giữa vợ và chồng là đại diện trong quan
hệ dân sự với tư cách là một cá nhân. Với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong
giao lưu dân sự vợ, chồng vừa tham gia với tư cách là một cá nhân độc lập trong
quan hệ dân sự, thương mại, nhưng bên cạnh đó lại tham gia với tư cách đặc biệt
là đại diện cho vợ hoặc chồng mình và đôi khi là đại diện cho cả gia đình
- Đại diện giữa vợ và chồng là đại diện gắn với tài sản chung (TSC) của gia đình
và tài sản riêng (TSR) của mỗi bên. Pháp luật thừa nhận quyền đại diện giữa vợ
và chồng nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng linh hoạt trong việc thực hiện các
chức năng của gia đình. Trên cơ sở đại diện hợp pháp, vợ hoặc chồng có thể tự
mình xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến TSC, TSR phù
hợp với lợi ích của cá nhân vợ hoặc chồng và gia đình.

1 Luận văn Thạc sĩ luật học về vấn đề đại diện theo pháp luật theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014/ Nguyễn
Khánh Linh


- Đại diện giữa vợ và chồng nhằm bảo đảm lợi ích của người được đại diện, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình. Mỗi hành động đại diện đều không
chỉ vì lợi ích của người được đại diện mà còn vì lợi ích của gia đình, con cái.
b, Đặc điểm .
- Đại diện giữa vợ và chồng chỉ đặt ra khi được pháp luật thừa nhận là vợ chồng

hợp pháp, nhĩa là hai người phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn và đăng
kí kết hôn.
- Vợ và chồng đại diện cho nhau trong các quan hệ liên quan tới tài sản. Vợ
chồng không thể xác lập quan hệ đại diện liên quan đến các quyền và nghĩa vụ
gắn liền với nhân thân của họ được, ví dụ: quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡn, giáo dục con cái,...
- Trong quan hệ đại diện, lợi ích của người được đại diện, người đại diện thống
nhất với nhau và trong nhiều trường hợp còn gắn liền với lợi ích chung của gia
đình. Trong nhiều trường hợp, các giao dịch liên quan đến TSC của vợ chồng
nên nhiều khi không phân biệt rõ ràng ai là người đại diện, ai là người được đại
diện nhưng tóm lại là lợi ích là thống nhất với nhau và gắn lợi ích chung gia
đình.
3. Ý nghĩa của việc quy định về quyền đại diện giữa vợ và chồng theo quy định
của pháp luật.
- Góp phần xóa bỏ tư tưởng bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình
phong kiến: người chồng là chủ gia đình, người vợ được coi là không có năng
lực pháp lí trong gia đình.
- Khẳng định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình với tư cách là
một cá nhân.


- Đại diện là công cụ pháp lí hữu hiệu để vợ chồng có thể thực hiện được tất cả
các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách linh hoạt và hiệu quả nhất, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và gia đình.
- Đại diện là công cụ hữu hiệu để hỗ trợ giao lưu dân sự ngày càng an toàn và
hiệu quả.
- Đại diện là cơ sơ pháp lí để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba
trong giao lưu dân sự.
- Đảm bảo sự tương đồng hài hòa với pháp luật quốc tế và xu hướng tiến bộ của
nhân loại trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong quan hệ giữa vợ và chồng.

CHƯƠNG 2 NỘI DUNG QUYỀN ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
1.Căn cứ xác lập
Điều 24 luật HN&GĐ 2014 quy định: “1. Việc đại diện giữa vợ và chồng
trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của
Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch
mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan
phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên
kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp
luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải
tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ


luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực
hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn”. Như vậy trên cơ sở của bộ luật dân sự
2015 (BLDS), luật HN&GĐ 2014 đã quy định hình thức đại diện giữa vợ và
chồng: Đai diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
Điều 135 BLDS 2015 quy định căn cứ xác lập đại diện theo pháp luật: “Quyền
đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện
(sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật
(sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”. Còn đại diện theo ủy quyền
(UQ) theo khoản 1 điều 138 BLDS: “1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền
cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” là việc hai
bên dựa trên sự tự do ý chí xác lập một quan hệ ủy quyền làm phát sinh quyền

và nghĩa vụ theo pháp luật về đại diện.
Việc đại diện giữa vợ và chồng cũng theo hai hình thức đại diện trên, thay mặt
nhau xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến TSC của
gia đình và TSR của một trong hai bên.
2. Đại diện theo pháp luật
Theo khoản 3 điều 24 luật HN&GĐ thì điều kiện để việc đại diện cho
nhau giữa vợ và chồng được xác định như sau:
a, Đại diện giữa vợ và chồng khi một trong hai bên bị mất NLHVDS
Điều 19 BLDS quy định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự” mà một người bị coi là mất NLHVDS khi: “1. Khi một người do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành
vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ


chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần”.
Đối với người mất NLHVDS thì pháp luật quy định bắt buộc phải có
người giám hộ. BLDS 2015 quy định vợ hoặc chồng là người giám hộ đương
nhiên, đầu tiên của vợ hoặc chồng bị mất NLHVDS khi người này không có
người giám hộ được xác định theo khoản 2 điều 48 BLDS 2015. Khoản 1 điều
53 BLDS quy định: “Trường hợp không có người giám hộ theo quy định tại
khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này thì người giám hộ đương nhiên của người mất
năng lực hành vi dân sự được xác định như sau:
1.Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám
hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ”.
Sở dĩ quy định như vậy là do bản chất của quan hệ hôn nhân, người vợ
chồng là người gần gũi nhất, cùng sống chung, sinh con đẻ cái, tạo dựng gia
đình,... Khi một bên bị mất NLHVDS thì người còn lại đại diện sẽ thuận lợi
trong việc quản lí, sử dụng tài sản chung vì lợi ích của vợ chồng và gia đình.

Người vợ hoặc chồng là người đại diện theo pháp luật của người còn lại khi thỏa
mãn quy định tại điều 49 BLDS 2015
=>Vợ hoặc chồng làm đại diện theo pháp luật của người bị mất NLHVDS sẽ có
nhiều quyền và nghĩa vụ hơn khi làm đại diện được quy định tại khoản 1 điều 57
khoản 1 điều 58, khoản 2 điều 59 BLDS 2015.
b, Đại diện giữa vợ và chồng khi một bên bị hạn chế NLHVDS
Một cá nhân bị coi là bị hạn chế NLHVDS khi: Nghiện ma túy, chất kích
thích khác (theo khoản 11 điều 2 luật Phòng chống may túy 2013), phát sinh hậu
quả về tài sản từ tình trạng nghiện chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản của gia
đình, có yêu cầu hạn chế NLHVDS đối với người này của người có quyền, lợi


ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, có quyết định có hiệu lực của Tòa án
(điều 24 BLDS 2015).
=> Khả năng tham gia giao dịch dân sự của người này bị hạn chế ( bị chi phối
bởi chất kích thích dẫn đến phá tán tài sản của gia đình). Những giao dịch có
liên quan đến người này phải có sự đồng ý của người đại diện.
Tại khoản 3 điều 24 luật HN&GĐ: “3.Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên
mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ
hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án
chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo
quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có
liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ
luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực
hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn”. Việc quy định này là hoàn toàn phù
hợp với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hạn chế
NLHVDS. Người đại diện đóng vai trò giám sát, đồng ý hoặc không đồng ý cho
xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự; nếu giao dịch nào mà không

có sự đồng ý của người đại diện thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bó giao dịch
vô hiệu theo điều 122 BLDS.
3. Đại diện theo ủy quyền
Các trường hợp đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng theo Luật
HN&GĐ 2014
(1) Trường hợp đại diện giữa vợ và chồng có liên quan đến tài sản chung của vợ
chồng
* Đại diện trong trường hợp bắt buộc phải có sự thỏa thuận của vợ chồng


Theo khoản 2 điều 35 luật HN&GĐ 2014 quy định: “Việc định đoath tài
sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những
trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình”.
=>Đối với những tài sản chung có giá trị lớn thì quy định trên bảo đảm nguyên
tắc vợ và chồng bình đẳng với tài sản chung và bảo đảm lợi ích chung của gia
đình.
Ví dụ: Trong thời gian người chồng đi làm ăn xa nhà, người vợ có quyền
thế chấp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng để vay vốn, sản xuất
kinh doanh nếu người chồng đã có văn bản ủy quyền cho người vợ thay mặt
mình thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung này.
Nếu tự ý định đoạt các loại tài sản trên mà không có sự thỏa thuận đồng ý
của bên kia thì bị coi là vi phạm quyền định đoạt tài sản của bên kia. Người
không được thể hiện sự thuận ý có quyền yêu cầu tòa án xác định, tuyên bố HĐ
vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lí của giao dịch vô hiệu, tòa án cũng xác định
giao dịch đó vô hiệu toàn bộ. Trên thực tế có nhiều trường hợp vợ hoặc chồng tự
ý định đoạt tài sản chung nhưng sau đó người còn lại biết được và nhất trí ưng
thuận với giao dịch đã xác lập. Về mặt pháp lí những giao dịch như vậy vẫn

được coi là hợp pháp. Quan điểm trên cũng được thể hiện trong Án lệ số
04/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày
06/04/2016 về vụ án “ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
* Trường hợp vợ chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh


Tại khoản 2 điều 25 luật HN&GĐ 2014: “2. Trong trường hợp vợ, chồng
đưa tài sản chung vào kinh doanh thì áp dụng quy định tại Điều 36 của Luật
này”.
Việc sử dụng tài sản chung cho một bên kinh doanh phải có sự thỏa thuận
của vợ chồng. Vợ chồng có quyền thỏa thuận với nhau về việc một bên đưa một
phần hoặc toàn bộ tài sản chung vào kinh doanh. Pháp luật ghi nhận việc thoả
thuận của các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của chủ sở hữu
Trường hợp ngoại lệ :Sự thỏa thuận về tài sản của vợ chồng được coi là
văn bản UQ trong việc sử dụng và định đoat tài sản. Quy định này tạo ra sự linh
hoạt trong hoạt động sản xuất và kinh doanh của vợ chồng, bảo đảm quyền và
lợi ích của vợ chồng. Ví dụ: Cán bộ , công chức, viên chức theo quy định của
pháp luật không được phép thành lập, góp vốn, mua cổ phần, quản lí doanh
nghiệp khi có sự thỏa thuận với vợ hoặc chồng mình về việc một bên đưa tài sản
chung vào kinh doanh.
Sự thỏa thuận bằng văn bản dễ thể hiện ý chí của hai bên trong việc cử
người chồng hoặc vợ trực tiếp kinh doanh là người đại diện cho vợ chồng thực
hiện các hành vi kinh doanh; nó là cơ sở pháp lí để xác định tài sản chung cũng
như trách nhiệm chung về tài sản của vợ chồng trong suốt thời gian kinh doanh.
=>Quy định tại luật HN&GĐ 2014 là hợp lí, đảm bảo quyền và lợi ích của của
vợ chồng; phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay cũng như đáp ứng tính
linh hoạt, năng động của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp
dụng điều 36 còn ít, nhiều trường hợp vợ chồng không lập văn bản thỏa thuận
nên dẫn đền tình trạng khó khăn khi xảy ra tranh chấp.
* Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu,

giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc
chồng


Căn cứ vào Điều 34 luật HN&GĐ quy định về việc đăng kí quyền sở hữu,
quyền sử dụng đối với tài sản chung và theo tinh thần của Nghị định 126/2014/
NĐ-CP (cụ thể tại khoản 1 điều 12) hướng dẫn: “1. Tài sản chung của vợ chồng
phải đăng ký theo quy định tại Điều 34 của Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm
quyền sử dụng đất, những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sử dụng, quyền sở hữu.”
Trên thực tế giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở tại các vùng nông
thôn, miên núi phần lớn đều do người chồng đứng tên. Đối với một số loại tìa
sản pháp luật vẫn chưa quy định rõ ràng việc đăng kí tên của cả hai vợ chồng
như: ô tô, xe máy, du thuyền,...dẫn đến khó khăn trong việc xác định.
Nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trên và bảo vệ quyền, lợi ích
của vợ chồng, người thứ ba liên quan, sự an toàn trong việc xác lập, thực hiện
các giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng thì theo khoản 2 điều 34 luật
HN&GĐ. Cụ thể điều 26 luật HN&GĐ quy định: “1. Việc đại diện giữa vợ và
chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản
chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài
sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều
25 của Luật này.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm
dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng
của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp
luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi”.
Theo đó, vợ hoặc chồng đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản chung của vợ chồng sẽ không đương nhiên là người đại
diện cho người còn lại để xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan. Việc định



đoạt tài sản này phải tuân thủ quy định về đại diện tại điều 25 và 24 luật
HN&GĐ 2014 về căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng.
Việc quy định tại khoản 2 điều 26 về bảo vệ người thứ ba ngay tình có ý
nghĩa quan trọng, không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người thứ ba giúp
họ yên tâm mà còn bảo đảm tính ổn định, thưc đẩy sự phát triển của các giao
dịch dân sự.
(2) Đại diện trong các giao dịch liên quan đến tài sản sản riêng của vợ, chồng
* UQ cho một bên thực hiện quyền đại diện liên quan đến tài sản riêng của bên
kia
Tại điều 43 luật HN&GĐ quy định về TSR của vợ, chồng. Về nguyên tắc,
khi vợ hoặc chồng có tài sản riêng thì họ có toàn quyền quyết định liên quan đến
tài sản đó trừ trường hợp tại khoản 4 điều 44 luật HN&GĐ: “4. Trong trường
hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn
sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của
chồng, vợ.”
Khoản 1 điều 44 luật HN&GĐ quy định: “1. Tài sản riêng của vợ, chồng
gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ,
chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu
cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật
thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”. Vợ, chồng có quyền tự mình thực hiện các
giao dịch liên quan đến tài sản riêng hoặc UQ cho bên kia thay mặt mình thực
hiện việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến tài sản đó.
Việc Uq phải được thực hiện theo đúng quy định theo pháp luật dân sự về UQ.
* Tài sản riêng được đưa vàò kinh doanh chung
Cở sở pháp lý :Điều 25 luật HN&GĐ cho chúng ta thấy :



Trường hợp vợ chồng kinh doanh thì một trong hai người trực tiếp tham
gia quan hệ kinh doanh có thể là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan
hệ kinh doanh đó. Nếu trước khi tham gia quan hệ kinh doanh mà vợ chồng có
thỏa thuận khác thì sẽ tuân theo thỏa thuận đó. Với việc loại trừ tại khaonr 2,
theo quy định tại khoản 1 điều 25 luật HN&GĐ thì có thể xác định đây là trường
hợp vợ, chồng kinh doanh chung bằng tài sản riêng.
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẠI DIỆN
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014 –
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
1. Thực tiễn áp dụng các quy định về đại diện giữa vợ và chồng
a, Những thuận lợi
Đảng và Nhà nước luôn đề cao, khuyến khích các hoạt động về bình đẳng
giới và nâng cao vị thế của người phụ nữ trong các quan hệ xã hội, trong gia
đình. Các quy phạm pháp luật làm căn cứ xác định và giải quyết tranh chấp về
đại diện cho nhau giữa vợ và chồng đã được quan tâm ban hành, sửa đổi, bổ
sung và hướng dẫn kịp thời.
Quy định của BLDS 2015, luật HN&GĐ 2014, các văn bản pháp luật có
liên quan khắc phục những bất cập, hạn chế của luật HN&GĐ 2000. Cụ thể: Các
quy định trong các trường hợp đại diện được quy định chặt chẽ hơn, theo sát
thực tế cuộc sống. Khoản 3 điều 28, việc quy định tài sản chung còn quá chung
chung, khó xác định.
Công tác tuyên truyền, giáo dục,...được chú trọng với các hình thức, nội
dung đa dạng, phong phú. Các ơ quan, tổ chức có liên quan đã có sự cải cách rõ
rệt về thủ tục và trách nhiệm của các nhân viên trong hoạt động công chứng,
chứng thực HĐUQ. Ngành Tòa án áp dụng pháp luật sát sao, hiệu quả.


b, Những vướng mắc, bất cập khi thực hiện các quy định
(1) Về căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng
Khoản 1 điều 53 BLDS 2015 quy định về người giám hộ đương nhiên của

người mất năng lực hành vi dân sự : “Trường hợp vợ là người mất năng lực
hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực
hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ”. Khoản 3 điều 24 luật hôn nhân gia
đình năm 2014 quy định về căn cứ xác lập đậi diện giữa vợ và chồng : “Vợ,
chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia
có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật
cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự
mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.”
Khi người vợ/ chồng bị mất NLHVDS thì bên còn lại là người đại diện
đương nhiên theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu bên còn lại cũng là người giám hộ
thì đặt ra vấn đề trong việc bảo quản tài sản của người bị mất năng lục hành vi
dân sự. Một số trường hợp lợi dụng quyền giám hộ để phá tán tài sản hoặc
ngược đãi bên còn lại thì ai sẽ là người đứng ra để bảo vệ quyền lợi của người bị
mất năng lực hành vi dân sự. Mặc dù 2015 đã quy định về quyền và nghĩa vụ
của người giám sát việc giám hộ, tuy hiên, quyền của những người này vẫn chưa
được quy điịnh cụ thể, chưa thể đảm bảo quyền lợi ích cao nhất cho người được
giám hộ, nhát là trong các giao dịch mà người giám hộ thực hiện bằng tài sản
của người mất năng lục hành vi dân sự.
(2) Về phạm vi đại diện giữa vợ và chồng
Cơ sở pháp lý :Theo quy định tại Khoản 2 điều 22 BLDS 2015 và Khoản 2
Điều 44 luật HN&GĐ 2014


=>Trường hợp khi vợ, chồng bị mất năng lục hành vi dân sự, bên còn lại
trở thành người đại diện thực hiện các giao dịch liên quan trong việc quản lý tài
sản của người còn lại. Tuy nhiên, khi thực hiện các giao dịch liên quan đến tài
sản riêng của người được đại diện, thì người đại diện có trách nhiệm gì, và việc
vì lợi ích của người đại diện được hiểu đến đâu
(3) Về thời điểm phát sinh vấn đề đại diện

Khoản 2 điều 24 BLDS 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực
hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy
định khác”. Mặc dù pháp luật đã có quy định về thời điểm phát sinh đại diện
giữa vợ và chồng khi một bên bị mất NLHVDS; tuy nhiên, việc quy định đại
diện này bắt đầu từ khi nào thì chưa thấy ghi rõ.
Giả sử, khi cả hai vợ chồng cùng nhau xác lập giao dịch với ngươi thứ ba,
ngay sau đó, một bên bị tai nạn dẫn đến mất khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi; tuy nhiên, một thời gian sau Tòa án mới tuyên bố người vợ bị
mấtNLHVDS. Vậy, việc đại diện bắt đầu từ khi nào, từ khi người vợ bị mất
NLHVDS hay từ khi Tòa án tuyên bố.
(4) Đại diện trong trường hợp khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi
Hiện nay, luật NH&GĐ 2014 chưa quy định trong trường hợp khó khăn
trong nhận thức và điều khiển hành vi. Khi những người khó khăn trong nhận
thức và điều khiển hành vi thực hiện các giao dịch, không thể đảm bảo họ đủ
minh mẫn khi thực hiện các giao dịch đó. Như vậy, nếu gặp các khó khăn,
vướng mắc pháp lý liên quan đến các giao dịch do người có khó khăn trong
nhận thức và điều khiển hành vi thực hiện, có rất ít quy định để Tòa có thể bảo
vệ quyền, lợi ích của người gặp khó khăn. Như vậy, luật hôn nhân và gia đình


cần bổ sung thêm các quy định về đại diện khi một bên có khó khăn trong nhận
thức và điều khiển hành vi.
(5) Đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh
Điều 25 Luật HN&GĐ 2014 quy định:
“1. Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp
tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan
hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ
chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.

2. Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh thì áp
dụng quy định tại Điều 36 của Luật này”.
Với việc loại trừ tại khoản 2, khoản 1 điều luật trên xác định trường hợp
vợ, chồng kinh doanh chung ở đây là bằng tài sản riêng? Là người đại diện hợp
pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó. Tuy nhiên, pháp luật lại không đòi
hỏi việc kinh doanh chung đó phải lập dưới hình thức gì, thỏa thuận miệng hay
lập thành văn bản, có cần công chứng, chứng thực hay không? Và việc đại diện
cho nhau một cách khá tùy tiện, không cần có sự đồng ý của bên còn lại trong
các giao dịch với bên thứ ba như quy định trên có phụ thuộc vào tài sản của mỗi
bên đóng góp khi kinh doanh chung, vấn đề giải quyết hậu quả khi không còn
kinh doanh chung nữa là những vấn đề mà luật chưa giải quyết triệt để.
(6) Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài
khoản chứng khoán, động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải
đăng kí quyền sở hữu, quyền sử dụng
Tại điều 32 luật HN&GĐ 2014 quy định như sau: Nếu vợ, chồng là người
đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, chiếm hữu động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện
giao dịch liên quan đến tài sản đó. Cũng theo quy định tại Điều luật HN&GĐ


việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng có
trường hợp là: “Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình”.
Vậy, giả sử, gia đình đó có một khoản tiền lớn gửi trong ngân hàng, đứng tên
một bên vợ hoặc chồng, lãi từ tiền gửi hiện đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ
yếu của gia đình. Người đứng tên trên tài khoản tự mình xác lập giao dịch được
coi là trường hợp giao dịch với người thứ ba ngay tình (HĐ mua bán vẫn có hiệu
lực) hay trường hợp phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng (khi đó,
HĐ mua bán sẽ bị vô hiệu), hoặc trong trường hợp động sản có đăng ký quyền
sở hữu khi định đoạt phải có sự đồng ý bằng văn bản của vợ, chồng. Nhưng, một
gia đình có nhiều vàng, đá quý có giá trị lớn, phát sinh trong thời kỳ hôn nhân.

Một bên đưa ra giao dịch với bên thứ ba, thì căn cứ theo quy định của Điều 32
nêu trên, giao dịch đó có hiệu lực. Như vậy, rõ ràng vấn đề bảo đảm quyền và
lợi ích của bên vợ hoặc chồng không tham gia giao dịch với người thứ ba sẽ
không được bảo đảm, điều này pháp luật cũng chưa thể dự liệu được.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng
Thứ nhất, về đại diện giữa vợ và chồng theo Điều 24 luật HNGĐ 2014 do
quan hệ đại diện giữa vợ và chồng có đặc thù so với đại diện trong quan hệ dân
sự nói chung vì yếu tố tình cảm, gắn kết giữa các chủ thể rất bền vững, sâu đậm
nên việc vi phạm, lạm quyền, lợi dụng để tẩu tán, chiếm đoạt tài sản khó bị phát
hiện. Do đó, cần tăng thêm vai trò và tham gia của những người thân thích của
người vợ, chồng bị mất năng lực hành vi dân sự. Đồng thời pháp luật cần quy
định về việc khi người giám hộ thực hiện hành vi cố ý gây thiệt hại về tài sản
cuả người được giám hộ thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ và
là căn cứ thay đổi người giám hộ theo Điều 60 BLDS 2015.
Thứ hai, pháp luật cần quy định cụ thể hơn nữa về quyền, nghĩa vụ cũng
như trách nhiệm của người giám sát việc giám hộ trong việc bảo vệ quyền lợi
của người được giám hộ khi lợi ích chính đáng, hợp pháp của họ bị xâm hại,
hoặc có nguy cơ bị xâm hại. Đặc biệt là trong vấn đề quản lí tài sản chung, tài


sản riêng của người được giám hộ khi người giám hộ có những hành vi tẩu tán
tài sản. BLDS 2015 và luật HNGĐ 2014 có nêu ra 2 vấn đề: “trường hợp giám
sát việc giám hộ liên quan đến quản lí tài sản chung của người được giám hộ thì
người giám sát phải đăng kí tại UBND cấp xã nơi cứ trú của người được giám
hộ” (khoản 1, Điều 51 luật HN&GĐ 2014) và “ Các giao dịch dân sự giữa
người giám hộ và người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được
giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của
người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ” (Khoản
1, Điều 59 BLDS 2015). Tuy nhiên, theo nhóm chúng em thì quy định như trong
BLDS 2015 cũng chưa giải quyết triệt để vấn đề giám hộ đương nhiên của vợ

chồng, nghĩa vụ của người giám sát việc giám hộ đến đâu cũng chưa được pháp
luật ghi nhận. Đây cũng chính là vấn đề pháp luật cần hoàn thiện cụ thể hơn.
Thứ ba, bổ sung quy định về đại diện giữa vợ và chồng khi một bên vợ
hoặc chồng bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Để khắc phục những bất cập trong thưc tiễn cũng như phù hợp với BLDS
2015, luật HNGĐ 2014 cần bổ sung về trường hợp đại diện giữa vợ và chồng
khi một bên vợ hoặc chồng bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Theo
đó, có thể sửa đổi Khoản 3 Điều 24 Luật HNGĐ 2014 như sau: “Vợ, chồng đại
diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều
kiện làm người giám hộ hoặc một bên có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được TA chỉ định làm
người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của
pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan”.
Như vậy, tương tự như trường hợp một bên vợ chồng bị TA tuyên bố hạn
chế NLHVDS, tính đương nhiên được đại diện cho nhau giữa vợ và chồng
không còn trong trường hợp này. Khi một bên vợ hoặc chồng bị rơi vào trường
hợp bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì yêu cầu của người này,
người có quyền, lợi ích liên quan, trên cơ sở giám định pháp y tâm thần, Tòa án


ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi; Tòa án phải chỉ định người giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người
giám hộ. Trong trường hợp này, mọi giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản
của người bị Tòa án tuyên bố có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi
đều phải có sự đồng ý của người giám hộ.
Thứ tư, cần quy định thời điểm giao dịch của người mất năng lực hành vi
dân sự cần phải thông qua người đại diện. Theo nhóm em, nếu lấy ngày người
vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố bị mất năng lưc hành vi dân sự thì vô tình sẽ
công nhận hiệu lực của những giao dịch mà họ đã thực hiện khi Tòa án chưa
tuyên bố họ bị mất NLHVDS, mặc dù lúc ấy họ không có khả năng nhận thức và

điều khiển hành vi. Nên theo nhóm em, lấy ngày cá nhân đó thực sự bị mất
NLHVDS làm mốc để xác định giao dịch mà người này tham gia là vô hiệu.
Thứ năm, pháp luật phải có quy định rõ ràng về hình thức giấy ủy quyền
cũng như thời điểm có hiệu lực của việc lập giấy tờ ủy quyền. Thực tiễn hoạt
động công chứng, chứng thực, công chứng viên, người có thẩm quyền chứng
thực thường bắt gặp hình thức văn bản ủy quyền đó là “giấy ủy quyền”. Vì hình
thức ủy quyền được áp dụng rộng rãi và có đặc điểm là nội dung linh hoạt nên
rất dễ bỏ sót những điều khoản ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham
gia xác lập ủy quyền, khi có tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền khó xác định
trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên. Do đó cần quy định về tính hợp pháp của
giấy ủy quyền, bổ sung quy định về hình thức ủy quyền như sau: “ ủy quyền có
thể thực hiện bằng lời nói, bằng hành vi hoặc bằng văn bản dưới dạng hợp
đồng ủy quyền, giấy ủy quyền hoặc dạng thức khác. Trong trường hợp pháp luật
có quy định thì ủy quyền phải được lập thành văn bản có công chứng chứng
thực”.
Thứ sáu, theo khoản 1 Điều 25 luật HNGĐ 2014 thì trong trường hợp vợ,
chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là
đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước


khi tham gia quan hệ kinh doanh vợ, chồng có thỏa thuân khác. Tuy nhiên, luật
không quy định rõ trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung bằng tài sản riêng thì
thỏa thuận của vợ, chồng trong trường hợp này được lập dưới hình thức nào,
thỏa thuận miệng hay thỏa thuận bằng văn bản có công chứng kinh doanh. Vấn
đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc đại diện của vợ, chồng về vấn đề thỏa
thuận đại diện giữa vợ và chồng trong kinh doanh. Vì vậy, nhóm em xin đề xuất
trong thời gian tới, pháp luật nên quy định các vấn đề thỏa thuận giữa vợ, chồng
trong kinh doanh nên được lập thành các văn bản nhằm tránh các mâu thuẫn
phát sinh, tạo thuận lợi trong giải quyết các hậu quả pháp lí.
Đối với tài sản chung của vợ chồng nhưng thỏa thuận cho phép một bên

được đưa vào kinh doanh, cần bổ sung quy định khi thực hiện các giao dịch liên
quan đến tài sản chung này vẫn phải tuân thủ các quy định tại khoản 2 Điều 35
luật HNGĐ 2014. Có như vậy mới đảm bảo được quyền chiếm hữu sử dụng,
định đoạt tài sản chung của người không trực tiếp tham gia kinh doanh.
Thứ bảy, trong việc các vợ, chồng tham gia các giao dịch liên quan đến
tài sản chung là tài khoản chứng khoán, tài khoản ngân hàng có quy định để bảo
đảm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của người chồng, người vợ không
đứng tên . Theo quan điểm nhóm em, luật hôn nhân gia đình 2014 đã bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình (Điều 32 luật HNGĐ
2014) nhưng chưa bảo vệ được lợi ích hợp pháp của một bên người vợ hoặc
chồng. Các quy định còn chưa rõ ràng, trực tiếp mà vẫn viện dẫn từ các điều luật
khác nên khiến cho người đọc khó hiểu, khó tiếp cận và áp dụng trong thực tế.
Đây cũng là những kẽ hở để vợ, chồng lợi dụng nhằm trốn tránh thực hiện các
nghĩa vụ về tài sản hoặc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, có thể
quy định rằng trước khi thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản là tài khoản
chứng khán, tài khoản ngân hàng, người vợ, chồng đứng tên tài khoản phải có
trách nhiệm thông báo cho người chồng hoặc vợ kia về việc xác lập giao dịch
đó. Hoặc quy định thêm rằng người không đứng tên tài khoản có thể trực tiếp


thực hiện các giao dịch liên quan đến đến tài khoản đó nếu có lý do chính đáng
(ví dụ: người đứng tên tài khoản đang bị tạm giam, đang ở nước ngoài …)
Bên cạnh đó cần quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hành vi
của vợ, chồng xác lập thực hiện trái với quy định về đại diện theo quy định tại
điều 26, khoản 3 Điều 29 luật HNGĐ 2014 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người vợ, chồng không trực tiếp tham gia giao dịch.
Thứ tám, Quy định roc ràng ci tiết trong hệ thông pháp luật nươc ta
. Ví dụ như cần phải đưa ra các khái niệm “tài sản đang là nguồn tạo ra là thu
nhập chủ yếu của gia đình” có thể quy định cụ thể hơn về khái niệm nầy như
đưa ra một mức thu nhập cụ thể để trở thành thu nhập chủ yếu của gia đình(ví

dụ: thu nhập chiếm trên 50% tổng thu nhập của gia đình trong một tháng sẽ
được coi là thu nhập chủ yếu).
KẾT LUẬN
Xuất phát từ nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong luật dân sự do
khuôn khổ pháp luật mà các cá nhân có thể tựu do thỏa thuận giúp đỡ nhau và
thỏa mãn lợi ích của nhau. Theo đó quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được
pháp luật công nhận và bảo vệ. Vợ và chồng có quyền đại diện cho nhau và đại
diện cho gia đình theo pháp luật và theo ủy quyền. luật hôn nhân và gia đình
2014 đã có những quy định đại diện về vợ chồng trong các quan hệ xã hội nhằm
tạo điều kiện thuận lợi nhất để vợ chồng có thể đại diện cho nhau tham gia các
giao dịch dân sự khi một bên vắng mặt.

Bài làm của nhóm còn nhiều sai sót, kính mong thầy cô quan tâm góp ý
để bài làm của nhóm em thêm hoàn thiện. Chúng em xin trân thành cảm ơn !


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Bộ luật Dân sự năm 2015
3. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Công an nhân dân, 2009
4. Nguyễn Thị Khánh Linh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, “Vấn đề đại diện giữa
vợ và chồng theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”, năm 2017
5. Nghị định 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định một số điều và biện
pháp thi hành luật Luật Hôn nhân và gia đình 2014
6. />7. />8. />9. />10. />11. />


×