Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

LV ths đại diện giữa vợ và chồng theo quy định pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.1 KB, 58 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẠNH

ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌc

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên

HÀ NỘI - 2012


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hạnh


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .....................................................................................................................................6
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ........................................................................6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài .........................................................................7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài..................................................................8
4.1. - Mục đích.................................................................................................................8
4.2. Nhiệm vụ ..................................................................................................................8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................................8
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài .................................................................................8
7. Kết cấu của luận văn........................................................................................................8
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG ......9
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN VÀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG ..............9
1. Khái niệm chung về đại diện ...........................................................................................9
2. Bản chất và các đặc điểm pháp lý về đại diện giữa vợ và chồng .................................12
2.1. Khái niệm chung về đại diện giữa vợ và chồng .....................................................12
2.2. Đặc điểm chung của đại diện giữa vợ và chồng trong tương quan với đại diện ...13
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ
VÀ CHỒNG ..........................................................................................................................19
1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 .......................................................19
2. Giai đoạn từ 1945 đến nay.............................................................................................20
2.1. Giai đoạn đất nước ta trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (19451954) ..............................................................................................................................20
2.2. Giai đoạn đất nước bị chia cắt, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam (1954-1975)..........................................................20
2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay .....................................................................................21
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUAN HỆ ĐẠI DIỆN
GIỮA VỢ CHỒNG Ở VIỆT NAM........................................................................................23
I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT GIỮA
VỢ VÀ CHỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ...................................................................23
1. Đại diện giữa vợ chồng khi một bên vợ chồng bị mất năng lực hành vi dân sự ..........23
1.1. Điều kiện để xác định đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng một bên mất năng

lực hành vi dân sự ..........................................................................................................23
1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ hoặc chồng với tư cách là người đại diện cho chồng
hoặc vợ của mình bị mất năng lực hành vi dân sự ........................................................26
2. Đại diện giữa vợ chồng trong trường hợp vợ chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
...........................................................................................................................................29
2.1. Điều kiện để xác định đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồn gmà một bên bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự ...................................................................................29
2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ hoặc chồng trong trường hợp chồng hoặc vợ của mình
bị hạn chế năng lực hành vi ...........................................................................................32
II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN GIỮA
VỢ VÀ CHỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ...................................................................35
1. Căn cứ pháp lý của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng ..............................35
1.1. Chủ thể đại diện trong quan hệ đại diện giữa vợ và chồng....................................35
1.2. Phạm vi đại diện trong đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng .........................36
1.3. Hình thức văn bản ủy quyền của đại diện giữa vợ và chồng .................................37


2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền ...........39
2.1. Vợ, chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài
sản chung có giá trị lớn, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc dùng tài sản
đầu tư kinh doanh ..........................................................................................................39
2.1.1. Giao dịch đó phải hợp pháp: ...........................................................................42
2.1.2. Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình ...............................................42
2.2. Vợ, chồng đại diện cho nhau trong việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài
sản riêng của một bên vợ, chồng ...................................................................................43
CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG .......................................................................................46
I. NHU CẦU KHÁCH QUAN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG .....................................................................................46
1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ......46

2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ..............................49
KẾT LUẬN...............................................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cũng như các nước khác, tại Việt Nam đại diện là một chế định pháp luật, được quy định
trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhằm hỗ trợ việc thực hiện năng lực chủ thể trong các quan
hệ pháp luật nói chung và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên,
của những người bị hạn chế, mất hoặc không có năng lực hành vi dân sự nói riêng. Đại diện
không những bảo vệ cho cá nhân mà còn liên quan đến pháp nhân.
Trên cơ sở quyền bình đẳng nam - nữ, quyền tự do của công dân, đảm bảo các quyền và lợi
ích của những chủ thể pháp luật ngay cả khi họ không thể trực tiếp tham gia được các giao
dịch dân sự, kinh tế, thương mại, lao động…và các quan hệ xã hội khác. Xuất phát từ nguyên
tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong luật dân sự trong khuôn khổ pháp luật mà các cá nhân có
thể tự do thỏa thuận giúp đỡ nhau và thỏa mãn lợi ích của nhau.
Theo đó quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được pháp luật công nhận và bảo vệ, vợ chồng
đều có quyền đại diện cho nhau và đại diện cho gia đình theo pháp luật và theo ủy quyền.
Người vợ trong gia đình có quyền đại diện trong các quan hệ hôn nhân và gia đình không bị
phân biệt với người chồng. Việc vợ, chồng đại diện cho nhau và cho gia đình trong các giao
dịch dân sự ngày càng phổ biến, đa dạng trong các hoạt động kinh doanh, mua bán, trao đổi,
cho vay, bảo lãnh…liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, hoặc có thể liên quan đến tài
sản riêng của vợ hoặc chồng.
Xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung của gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ,
chồng thì việc đặt ra vấn đề đại diện là vô cùng cần thiết, như vậy tránh việc các giao lưu dân
sự giữa vợ chồng với người thứ ba bị gián đoạn, hạn chế, tránh sự kìm hãm sự phát triển
chung của xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn, các giao lưu dân sự và thương mại của vợ, chồng ngày càng đa dạng,
việc vợ, chồng tự do tham gia kinh doanh ngày càng nhiều, đặc biệt việc vợ, chồng đưa tài

sản chung vào giao lưu dân sự ngày càng sôi động và phức tạp. Vì vậy việc đại diện sẽ giải
quyết được nhiều vấn đề trong gia đình và ngoài xã hội nhất là việc đảm bảo được quyền, lợi
ích của người thứ ba trong giao dịch dân sự.
Việc nghiên cứu vấn đề đại diện giữa vợ và chồng là vô cùng cần thiết, vì hành vi đại diện
của vợ, chồng cho nhau trong các quan hệ dân sự không những để thực hiện chức năng của
gia đình mà còn là thực hiện các quyền năng dân sự do pháp luật quy định. Việc đại diện cho
nhau giữa vợ và chồng liên quan mật thiết đến lợi ích của vợ chồng trong các giao dịch dân
sự và liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điều này được chứng
minh trước thực tế hiện nay có ngày càng nhiều những tranh chấp liên quan đến một bên vợ
hoặc chồng đại diện cho nhau thực hiện các giao dịch dân sự nhưng đã vượt quá phạm vi đại
diện hoặc có hành vi lừa dối trong các văn bản ủy quyền giữa vợ và chồng… khiến cho các
giao dịch không được thực hiện, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích một bên vợ hoặc chồng, của
vợ chồng và gia đình hoặc bên thứ ba.
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế về các vấn đề hôn nhân và gia đình, dân sự… có yếu tố nước
ngoài, cùng với việc Nhà nước ta đang đặt ra chương trình sửa đổi các văn bản pháp luật về
dân sự, hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật liên quan khác, việc nghiên đề tài này
để có những luận cứ khoa học sửa đổi pháp luật là cần thiết.


Chính bởi vậy việc nghiên cứu đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật hiện
hành là một việc làm có tính cấp thiết, đáp ứng được yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định đại diện giữa vợ và chồng là một vấn đề không cũ nhưng trên thực tế có rất ít công
trình nghiên cứu thấu đáo và đầy đủ. Vấn đề này được nhắc đến như một nội dung nhỏ trong
các bài báo, hay các công trình nghiên cứu khác về quan hệ của vợ chồng như: Nguyễn Ngọc
Điện: Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình, tập II: "Các quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng", Nhà xuất bản Trẻ, 2004, đã khái quát lên những vấn đề chung nhất về đại diện giữa
vợ và chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Cũng về vấn đề đại diện giữa vợ
và chồng thì có những thắc mắc có liên quan có trong mục tư vấn pháp luật của các báo và
tạp chí như Nguyễn Minh Hằng: "Đại diện theo ủy quyền từ pháp luật nội dung đến tố tụng

dân sự", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5, 2005; hay trên các diễn đàn pháp luật:
diendanphapluat.vn như "thay đổi cổ đông công ty giữa vợ và chồng"… nhằm để giải quyết
các vấn đề trong thực tế xảy ra của các vụ việc hay giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản
của vợ chồng, đến phạm vi đại diện giữa vợ và chồng, vượt quá phạm vi đại diện của vợ
chồng… Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
Luật Dân sự của Viện Đại học Mở Hà Nội… còn mang tính giới thiệu và phân tích hạn chế.
Tất cả các nội dung bàn về đại diện giữa vợ chồng đều chỉ là những giải thích trong các vụ
việc cụ thể mà chưa có sự khái quát, hơn nữa nó được nằm rải rác ở nhiều báo, tạp chí khác
nhau gây khó khăn cho việc thực hiện cũng như áp dụng pháp luật.
Như vậy đề tài đại diện giữa vợ và chồng chưa được đề cập đến một cách toàn diện và đầy đủ
trong một công trình chuyên khảo nào ở nước ta, hơn thế nữa trước thực tế các vụ việc cũng
như tranh chấp liên quan đến đại diện giữa vợ và chồng ngày càng nhiều và phức tạp, cộng
với khả năng đáp ứng giải quyết của các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình còn hạn
chế, nhiều cách hiểu khác nhau trong một quy định pháp luật. Bởi vậy việc nghiên cứu vấn đề
này một cách có hệ thống và toàn diện là việc cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Bên
cạnh đó việc nghiên cứu vấn đề đại diện của một số nước như Nhật Bản, Pháp, Đức thấy
được vấn đề đại diện của các nước này thật sự cụ thể và rõ ràng, đặc biệt về đại diện của vợ
chồng trong đời sống xã hội. Có được sự hoàn thiện này theo chúng tôi là do xuất phát từ chế
định sở hữu trong pháp luật của các nước này đi từ sở hữu cá nhân một cách minh bạch, tôn
trọng. Trong khi đó ở Việt Nam lại ngược lại đi từ chế độ sở hữu tập thể, nhà nước, toàn dân
dẫn đến sự nhập nhằng, thiếu rõ ràng trong các chế độ sở hữu ở nước ta, đặc biệt sở hữu cá
nhân cũng mới được công nhận tại Việt Nam. Chính vì vậy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
các vấn đề đại diện của vợ chồng ở Việt Nam liên quan đến tài sản chung, riêng của vợ
chồng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của "Đại diện giữa vợ chồng theo pháp luật hiện hành" là:
- Những vấn đề chung về đại diện trong các quy định của pháp luật dân sự.

- Những vấn đề chung về đại diện giữa vợ chồng được quy định trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

- Thực tiễn áp dụng pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong thực tế và những vấn đề đặt ra.
Phạm vi nghiên cứu: Do đề tài là về đại diện giữa vợ chồng theo pháp luật hiện hành nên
phạm vi nghiên cứu chủ yếu đề cập đến những vấn đề đại diện của vợ và chồng trong các
giao dịch dân sự ở Việt Nam hiện nay.


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. - Mục đích
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế độ đại diện giữa vợ và chồng. Phân tích làm
rõ những vấn đề lý luận của quan hệ đại diện giữa vợ và chồng.
+ Nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thực
tiễn và phát hiện những vướng mắc, bất cập trong khi áp dụng pháp luật.
+ Từ những nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đại diện
giữa vợ và chồng ở nước ta để tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong vấn đề
này.
4.2. Nhiệm vụ
+ Làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật hiện hành về đại diện giữa vợ và chồng.
+ Đánh giá thực trạng của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật về đại diện giữa vợ và chồng.
+ Đề xuất giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ đại diện
giữa vợ và chồng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp cụ thể là:
phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp
lịch sử, thống kê, lôgic…
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

-


Về lý luận làm rõ và có hệ thống hơn cơ sở lý luận của chế định đại diện
giữa vợ và chồng.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng, đề
xuất những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở
Việt Nam.
Là công trình khoa học có hệ thống, là tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh
viên tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học cho cán bộ thực hiện pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đại diện giữa vợ và chồng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về quan hệ đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng.


CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ
CHỒNG
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN VÀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
1. Khái niệm chung về đại diện
Thông thường, khi tham gia giao dịch dân sự hoặc các giao dịch khác, các chủ thể sẽ
tự mình xác lập thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, chủ thể của quan hệ pháp luật rất đa dạng,
mỗi loại chủ thể có những đặc điểm khác nhau và bất cứ chủ thể nào của quan hệ pháp luật
dân sự cũng đều có sự liên quan đến quan hệ đại diện.
Với mỗi cá nhân, không phải lúc nào cá nhân cũng trực tiếp tham gia giao dịch dân sự. Đối
với người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người bị mất năng lực
hành vi dân sự… thì người đại diện theo pháp luật của những người này là sự đảm bảo cần
thiết để cho việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người được đại diện phù hợp với quy
định của pháp luật. Đối với các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự mà quyền lợi có tính
chất cộng đồng (hộ gia đình, tổ hợp tác, pháp nhân) thì chế định đại diện là yếu tố không thể

thiếu để các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự bởi suy cho cùng thì việc tham gia
giao dịch dân sự vẫn phải thông qua hành vi của con người với sự nhận thức, làm chủ được
hành vi của họ.
Vậy đại diện là gì?
Đại diện theo cách hiểu thông thường từ trước tới nay là một hành động, một việc làm của
một người mà không nhân danh mình, không nhân danh chính người thực hiện công việc,
hành động đó. Các hành vi của một cá nhân hay tổ chức không nhân danh mình đang diễn ra
hàng ngày trong xã hội hiện đại như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống. Bởi vì, trên thực tế
cũng như hoàn cảnh xã hội thì không phải lúc nào bản thân mỗi cá nhân cũng có khả năng và
điều kiện để thực hiện một hay một số hành vi nhất định để thực hiện một công việc nào đó.
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt thì "Đại diện là sự thay mặt (cho cá nhân, tập thể) ví
dụ: đại diện cho nhà trai phát biểu trước nhà gái trong lễ ăn hỏi, đại diện cho anh em bè bạn
đến chúc mừng trong một dịp nào đó; hay còn có nghĩa là người, tổ chức thay mặt ví dụ như:
cơ quan cử đại diện ở nước ngoài" [35, tr. 279].
Theo cuốn Từ điển Luật học, thì đại diện là "việc một người, một cơ quan, tổ chức khác xác
lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện" [36, tr. 225].
Ta thấy rằng, trong quan hệ pháp luật về đại diện thì chủ thể của quan hệ pháp luật này để
thực hiện những quan hệ giao dịch nhất định là một người (người đại diện), một tập thể (ban
đại diện) hoặc một cơ quan (cơ quan đại diện) được ủy quyền nhân danh chủ thể khác trong
quan hệ giao dịch. Quyền đại diện có thể là quyền năng đương nhiên, phát sinh từ việc thực
hiện chức năng trong hoàn cảnh hoạt động cụ thể (chẳng hạn nhân viên bán hàng là đại diện
của cửa hàng, của công ty trong quan hệ với khách hàng). Quyền đại diện có thể được căn cứ
theo luật hoặc các thể thức hành chính nhà nước (chẳng hạn những quy định về người giám
hộ). Quyền đại diện cũng có thể căn cứ vào quyền năng được ủy quyền (chẳng hạn đại sứ
thay mặt quốc gia trong quan hệ đối ngoại). Hoạt động của đại diện trực tiếp làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ về quyền và nghĩa vụ của chủ thể được đại diện. Trong
quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện, người đại diện không được thực hiện các
quan hệ thuộc phạm vi chức năng đại diện vì mục đích cá nhân hoặc vì các mục đích khác với
quyền lợi của chủ thể được đại diện.



Cụ thể hơn thì đại diện được quy định: "Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại
diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện" [22, Khoản 1, Điều 139].
Như vậy, trong các định nghĩa này đã nêu rõ được về mặt chủ thể của quan hệ pháp luật đại
diện sẽ có người đại diện và người được đại diện cùng với bên thứ ba khi người đại diện thực
hiện các hành vi trong giao dịch. Người đại diện có thể là cá nhân cũng có thể là tập thể được
nhân danh các chủ thể trong giao dịch để thực hiện các hành vi nhất định theo quy định của
pháp luật hay nói đúng hơn là trong nội dung được uỷ quyền. Và như vậy trong hoàn cảnh
này đây là đại diện theo sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, được pháp luật cho phép. Các
chủ thể có thể đương nhiên phát sinh quyền đại diện cũng có thể thỏa thuận và trong một số
trường hợp thì quyền đại diện sẽ là bắt buộc theo quy định của pháp luật. Hoạt động đại diện
làm chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể được đại diện trong giao dịch dân sự và chỉ trong
phạm vi ủy quyền hoặc theo quy định của pháp luật với mục đích vì lợi ích của người được
đại diện, phát sinh tư cách chủ thể của người đại diện trong giao dịch dân sự với một bên chủ
thể còn lại của giao dịch. Người đại diện trong giao dịch dân sự còn có thể là người có thẩm
quyền, là người mà pháp luật dân sự cho phép đối với chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân
sự mà quyền lợi có tính chất cộng đồng như: pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các tổ chức
này do tính chất của chủ thể đều hoạt động thông qua hành vi của người có thẩm quyền đại
diện cho tổ chức đó. Đại diện có ý nghĩa rất lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội và trong
nhiều mối quan hệ, tuy nhiên, giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ đề cập tới
đại diện trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình chứ không đề cập đến các lĩnh vực khác
như đại diện trong hành chính, ngoại giao…
Như vậy đại diện có thể được tiếp cận với các ý nghĩa sau:

Là một tiểu chế định pháp luật dân sự - hôn nhân và gia đình.
Chế định pháp luật về đại diện ở đây có thể hiểu theo nghĩa hẹp đó là tổng thể các quy phạm
pháp luật dân sự và hôn nhân và gia đình điều chỉnh nhóm quan hệ về đại diện giữa những
chủ thế pháp luật nhất định, cụ thể. Các cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ đại diện bắt
buộc phải tuân thủ các quy định pháp luật về đại diện. Các quy phạm pháp luật quy định về

quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự về đại diện cũng
như vợ và chồng đại diện cho nhau khi tham gia giao dịch dân sự, hôn nhân và gia đình. Các
quy phạm pháp luật này nằm trong Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh quan
hệ đại diện giữa vợ và chồng.
Đại diện còn được tiếp cận là một quan hệ pháp luật dân sự - hôn nhân và
gia đình
Qua việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự khẳng định đại diện là một quan hệ pháp luật
dân sự. Các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự trong trường hợp này bao gồm:
Chủ thể của quan hệ pháp luật này gồm có người đại diện và người được đại diện.
Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba
nhưng khi xác lập quan hệ đại diện này là vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại
diện là người được tiếp nhận, thụ hưởng các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện
xác lập, thực hiện theo đúng thẩm quyền đại diện.
Khách thể của quan hệ đại diện là hành vi tức các quyền và nghĩa vụ mà các bên hướng tới
đầu tiên và trực tiếp dưới dạng hành động hoặc không hành động. Có những hành vi được thể
hiện dưới dạng vật chất cụ thể có những hành vi không thể hiện dưới dạng vật chất thì khi đó


việc vật chất hóa là cần thiết. Suy cho cùng thì việc trực tiếp hay thực hiện đại diện đều nhằm
hướng tới một lợi ích vật chất nhất định.
Nội dung của quan hệ đại diện chính là các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia
giao dịch, nhiều khi các quyền và nghĩa vụ này đan xen vào nhau và rất phức tạp. Tuy nhiên,
trong từng quan hệ nhỏ thì phân tích quyền và nghĩa vụ rất rõ ràng, quyền của người này chỉ
được đáp ứng khi bên kia thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nào đó.
Qua đây ta có thể nhận thấy cơ sở và mục đích của đại diện hướng tới trong các quan hệ giao
dịch dân sự chính là các lợi ích nào đó. Đại diện cũng cần có những cơ sở nhất định để hình
thành và phát triển dựa trên những nguyên tắc nhất định đó là:

Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng đảm bảo quyền dân sự, đảm bảo quyền tự
do của công dân, đảm bảo các quyền và lợi ích của họ ngay cả khi họ không thể trực tiếp

tham gia được các giao dịch dân sự, kinh tế và các quan hệ ngoài xã hội. Đại diện theo đó tồn
tại và phát triển để đảm bảo quyền
dân sự của chủ thế quan hệ pháp luật được thực hiện đầy đủ, không bị gián
đoạn bởi các yếu tố khách quan, bất khả kháng.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận của pháp luật
dân sự. Trong khuôn khổ pháp luật các cá nhân có thể tự do thỏa thuận giúp đỡ nhau và thỏa
mãn lợi ích của nhau. Các chủ thể tham gia quan hệ đại diện hoàn toàn độc lập với nhau về tư
cách pháp lý. Các chủ thể có quyền thể hiện ý chí của mình trong việc có thực hiện hay không
việc đại diện. Tuy nhiên đại diện không thể làm thay cho người được đại diện các công việc
mang tính sinh hoạt đời thường như ăn, uống…mà các công việc này buộc phải có tính chất
pháp lý như giao kết hợp đồng, vay tiền…
Tính độc lập của chủ thể thể hiện rõ ở việc chủ thể có quyền và nghĩa vụ
nhất định khi tham gia vào quan hệ đại diện. Tự do ý chí của cá nhân trong xác lập, thực hiện
và chấm dứt giao dịch. Ở đây khẳng định và làm rõ thêm tính độc lập của các chủ thể trong
quan hệ đại diện. Các chủ thể có quyền tự do thể hiện ý chí của mình đối với việc xác lập hay
không xác lập quan hệ đại diện. tuy nhiên sự tự do ý chí này sẽ bị hạn chế trong những trường
hợp nhất định khi pháp luật buộc những người có liên quan phải thực hiện quan hệ đại diện.
Hơn nữa sự tự do này cũng không thể tùy tiện mà buộc phải tuân theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự: Năng lực chịu trách nhiệm
của các chủ thể khi tham gia quan hệ đại diện đảm bảo việc thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ
của mình, và sẽ phải tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện không đúng và không đầy đủ các
nghĩa vụ đó. Không những vậy năng lực chịu trách nhiệm dân sự của mỗi chủ thể này còn
được bảo đảm bằng các biện pháp để các chủ thể khi tham gia quan hệ đại diện thỏa mãn một
cách tốt nhất nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của mình. Đó chính là các biện pháp bảo
vệ quyền chủ thể và các hình thức trách nhiệm đối với việc không thực hiện đúng, đầy đủ
nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ đại diện.
Quan hệ đại diện được thể hiện qua một số hình thức pháp lý cơ bản của quan hệ dân sự.
Người đại diện và người được đại diện có thể giao kết hợp đồng đại diện bằng miệng đối với
các loại giao dịch mà đối tượng giao dịch pháp luật không bắt buộc phải lập thành văn bản.
Nhưng trước yêu cầu của xã hội cũng như tính chất của giao dịch thì hiện nay các loại giao

dịch này chủ yếu được lập thành văn bản và văn bản được đảm bảo bằng chứng thực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để tăng thêm giá trị pháp lý của loại văn bản này.
Như vậy, ta đã xem xét khái niệm đại diện dưới nhiều góc độ, tuy nhiên trong luận văn này sẽ
giới hạn xem xét vấn đề đại diện trong lĩnh vực dân sự, thương mại hay nói cách khác đó là
các giao lưu dân sự có sự góp mặt của đại diện.


2. Bản chất và các đặc điểm pháp lý về đại diện giữa vợ và chồng
2.1. Khái niệm chung về đại diện giữa vợ và chồng
(Trong luận văn này khái niệm vợ chồng được dùng để chỉ những cặp vợ chồng kết
hôn theo đúng các quy định của pháp luật hôn và nhân gia đình)
Quan hệ vợ chồng là một quan hệ đặc biệt nhưng lại phổ biến trong đời sống xã hội mỗi quốc
gia. Quan hệ này là một sự liên kết đặc biệt giữa một người đàn ông và một người đàn bà, sự
liên kết này không phụ thuộc vào tính toán vật chất, mà được dựa trên cơ sở tình yêu thương,
quí trọng, bình đẳng và tự nguyện giữa hai người, hai cá thể khác giới cùng muốn chung tay
xây dựng một gia đình. Gia đình chính kết quả của việc vợ và chồng xây dựng nên với những
mục đích của nó đó là xây dựng mối quan hệ bền vững trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa
cha mẹ và con cái. Vợ và chồng cùng nhau tạo dựng và thực hiện các chức năng của gia đình
đảm bảo thỏa mãn nhu cầu tinh thần và vật chất của đôi bên: kinh tế, sinh đẻ và giáo dục con
cái. Tuy nhiên việc kết hôn này phải được pháp luật thừa nhận tức việc kết hôn này không vi
phạm các quy định mà pháp luật cấm.
Khi hai người đã được công nhận là vợ chồng sẽ phát sinh một quan hệ đặc biệt cả về mặt
tình cảm, luật pháp và xã hội. Ý chí của hai người nhiều khi sẽ là một trong một số quan hệ
pháp luật nhất định, quyết định của người này phải có sự thống nhất của người kia và ngược
lại, tài sản cũng có thể được xác định là tài sản chung. Hai người sẽ thay đổi địa vị pháp lý
trong một số trường hợp, đặc biệt nhân thân của vợ và chồng sẽ bị thay đổi. Để thực hiện các
chức năng của gia đình thì vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn
nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người… Mặc dù
mang trong quan hệ vợ chồng tính chất đặc biệt này nhưng bên cạnh đó hai người vẫn là hai

cá thể riêng biệt, vẫn có những quan hệ mang tính cá nhân tồn tại bên cạnh đời sống vợ chồng
nên tính chất phức tạp càng nâng cao. Khi hai người có quan hệ vợ chồng thì phát sinh những
quan hệ mới nhưng không hẳn chấm dứt các quan hệ cũ, bởi vậy pháp luật không thể không
quan tâm, tôn trọng những quan hệ đặc biệt này.
Trong các chức năng của gia đình đặc biệt là chức năng phát triển kinh tế luôn được cả vợ và
chồng quan tâm và đó chính là thước đo cho thấy thái độ xây dựng và gìn giữ trong gia đình
của vợ và chồng. Việc phát triển kinh tế luôn đi kèm với sử dụng và gìn giữ nó. Bên cạnh đó
với thiên chức của người phụ nữ thì việc không phát triển được kinh tế mà thay vào đó là
quản lý và sử dụng hợp lý, chi tiêu tiết kiệm cũng như lao động trong gia đình được đánh giá
ngang bằng với việc phát triển kinh tế của người đàn ông trong gia đình. Để thực hiện tốt các
chức năng trong gia đình thì tham gia vào các giao dịch dân sự là tất yếu trong mỗi gia đình.
Chính bởi vậy vợ hoặc chồng luôn là người thay mặt gia đình để trực tiếp thực hiện các giao
dịch thường ngày duy trì sinh hoạt gia đình. Những giao dịch hàng ngày liên quan đến tài sản
chung của cả vợ và chồng nhưng trên thực tế thường do một bên vợ, chồng tham gia đại diện
gia đình và trong trường hợp này việc đại diện là đương nhiên. Do tính chất của các giao dịch
thường là nhỏ liên quan trực tiếp đến việc duy trì sinh hoạt hàng ngày của gia đình, vì vậy
pháp luật không đề cập đến.
Như vậy, trong các giao dịch dân sự có tính chất quan trọng, liên quan đến tài sản chung có
giá trị lớn và các giao dịch khác mà theo quy định của pháp luật chỉ có thể được xác lập với
sự đồng ý của vợ hoặc chồng thì khi ấy vợ hoặc chồng tham gia giao dịch sẽ là là đại diện cho
nhau. Việc xác định ý chí của vợ hoặc chồng trong việc đại diện cho nhau ngoài việc đồng ý
của vợ hoặc chồng, vì lợi ích của phía bên kia thì còn một loại lợi ích đặc trưng nữa mà chỉ
tồn tại trong đời sống vợ chồng đó là lợi ích của các con và của gia đình. Các giao dịch dân


sự thường được cả hai vợ chồng đảm nhiệm thay nhau một cách linh hoạt nhưng chỉ có các
giao dịch quan trọng theo quy định của pháp luật mới cần sự thể hiện ý chí của cả vợ và
chồng. Trong các loại giao dịch này thì vợ chồng được phép ủy quyền cho nhau và việc ủy
quyền nhất thiết phải được thể hiện dưới hình thức văn bản
Ta có thể định nghĩa đại diện giữa vợ và chồng như sau:

Đại diện giữa vợ và chồng là việc một bên vợ hoặc chồng nhân danh cả hai người để
tham gia các quan hệ ngoài xã hội (như thực hiện những giao dịch dân sự, kinh tế…) theo
quy định của pháp luật hoặc pháp luật quy định cần phải có sự thỏa thuận của vợ chồng
nhưng người còn lại không trực tiếp tham gia được nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của vợ, chồng và gia đình và bên thứ ba trong giao dịch.
2.2. Đặc điểm chung của đại diện giữa vợ và chồng trong tương quan với đại diện
Thứ nhất, tư cách chủ thể trong đại diện giữa vợ và chồng trong tương quan với đại diện nói
chung:
Trong đại diện nói chung thì người đại diện được thực hiện các công việc không nhân danh
mình, có nghĩa là mọi hành động của người đại diện trong khi thực hiện các giao dịch dân sự
đều làm thay, làm hộ người được đại diện.
Người được đại diện lúc này có thể có mặt hay không có mặt khi giao dịch diễn ra nhưng về
mặt pháp lý thì người được đại diện lúc này không được phép thực hiện bất cứ một hành vi
pháp lý cụ thể nào nhân danh mình, và lúc này ý chí của người được đại diện cũng không
được đề cập đến. Vì khi đó người đại diện sẽ chính là chủ thể trong giao dịch mà không cần
đến người được đại diện nữa. Trong đại diện theo ủy quyền thì người đại diện của người được
ủy quyền sẽ thực hiện mọi quyền năng của người được đại diện trong phạm vi đã ký kết hợp
đồng ủy quyền nhưng bản chất thì hợp đồng hay giao dịch được ký giữa người được đại diện
với bên thứ ba chứ không phải của người đại diện. Người đại diện theo ủy quyền có quyền
thể hiện ý chí chủ thể của mình là muốn hay không muốn làm người đại diện. Tức trong điều
kiện nhất định thì chủ thể này có quyền từ chối nhận đại diện. Người đại diện theoủy quyền
chỉ được thực hiện những công việc theo ủy quyền. Cũng như vậy đối với đại diện theo pháp
luật thì người đại diện cũng thực hiện thay tư cách chủ thể của người được đại diện nhưng tư
cách chủ thể bị hạn chế hơn. Nếu rơi vào các điều kiện pháp luật quy định thì họ không có
quyền chối từ tư cách đại diện của mình. Và khi đó người đại diện sẽ bắt buộc phải thực hiện
nghĩa vụ của mình. Người đại diện có toàn quyền quyết định thay cho người được đại diện
trong mọi giao dịch liên quan đến người được đại diện. Như vậy đại diện theo pháp luật và
đại diện theo ủy quyền trong pháp luật dân sự đều là sự làm thay, làm hộ người khác, tuy
nhiên có sự phân biệt rõ ràng về tư cách chủ thể trong từng loại đại diện. Và ở đây mục đích
hướng tới chính là những lợi ích vật chất và phi vật chất nhất định mà cả hai bên chủ thể cùng

hướng tới, lợi ích này mang tính cá nhân đậm nét. Ngay cả trường hợp đại diện theo pháp luật
người đại diện thực hiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện nhưng
suy cho đến cùng thì vì quyền lợi của người đại diện trong việc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc
người bị mất, bị hạn chế năng lực hành vi hay chưa đến tuổi thành niên. Ví dụ như quyền yêu
cầu ly hôn trong luật tố tụng dân sự của một bên vợ, chồng.
Trong trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật thì cá nhân không được để người khác
đại diện cho mình mà họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó, (thông thường, đây là
những giao dịch liên quan đến quyền nhân thân) - vốn có đặc tính không thể chuyển giao cho
người khác, nên sẽ không đề cập đến tư cách chủ thể trong đại diện ở đây, vì bản chất không
giao dịch được nên không có đại diện.


Tóm lại, trong đại diện nói chung thì tư cách chủ thể của người đại diện luôn được xem xét
khi xác lập giao dịch cũng như các điều kiện khác do pháp luật quy định cụ thể.
Đối với đại diện giữa vợ và chồng thì tư cách chủ thể trong giao dịch lúc này thuộc về một
bên vợ hoặc chồng. Một bên tham gia giao dịch và bên còn lại coi như thống nhất ý chí.
Người vợ đại diện cho người chồng trong đại diện theo ủy quyền thì lúc này người chồng
không còn tư cách gì trong giao dịch này nữa vì trước khi giao dịch diễn ra thì người chồng
đã đồng ý chuyển tư cách pháp lý của mình cho vợ mình. Ở đây có sự làm thay, làm hộ
nhưng tư cách chủ thể của hai người hầu như không có sự phân định rõ nét, minh bạch. Ý chí
chủ thể của người đại diện nhiều khi là thống nhất với ý chí của người được đại diện. Thực
chất quan hệ vợ chồng đã là điều kiện đảm bảo tốt nhất cho tư cách chủ thể trong giao dịch
dân sự đối với bên thứ ba. Bởi vì khi tham gia giao dịch trong đại diện thông thường người
đại diện phải chứng


minh tư cách chủ thể của mình nhưng khi vợ và chồng đại diện cho nhau trong giao dịch thì
nhiều khi không nhất thiết phải làm vậy. Người vợ và người chồng đã trở thành những chủ
thể đặc biệt trong quan hệ đại diện, bởi giữa người đại diện và người được đại diện thống
nhất ý chí khi giao dịch. Cụ thể là khi người chồng là đại diện cho vợ mình và ngược lại thì

về bản chất là thay mặt vợ để thực hiện công việc, hay làm hộ vợ mình nhưng nhiều khi đó
lại là công việc chính người chồng phải làm, phải thực hiện. Có những trường hợp vợ chồng
đại diện cho nhau thì không chỉ nhân danh cho người đại diện mà nhiều khi còn nhân danh
và thể hiện ý chí của chính bản thân mình. Như vậy tư cách chủ thể trong đại diện giữa vợ
và chồng trong một số trường hợp là thống nhất, trùng khớp với nhau. Bên cạnh đó trong đại
diện giữa vợ và chồng thì tư cách chủ thể của vợ và chồng trong giao dịch khi một người
tham gia quan hệ đại diện thì không những là vợ chồng đại diện cho nhau mà nhiều khi vợ
chồng còn là người đại diện cho cả gia đình. Gia đình ở đây ngoài vợ và chồng thì còn con
cái nên tư cách chủ thể trong đại diện giữa vợ và chồng dường như nặng nề hơn so với đại
diện nói chung, có ảnh hưởng không nhỏ đến những quyết định của chủ thể khi giao dịch.
Đối với đại diện theo pháp luật thì trong đại diện nói chung và đại diện giữa vợ và chồng
đều tuân theo các quy định của pháp luật. Tư cách chủ thể của người đại diện và người được
đại diện trong những trường hợp nhất định được pháp luật quy định rõ ràng nhưng đối với
đại diện giữa vợ và chồng có vẻ mờ nhạt hơn. Chính bởi tư cách chủ thể của hai đối tượng
này nhiều khi trộn lẫn vào nhau nên việc pháp luật quy định những việc phải do chính cá
nhân người thành niên thực hiện thì đôi khi cũng không rõ ràng trong đời sống xã hội. Đối
với đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng trong trường hợp một người bị mất năng lực
hành vi thì quy định áp dụng như đối với người giám hộ trong đại diện nói chung.
Như vậy tư cách chủ thể trong đại diện giữa vợ và chồng thuận lợi và đơn giản hơn khi tham
gia giao dịch so với tư cách chủ thể trong đại diện nói chung. Việc một bên vợ chồng đại
diện cho nhau thực hiện giao dịch nhưng bản chất có những giao dịch tư cách chủ thể của
đại diện và được đại diện trùng nhau, thống nhất là một. Chính bởi vậy trong nhiều giao dịch
tư cách chủ thể của vợ và chồng không có có ý nghĩa pháp lý về đại diện nhưng lại có ý
nghĩa về việc đảm bảo thực hiện giao dịch đối với bên thứ ba. Bên thứ ba khi đó sẽ có cảm
giác an toàn, tin cậy hơn khi giao dịch với đối tác là một bên vợ hoặc chồng. Bởi vì nếu giao
dịch không được thực hiện đúng và đầy đủ thì việc bồi thường khi đó xảy ra được đảm bảo
hơn (có thể bồi hoàn bằng tài sản chung hoặc kể cả tài sản riêng của mỗi cá nhân vợ hoặc
chồng). Đặc biệt hơn là có những quan hệ trong đại diện theo pháp luật nói chung không thể
đại diện được nhưng đại diện của vợ và chồng lại thực hiện được đó là vợ chồng đại diện
cho nhau khi thực hiện những nghĩa vụ thuộc về nhân thân, cá nhân của một bên vợ hoặc

chồng. Ví dụ như thực hiện các nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ....
Nói tóm lại, đại diện giữa vợ và chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình là một trường
hợp đặc biệt trong đại diện nói chung của Luật dân sự, và vợ, chồng cũng là những chủ thể
đặc biệt trong pháp luật về đại diện.
Thứ hai, về ý chí chủ thể trong đại diện giữa vợ và chồng trong tương quan với đại diện:
Trong đại diện theo pháp luật dân sự thì ý chí của chủ thể là không thể thiếu đặc biệt đại
diện trong hợp đồng ủy quyền. Việc đại diện theo ủy quyền chỉ có thể thực hiện khi mà
người đại diện có ý chí muốn đại diện, tức sự tự do ý chí sẽ ràng buộc người đại diện và
người được đại diện trong hợp đồng ủy quyền để xác lập phạm vi đại diện trong giao dịch.
Cũng giống như hợp đồng trong đại diện theo ủy quyền cần sự thể hiện ý chí của bên nhận
ủy quyền cũng như sự đồng ý của bên ủy quyền. Sẽ là không thỏa đáng và hợp đồng ủy
quyền có thể bị vô hiệu khi mà một trong hai bên không có sự tự do ý chí và bị rơi vào các
trường hợp như: lừa dối, nhầm lẫn, ép buộc... Tùy từng trường hợp cụ thể hợp đồng được ký
kết bởi người đại diện và người được đại diện sẽ vô hiệu vì không có tự do ý chí trong hợp
đồng đại diện. Như chúng ta đã biết một người chỉ bị ràng buộc bởi ý chí của chính mình,
cho nên khi sự tự do ý chí bị vi phạm thì sẽ không có hợp đồng ủy quyền và cũng không
phải gánh chịu hậu quả từ những gì mà người đại diện thực hiện.


Bên cạnh việc tự do ý chí để đại diện được thực hiện thì nhất thiết hai bên phải có sự tin cậy
lẫn nhau. Người ta sẽ không bao giờ giao cho một người mà mình không tin cậy thay mặt
mình thực hiện những hành vi mà hậu quả của nó có thể là thiệt hại lớn về tài sản, uy tín,
danh dự… của mình. Sự tin cậy là do những hành vi mà người đại diện thực hiện sẽ mang
lại cho người được đại diện một sự ràng buộc nhất định vào những hậu quả được xác lập bởi
những hành vi đó. Hành vi giao kết các hợp đồng của người đại diện trong phạm vi ủy
quyền, cũng chính là hành vi mà người được đại diện xác lập, hệ quả từ việc giao kết hợp
đồng hoàn toàn do người được đại diện gánh chịu bởi vậy sự tin tưởng là phần không thể
thiếu khi ta nói tới đại diện trong giao kết hợp đồng. Điều này cũng hoàn toàn tự nhiên như
chính bản chất của mỗi sự việc, vì trong mỗi chúng ta sẽ không dễ dàng gì để cho một người
khác thực hiện những công việc nhân danh mình, khi mà mình không hoàn toàn tin tưởng

người đó vào thực hiện công việc lại không vì lợi ích của mình. Đây cũng chính là một trong
những căn cứ cơ bản để việc tòa án quyết định cử người giám hộ, cử người đại diện theo
pháp luật. Ý chí của chủ thể trong đại diện sẽ thể hiện rõ mục đích hướng tới của chủ thể khi
tham gia quan hệ đại diện. Mục đích này có thể là vật chất và cũng có thể là phi vật chất,
nhưng bao giờ cũng được thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ đại diện.
Yếu tố ý chí chủ thể này trong đại diện giữa vợ và chồng này luôn được đảm bảo về mặt
hình thức chính bởi mối quan hệ đặc biệt hôn nhân. Như đã phân tích ở trên về ý chí của
người đại diện và người được đại diện trong quan hệ vợ chồng thường là được thống nhất.
Sự thống nhất này có thể do vợ chồng thống nhất thỏa thuận với nhau hoặc sự phân chia
trách nhiệm trong gia đình. Có những hoạt động liên quan đến tài sản chung của vợ chồng
khi một người đại diện thực hiện công việc thì ý chí của người kia được mặc nhiên coi là đã
có sự đồng thuận. Về lý luận thì việc chồng hoặc vợ thực hiện bất cứ hành vi nào liên quan
đến tài sản chung đều vì mục đích và lợi ích chung của gia đình nên khi một trong hai người
thực hiện một giao dịch nào đó thì coi như đại diện gia đình thực hiện công việc, trừ một số
trường hợp khác. Hơn nữa khi vợ chồng thực hiện hành vi đại diện cho nhau thì lòng tin
giữa hai người đại diện hầu như không cần đề cập đến vì hai vợ chồng sẽ luôn là người tin
cậy nhau. Bên cạnh đó vợ chồng khi đại diện cho nhau để thực hiện một giao dịch nào đó thì
yếu tố vì lợi ích của người được đại diện luôn được đảm bảo vì khi đó lợi ích của người
được đại diện nhiều khi là thống nhất với lợi ích của người đại diện, và trong một số trường
hợp là trùng khít với nhau về lợi ích. Và như vậy khi lợi ích của hai bên không có mâu thuẫn
thì việc thực hiện giao dịch sẽ thuận lợi hơn, và bên thứ ba cũng yên tâm hơn khi tham gia
giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Bên cạnh những đặc biệt từ quan hệ vợ chồng đem lại thì bản thân vợ chồng cũng là hai cá
thể riêng biệt, cũng sẽ có những hoạt động riêng biệt mang tính cá nhân không liên quan đến
tư cách vợ chồng hay gia đình trong giao dịch, bởi vậy việc phân biệt đại diện giữa vợ và
chồng liên quan đến tài sản riêng của mỗi người sẽ là cần thiết. Điều này sẽ trở nên phức tạp
đối với bên thứ ba khi tham gia giao dịch, vì vậy lưu ý nhỏ này sẽ là cần thiết trong trường
hợp vợ chồng đại diện cho nhau khi giao dịch liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng, và
việc áp dụng cơ chế pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại là khác nhau (sẽ không có việc áp
dụng liên đới chịu trách nhiệm của vợ và chồng nữa).

Trong đại diện theo pháp luật thì việc tham gia vào quan hệ đại diện nhiều khi là do nghĩa vụ
bắt buộc nên việc các bên thể hiện mục đích hướng tới của mình khi tham gia giao dịch là
các hành vi buộc phải làm. Khi đó việc quy định yếu tố ý chí, lòng tin không phải lúc nào
cũng cần thiết bởi đó là trong một số trường hợp đại diện đương nhiên, bắt buộc, mang tính
miễn cưỡng vì đó là những trường hợp do pháp luật quy định. Và như vậy sẽ không có sự tự
do ý chí, hay tin cậy nào vì pháp luật đã dự liệu những tình huống pháp lý, mà buộc những
người có nghĩa vụ phải tuân thủ và buộc phải thực hiện và không có sự lựa chọn nào khác
như: đại diện cho con chưa thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự…
Trong những trường hợp này người đại diện không có cơ hội để lựa chọn thực hiện, hay
không thực hiện một số hành vi nhất định vì khi đó việc nhân danh người khác của người đại
diện là vô cùng cần thiết và đã được pháp luật quy định, nên họ nhất thiết phải thực hiện một


hành vi nào đó để thay mặt cho người được đại diện thực hiện quyền dân sự của người này.
Theo quy định của pháp luật vợ chồng bắt buộc là đại diện khi một trong hai người bị mất
năng lực hành vi, cha mẹ là người giám hộ khi con chưa thành niên…thì việc ý chí muốn
hay không muốn làm đại diện cũng không xét đến ở đây. Cũng như vậy đối với nghĩa vụ
buộc phải làm một việc gì đó đại diện cho nhau trong quan hệ vợ chồng mang tính chất bắt
buộc nhiều hơn, không thế trốn tránh. Đại diện của vợ, chồng khi một bên chồng, vợ bị mất
năng lực hành vi dân sự là quy định bắt buộc, duy nhất thể hiện nghĩa vụ vợ chồng trong
quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Còn việc quy định nghĩa vụ đại diện theo pháp luật
nói chung thì thường mang tính sự vụ, nhiều khi chỉ là tạm thời. Hoặc nếu là đại diện theo
pháp luật trong trường hợp con chưa thành niên thì người đại diện cũng còn có cả cha và mẹ
nên yếu tố trách nhiệm đôi khi cũng đỡ nặng nề hơn.
Tóm lại, ý chí chủ thể của người đại diện và người được đại diện trong đại diện theo pháp
luật dân sự là một yếu tố không thể không tách bạch trong các giao dịch dân sự nói chung,
và các chủ thế khác trong giao lưu dân sự. Còn đối với quan hệ hôn nhân và gia đình thì việc
xác định ý chí chủ thể này trong nhiều trường hợp không cần đề cập đến bởi ý chí của hai
bên vợ chồng thường là thống nhất trong nhiều trường hợp, nhiều giao dịch dân sự.
Thứ ba, về phạm vi đại diện giữa vợ và chồng trong tương quan với

đại diện nói chung.
Trong đại diện nói chung người đại diện được toàn quyền nhân danh người được đại diện
thực hiện toàn bộ hành vi liên quan đến giao dịch và chỉ bị giới hạn bởi yếu tố phạm vi đại
diện. Tiếp theo nữa người đại diện phải thực hiện hành vi đại diện theo đúng nguyên tắc là
vì lợi ích của người được đại diện. Phạm vi của đại diện thường được giới hạn cụ thể trong
văn bản ủy quyền khi hai bên ký kết văn bản ủy quyền, hoặc đã được quy định cụ thể trong
pháp luật, nên việc các bên khi thực hiện công việc ủy quyền phải xác định được phạm vi
đại diện của mình. Có như vậy việc vượt quá phạm vi đại diện được xác định, và có căn cứ
để xác định việc vượt quá phạm vi này. Trong trường hợp đại diện theo pháp luật đã được
quy định cụ thể trong luật thì giới hạn xử sự này đã được nhà lập pháp dự liệu, việc thực
hiện đại diện có sự giám sát của cơ quan thực thi pháp luật trong các hoạt động đại diện.
Phạm vi đại diện theo pháp luật thường thấy trong giám hộ, đại diện khi người được đại diện
bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi… Giới hạn của việc đại diện ở đây chính là việc
quy định của pháp luật về những việc được phép làm và những việc không được làm khi
tham gia quan hệ đại diện nhất định. Nếu vượt quá giới hạn đó, hoặc các bên cố tình thỏa
thuận, thống nhất làm những việc pháp luật không cho phép, thì các giao dịch đều vô hiệu và
có thể bị chấm dứt việc giám hộ, đại diện.
Đối với đại diện thông qua hợp đồng ủy quyền, thì phạm vi ủy quyền có thể được hiểu là tất
cả những gì mà một người có thể hành động ở tư cách của một người khác trong sự cho
phép của người đó, hay ta cũng có thể hiểu đó chính là sự giới hạn xử sự của một người mà
người đó không phải là chính mình trong sự cho phép của người khác. Đại diện được xác lập
thông qua một hợp đồng ủy quyền, mà ủy quyền thì hình thức của nó có thể là bằng văn bản.
Trong đó quy định rõ ràng về giới hạn xử sự của bên được ủy quyền hay bên đại diện. Phạm
vi ủy quyền càng rộng thì thẩm quyền của người đại diện càng lớn, tùy thuộc vào hành vi
được ủy quyền mà người đại diện có thẩm quyền rộng hay hẹp. Tùy thuộc vào nội dung của
ủy quyền mà người đại diện có thể tự do thực hiện mọi hành vi nhưng cũng có những trường
hợp việc tự do thực hiện này bị giới hạn. Nếu hành vi phải thực hiện là nghĩa vụ về kết quả
công việc, thì người đại diện có quyền tự do hành động miễn sao mang lại kết quả như mong
muốn của người được đại diện, trừ trường hợp trong thỏa thuận có quy định khác. Người đại
diện về nguyên tắc nếu không muốn chịu trách nhiệm từ những giao dịch mà mình thay mặt

người được đại diện thực hiện thì phải hành động trong phạm vi ủy quyền. Bởi thực chất
việc thực hiện này không phải là hành vi của người đại diện mà là hành vi của người được
đại diện với người thứ ba. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp mà người đại diện lại chính là
người phải chịu trách nhiệm khi có tranh chấp xảy ra, đó là khi người thứ ba không được


thông báo về việc đại diện hoặc người đại diện khi giao kết hợp đồng, không thông báo rõ là
mình đang đại diện cho một người khác giao kết hợp đồng với phía bên kia.
Như vậy, phạm vi đại diện luôn được xác định một cách rõ ràng khi hai bên giao kết hợp
đồng trong đại diện theo ủy quyền. Đây được coi như văn bản pháp lý quy định phạm vi đại
diện đối với các bên đại diện trừ khi các bên thỏa thuận những điều pháp luật cấm. Văn bản
pháp lý này sẽ chấm dứt hiệu lực khi các bên hoàn thành giao dịch. Còn đối với đại diện
theo pháp luật thì phạm vi đại diện cũng thể hiện trong văn bản pháp luật hoặc các văn bản
của cơ quan nhà nước khác khi trao quyền đại diện cho một cá nhân, tổ chức nào đó. Bên đại
diện chỉ được phép thay mặt để xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch vì lợi ích của
bên được đại diện.
Nhưng đối với đại diện giữa vợ và chồng thì phạm vi đại diện giữa hai vợ chồng thường là
không được riêng rẽ cụ thể như vậy. Nhiều khi vợ chồng đại diện cho nhau mà không cần
phạm vi nào cả. Người chồng có thể thay mặt vợ mình thực hiện nhiều hành vi không giới
hạn miễn sao vì lợi ích của người vợ và của gia đình. Đây chính là mấu chốt của vấn đề khi
vợ chồng đại diện cho nhau trong giao dịch dân sự và hôn nhân và gia đình. Vì khi người vợ
và người chồng thay mặt cho nhau thực hiện một giao dịch thì không chỉ làm việc làm hộ vợ
hay chồng mình mà còn làm hộ những người thân khác trong gia đình. Mỗi hành động đại
diện của người này không chỉ vì lợi ích của người kia mà còn là lợi ích của cả gia đình, của
con cái và còn vì lợi ích của chính mình. Chính bởi vậy việc quy định phạm vi đại diện giữa
vợ và chồng nhiều khi không nhất thiết phải quy định. Vì mỗi hành động đại diện của một
bên vợ chồng mang đầy tính trách nhiệm trong đó, kể cả trách nhiệm pháp lý lẫn trách
nhiệm xã hội. Đặc biệt đối với bên thứ ba trong giao dịch họ không cần quan tâm đến phạm
vi đại diện của chồng đối vợ và ngược lại cũng như đối tượng hướng tới trong giao dịch có
ảnh hưởng đến cuộc sống vợ chồng hay không. Người thứ ba trong giao dịch cũng không

cần quan tâm loại giao dịch nào thì cần có sự thông báo của bên đại diện. Họ chỉ cần quan
tâm đến tài sản đó là tài sản chung hay tài sản riêng, ý chí của vợ chồng có thống nhất trong
việc định đoạt tài sản đó không? Khi có vấn đề gì xảy ra thì khi đó tính chịu trách nhiệm của
vợ chồng là như thế nào? Với tính chất đặc biệt trong quan hệ vợ chồng thì việc chịu trách
nhiệm là như nhau không phân biệt loại giao dịch đó là có phải thông báo hay không thông
báo. Việc chịu trách nhiệm ngang nhau này là do hành vi, ý chí đại diện của vợ chồng luôn
thống nhất với nhau trong quan hệ đại diện.
Trong giao dịch, khi thực hiện chế định đại diện có một đặc điểm mà thường dễ bị bỏ qua
trong khi giao dịch vì thực ra đó là điều đương nhiên khi tham gia giao dịch. Điều đấy chính
là năng lực thực hiện công việc của người nhận đại diện và có những công việc không được
phép đại diện hay nói cách khác đó là loại công việc mà thuộc về quyền và nghĩa vụ của
riêng bên được đại diện mà không thể làm thay, làm hộ. Ở đây có thể khẳng định đó cũng
chính là phạm vi đại diện. Năng lực thực hiện công việc của bên nhận đại diện chính là năng
lực thực hiện hành vi nhưng không có nghĩa có khả năng thực hiện tốt mọi công việc, có
những công việc mang tính đặc thù trong xã hội hay đặc biệt hơn những công việc này thuộc
về kỹ năng của riêng từng ngành nghề hoặc một lĩnh vực nhất định thì việc lựa chọn người
đại diện cũng am hiểu và có kiến thức về ngành nghề và lĩnh vực cần đại diện là vô cùng cần
thiết. Ví dụ khi một người trong lĩnh vực hội họa nhưng khi cần một người đại diện cho
mình để ký hợp đồng chuyển nhượng một bức tranh cho người nước ngoài thì người đại diện
để ký hợp đồng này cần thiết là người am hiểu về hợp đồng thương mại với loại hàng hóa
đặc biệt này chứ không phải người đại diện phải am hiểu về lĩnh vực hội họa hay hợp đồng
nói chung. Chính bởi vậy năng lực thực hiện của người nhận đại diện phù hợp với công việc
cần đại diện cũng là một điểm đáng lưu ý khi người được đại diện thực hiện việc giao kết
hợp đồng đại diện. Như vậy ngoài cơ sở là lòng tin của người được đại diện và người nhận
đại diện thì việc lưu ý không thể thiếu là năng lực thực hiện công việc của người đại diện.
Bên cạnh đó năng lực thực hiện công việc còn phải hiểu nội dung công việc cần đại diện như
thế nào bởi trong đại diện không phải công việc nào cũng được pháp luật cho phép đại diện.
Mỗi cá nhân có rất nhiều việc phải làm nhưng vì lý do nào đó họ không muốn tự mình thực



hiện, nhưng không phải công việc nào họ cũng có thể được phép ủy quyền cho người đại
diện, vì có những công việc thuộc về quyền và nghĩa vụ của bên được đại diện mà không thể
thay thế như: các công việc thuộc về nhân thân người được đại diện, hoặc một số công việc
thuộc tố tụng không thể thay thế như: đại diện cho đương sự trong vụ án ly hôn, đại diện khi
ký kết văn bản liên quan đến nhân thân của cá nhân mỗi người... Đại diện vợ, chồng cũng
không là ngoại lệ trong trường hợp này.
Như vậy, những đặc điểm cơ bản của đại diện giữa vợ và chồng đã được nhắc tới ở trên. Khi
có một quan hệ đại diện thì việc đầu tiên ta phải xem xét chính là tính hợp pháp của quan hệ.
Là đại diện theo pháp luật hay theo ủy quyền, từ đó thấy được tính hợp pháp trong quan hệ
này. Đặc biệt là đại diện theo ủy quyền, thì người được ủy quyền có nghĩa vụ phải thực hiện
các hành vi pháp lý trong phạm vi ủy quyền. Người được ủy quyền phải trực tiếp thực hiện
nghĩa vụ của mình mà không được ủy quyền lại cho người khác trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác và quan hệ của người ủy quyền với bên thứ ba trong giao dịch. Người được
ủy quyền với tư cách của người đã ủy quyền giao kết hoặc thực hiện các giao dịch dân sự
với bên thứ ba. Với tư cách là người đại diện thì người này sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp
luật về đại diện hoặc theo thỏa thuận nhưng không thể trái quy định của pháp luật. Còn đối
với chủ thể là vợ chồng khi đại diện cho nhau trong giao dịch thì việc cần xem xét tính hợp
pháp của quan hệ vợ chồng, vì nếu không phải là vợ chồng hợp pháp thì việc áp dụng quan
hệ đại diện như với dân sự chứ không phải là đại diện giữa vợ và chồng, và liên quan đến
tính chịu trách nhiệm về tài sản trong việc thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó việc xem xét tính
chất của giao dịch có được đại diện hay không, điều này thì tương đối rõ vì những quy định
của pháp luật đã rõ ràng. Thêm nữa cần phải xem xét phạm vi đại diện liên quan đến tài sản
chung hay riêng vì khi liên quan đến loại tài sản nào thì sẽ có quy chế áp dụng theo loại tài
sản ấy. Trả lời được các câu hỏi này là việc cần thiết khi tham gia giao dịch dân sự liên quan
đến đại diện.
II. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ ĐẠI DIỆN GIỮA
VỢ VÀ CHỒNG
1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm (1945) Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến
đặt dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Nước ta lúc đó chia làm 3 miền Bắc kỳ, Trung kỳ

và Nam kỳ. Song song với việc chia để trị đó thì có ba Bộ luật Dân sự điều chỉnh. Tại Bắc
kỳ áp dụng Bộ dân luật năm 1931, Trung kỳ áp dụng Bộ dân luật năm 1936 và Nam kỳ áp
dụng Bộ Dân luật giản yếu năm 1883. Cả ba bộ luật trên đều có chung một số đặc điểm về
việc duy trì chế độ đa thê, bảo vệ củng cố quyền lợi của người gia trưởng trong gia đình và
vai trò của người phụ nữ không được coi trọng... Trong thời kỳ này vai trò của người phụ nữ
nói chung là phụ thuộc chồng, con (khi chồng chết) nên muốn thể hiện vai trò gì người vợ
đều phải thông qua người chồng, được sự cho phép của người chồng. Tất cả mọi việc trong
gia đình đều phải có ý kiến đồng ý của người chồng, người vợ coi như không có quyền hành
gì. Người phụ nữ trong gia đình không được phép tự động làm việc gì, kể cả những việc đại
diện cho gia đình, vì lợi ích gia đình cũng vậy nếu người chồng không cho phép thực hiện
thì phải có sự cho phép của "quan chánh án đệ nhị" mới được thực hiện. Người vợ chỉ có
quyền quản lý những tài sản thường tức tài sản có giới hạn trong sinh hoạt gia đình "Vợ chỉ
được quyền quản lý tài sản tùy theo giới hạn được thay mặt gia đình mà thôi" [1, Điều 108].
Tức là ở đây đã có sự xuất hiện của đại diện của người vợ với gia đình tuy nhiên:
Phàm người vợ chính muốn tặng, cho, chuyển dịch, cầm thế, thu nhận vật gì, có mất
tiền hay không mất tiền, tất phải do người chồng cùng ký trong văn khế, hoặc phải có giấy
của người chồng cho phép mới được. Khi nào vợ thứ đứng thay mặt cho gia đình hay chủ sự
lợi ích cho gia đình mà lập khế ước với ai cũng phải thế [1, Điều 102].
Như vậy người vợ trong thời kỳ này để được làm bất cứ điều gì đều phải có sự đồng ý của
chồng đã hạn chế rất nhiều khả năng cũng như quyền năng của người vợ trong gia đình, đặc
biệt thể hiện sự mất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng. Chính vì vậy việc đại diện giữa vợ


và chồng không thể thực hiện được một cách tuyệt đối, chỉ có một chiều. Người vợ có được
thay mặt gia đình đi chăng nữa nhưng nội dung của việc lập khế ước cũng phải do người
chồng quyết định. Người đàn ông, người gia trưởng, người thừa kế trong gia đình mới được
phép đại diện cho vợ chính và vợ thứ để thực hiện mọi giao dịch trong gia đình. Người đàn
ông có toàn quyền sử dụng tài sản chung trong gia đình không cần phải có sự bằng lòng của
người vợ trừ khi tài sản ấy là bất động sản là kỷ phần của người vợ miễn là dùng vào việc có
ích lợi cho gia đình. Chính xuất phát từ hệ thống tư tưởng như vậy nên không có sự xuất

hiện của đại diện của vợ cho chồng trong thời kỳ này.
2. Giai đoạn từ 1945 đến nay
2.1. Giai đoạn đất nước ta trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (19451954)
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, để bảo vệ nhà nước non trẻ chủ trương xây dựng
pháp luật để điều chỉnh mọi mặt xã hội được áp dụng. Năm 1946 Hiến pháp nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã ra đời đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp nước ta.
Tại đây Hiến pháp quy ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt. Đây chính là
cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng để xây dựng các chế độ về hôn nhân gia đình. Quan niệm
về vai trò của người phụ nữ trong gia đình đã thay đổi, giờ khi lấy chồng họ không mất hết
quyền lực như trước nữa mà họ có toàn năng lực thực hiện mọi hành vi dân sự mà không cần
có sự cho phép của người chồng. "Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình" [2, Điều
5], "Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mật hộ" [2, Điều 6]. Theo quy định này
người vợ trong gia đình đã thay đổi hoàn toàn địa vị pháp lý của mình, họ không còn lệ
thuộc hoàn toàn vào người chồng như trước đây nữa. Họ được bình đẳng trước pháp luật và
vị trí ngang hàng với chồng mình trong các quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy trên phương
diện pháp lý thì người vợ đã có những quyền lợi và nghĩa vụ cùng chồng mình quyết định
những vấn đề quan trọng của gia đình liên quan đến tài sản chung, con chung. Trong sắc
lệnh này chưa nhắc đến việc vợ chồng đại diện cho nhau nhưng thông qua các quy định về
quyền của người phụ nữ để thấy được vị trí pháp lý của người phụ nữ trong mối quan hệ với
người chồng.
Việc quy định đưa vai trò của người phụ nữ đã phá bỏ hoàn toàn luật lệ lạc hậu của chế hôn
nhân và gia đình phong kiến, góp phần vào việc giải phóng phụ nữ, thúc đẩy sự phát triển
của xã hội.
2.2. Giai đoạn đất nước bị chia cắt, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam (1954-1975)
Trong tình hình đất nước tạm thời chia cắt, với hai nhiệm vụ chính trị khác nhau. Miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ xây dựng xã hội chủ nghĩa, là hậu phương lớn chi viện cho miền
Nam, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước. Tuy đã có
hai Sắc lệnh (Sắc lệnh số 97-SL và Sắc lệnh số 159-SL) góp phần xóa bỏ chế độ hôn nhân
và gia đình phong kiến nhưng do ảnh hưởng nặng nề của chế độ hôn nhân này, nên trướ c

yêu cầu thực tế về một đạo luật về hôn nhân và gia đình đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ
nữ và xây dựng xã hội chủ nghĩa, dự luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội thông qua
ngày 29-12-1959. Đây là công cụ pháp lý hữu hiệu để xóa bỏ những tàn tích lạc hậu của chế
độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ
nghĩa. Trong bộ luật này vị trí pháp lý của người phụ nữ một lần nữa được khẳng định,
không còn tư tưởng trọng nam khinh nữ, người vợ có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng
tài sản có trước và sau khi cưới. Tại các quy định tại bộ luật này cho thấy người phụ nữ được
tạo mọi điều kiện để được bình đẳng với người chồng trong mọi hoạt động của gia đình.
Người phụ nữ ngày càng tự do hơn trong cả suy nghĩ và hành động cũng như vị thế xã hội.
Đây chính là những điểm tiến bộ mà pháp luật xã hội chủ nghĩa mang lại cho người phụ nữ
nhiều quyền năng và trách nhiệm hơn, giảm bớt áp lực cho người chồng trong mọi giao dịch
của gia đình.


Cùng thời điểm này nhưng ở miền Nam lại áp dụng ba văn bản khác nhau đó là Luật gia
đình ngày 02/01/1959 (luật số 1/59) dưới chế độ Ngô Đình Diệm quy định các vấn đề về
"giá thú, tử hệ, chế độ phu phụ tài sản"... Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 thay thế Luật gia
đình ngày 02-01-1959 "quy định về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng". Bộ Dân luật ngày
20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu quy định rõ hơn về quan hệ vợ chồng nhưng đều
thừa nhận quyền tự do lập hôn ước của vợ chồng và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ
được áp dụng khi vợ chồng không lập hôn ước. Như vậy đại diện giữa vợ và chồng cũng
chưa được nhắc đến nhưng việc lập hôn ước cùng với những quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng kèm theo hôn ước cũng như việc vợ chồng xác định về chế độ tài sản chung đã thấy
rõ được vai trò cũng như vị trí của người phụ nữ trong giai đoạn này. Tuy nhiên đây là các
văn bản pháp luật phục vụ cho Nhà nước phản động, đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân
tộc.
Tựu chung lại là cả ba bộ luật này đều bảo vệ chế độ gia trưởng, thể hiện sự bất bình đẳng
của vợ chồng trong gia đình và như vậy việc đại diện giữa vợ và chồng không được thể hiện
rõ nét.
2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay

Quan hệ đại diện của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Với
thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, đất nước thống nhất cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
thống nhất đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật thống nhất cả hai miền Bắc - Nam. Vì thế Luật
Hôn nhân và gia đình 1959 được đưa vào thực hiện thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình đã đạt được những thành tựu đáng kể,
góp phần xóa bỏ những lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, cải thiện được
đáng kể vị trí vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên tình hình kinh tế, xã hội đã
có sự thay đổi lớn nên việc ra đời một đạo luật mới cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội là một
đòi hỏi khách quan. Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1980 quy định về chế độ chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời dựa trên những nguyên
tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên tại đây các quy
định pháp luật còn mang tính khái quát, định hướng chưa cụ thể dẫn đến còn nhiều vư ớng
mắc trong việc áp dụng giải quyết các tranh chấp từ quan hệ hôn nhân ngay từ việc xác định
tài sản của vợ, chồng.... Chính vì vậy đại diện giữa vợ và chồng cũng chưa được nhắc tới
trong văn bản pháp luật này. Các quy định để cụ thể hóa quyền lợi của người phụ nữ trong
giai đoạn này đã được thể hiện trong luật tuy nhiên chưa thật sâu sắc.
Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 lần đầu tiên quan hệ đại diện giữa vợ và chồng đã
được nhắc đến tại Điều 24 của luật này. Điều này thể hiện tính kế thừa và phát triển của
pháp luật về hôn nhân gia đình cũng như quan điểm thống nhất về giải phóng phụ nữ. Đến
đây vị trí của người phụ trong xã hội đã được khẳng định. Việc đánh giá công sức của người
phụ nữ trong các hoạt động xã hội cũng như trong gia đình đã được ghi nhận một cách thỏa
đáng. Với vai trò không thể thiếu trong nhiều hoạt động xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa
đã thống nhất về tư tưởng trong hoạt động lập pháp về vấn đề này.
Tiếp theo đó là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tại đây không giải thích thêm về đại diện
giữa vợ và chồng nhưng đã làm rõ hơn những vấn đề liên quan đến các giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản của vợ và chồng tại Điều 4 của Nghị định này.
Đặc biệt, vấn đề này được quy định rõ hơn tại Khoản 1, Điều 62 Bộ luật Dân sự năm 2005
về việc đại diện theo pháp luật của một bên vợ chồng khi bên kia bị mất năng lực hành vi

dân sự. Người đại diện theo pháp luật này phải đảm bảo có đủ điều kiện giám hộ.
Qua đó đã quy định quyền đại diện của vợ, chồng trong pháp luật dân sự và hôn
nhân và gia đình rõ ràng, cụ thể hơn. Vợ chồng được đại diện cho nhau trong các giao dịch
dân sự, dưới sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình và
Luật Dân sự Việt Nam.



CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUAN HỆ ĐẠI
DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
1. Đại diện giữa vợ chồng khi một bên vợ chồng bị mất năng lực hành vi dân sự
1.1. Điều kiện để xác định đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng một bên mất năng
lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi dân sự của một cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện những quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Đây chính là khả năng để cá
nhân tiến hành các hành vi nhất định nhằm thực hiện năng lực pháp luật cũng như khả năng
độc lập gánh chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình theo quy định: "Năng lực hành vi
dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự" [22, Điều 17]. Như vậy mỗi cá nhân có khả năng và tùy theo nhu cầu của
mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự để thỏa mãn một hay một số lợi ích nhất định
và chịu trách nhiệm về các hành vi đó.
Mất năng lực hành vi dân sự là: "Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ
sở kết luận của tổ chức giám định" [22, Điều 22]. Như vậy không phải một người bị tâm
thần hoặc không nhận thức được về hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân
sự mà phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau đây:
* Theo quy định trên thì khi một người do bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh

khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình có nghĩa là người này không
thể có khả năng nhận biết những khái niệm, cũng như giao tiếp của một người bình thường.
Họ không thể nhận thức đến tình trạng sức khỏe tâm thần liên quan đến bản thân cũng như
các hoạt động xung quanh mình. Họ không thể nhận ra đâu là người thân quen, đâu là người
lạ, đâu là điều có lợi, đâu là có hại ảnh hưởng đến bản thân mình. Tình trạng tâm thần của họ
sẽ được cơ sở giám định có chuyên môn xác định và xác nhận. Đây chính là cơ sở pháp lý
để xác định một người có năng lực hành vi dân sự hay không mặc dù bằng mắt thường thì
bất cứ một người nào cũng nhận thấy việc mất hoặc hạn chế năng lực hành vi của người này.
Như vậy, một người bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác như hoảng loạn, hôn mê, tâm thần
phân liệt, mất trí nhớ… không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình là
một trong những dấu hiệu để tuyên bố là mất năng lực hành vi.

*

Một người bị bệnh tâm thần hay các bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình sẽ không bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi người có
quyền và lợi ích liên quan không đề nghị Tòa án tuyên bố là người mất năng lực hành vi dân
sự.
*
Trên thực tế ta thấy rằng không phải tự nhiên mà người thân trong gia đình
của người mất năng lực hành vi dân sự lại đề nghị Tòa án tuyên bố tình trạng sức khỏe tâm
thần của người thân trong gia đình họ. Thực tế cho thấy chỉ trong những điều kiện nhất định,
hay xuất hiện những sự kiện pháp lý thì việc yêu cầu tòa án tuyên bố một người bị mất năng
lực hành vi dân sự mới được thực hiện. Việc đề nghị tòa án tuyên bố về tình trạng mất năng
lực hành vi dân sự của người có quyền và lợi ích liên quan phải được thực hiện theo quy
định của pháp luật về tố tụng đó là: có đơn yêu cầu trong đó ghi đầy đủ thông tin theo mẫu
và đi kèm theo đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự phải có
kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh
tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
[21, Khoản 2 Điều 319]. Việc yêu cầu tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự

thường do các chủ thể là cá nhân đề nghị tòa án khi tham gia các giao dịch hoặc thực hiện
nghĩa vụ dân sự mà có liên quan đến người bị mất năng lực hành vi, có thể là người thân


trong gia đình hoặc cá nhân khác có quyền và lợi ích liên quan. Cơ quan có thẩm quyền
tuyên bố một người mất năng lực hành vi là tòa án. Tuy nhiên, trong điều luật không nhắc
đến việc yêu cầu tòa án tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự của các cơ quan
tổ chức xã hội? Đây chính là vấn đề cần xem xét bởi trên thực tế thường thì việc tuyên bố sẽ
là không cần thiết nếu như mọi hoạt động của người bị mất năng lực hành vi dân sự được
kiểm soát bởi gia đình hoặc các tổ chức xã hội. Nhưng sẽ hết sức cần thiết khi người mất
năng lực hành vi dân sự không kiểm soát được hành vi gây ra hậu quả ảnh hưởng đến sự
phát triển bình thường của chính gia đình người đó cũng như cộng đồng nói chung. Hơn nữa
việc không kiểm soát được hành vi của người mất năng lực hành vi và thêm việc thiếu hiểu
biết của những người trong gia đình của người này còn có khả năng dẫn đến việc người mất
năng lực hành vi không tự bảo vệ được chính bản thân họ, dễ bị lạm dụng tổn thương đến
sức khỏe thể chất, sinh sản. Như vậy yếu tố tiếp theo để tuyên bố một người là mất năng lực
hành vi là có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự của
người có quyền, lợi ích liên quan.
*
Yếu tố tiếp theo để việc xác định năng lực hành vi của một người là được
tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi bằng một quyết định của tòa án. Quyết định này của
tòa án cũng tuân theo một trình tự nhất định được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trên cơ sở yêu cầu và những minh chứng kèm theo đơn chứng minh về tình trạng sức khỏe
tâm thần của người này mà Tòa án có thể tuyên bố một người là mất năng lực hành vi hoặc
không mất năng lực hành vi. Trong trường hợp cần thiết, nếu thiếu chứng cứ để tuyên bố
một người mất năng lực hành vi và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa
án trưng cầu cơ quan giám định để xác định tình trạng mất năng lực hành vi của một người.
Khi đủ các căn cứ và trình tự theo Luật định thì Tòa án sẽ tuyên bố một người là mất năng
lực hành vi dân sự. Tòa án ở đây được hiểu là tòa án nơi cư trú của người bị mất năng lực
hành vi, bởi đây sẽ là nơi thuận lợi nhất cho cả vợ và chồng trong các giao dịch dân sự cũng

như là việc hủy bỏ tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất năng lực hành vi khi những yếu
tố gây nên tình trạng mất năng lực hành vi dân sự của người này không còn tồn tại. Tuy
nhiên, trong quy định pháp luật ta không thấy quy định về căn cứ để hủy quyết định tuyên
một người là mất năng lực hành vi. Điều này khẳng định tính nhân văn của pháp luật Việt
Nam. Việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự cần thiết một sự cẩn trọng, vì
đây là một tuyên bố đưa thân phận của một người không còn là một con người đúng nghĩa
nữa nên Tòa án phải căn cứ vào những kết quả giám định về chuyên môn, chuyên ngành chứ
không thể tùy tiện tuyên bố theo yêu cầu từ phía những người có quyền lợi liên quan. Nhưng
khi tuyên bố hủy chính quyết đó của mình, Tòa án không cần căn cứ vào đâu bởi khi một
con người bình thường có tư duy có nhận thức thì bất cứ ai cũng có thể nhận ra mà không
cần đến những thủ tục giám định nữa. Hơn nữa việc một người tự ý thức được hành vi của
mình yêu cầu tòa án hủy quyết định về tuyên bố mất năng lực hành vi của chính mình là một
minh chứng rõ nét nhất về trạng thái tâm thần của họ.
Như vậy, khi một bên vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác, không thể nhận
thức được hành vi của mình thì người còn lại sẽ là một trong những chủ thể có quyền yêu
cầu tòa án tuyên bố chồng hoặc vợ mình bị mất năng lực hành vi dân sự. Khi đưa đơn yêu
cầu cần phải chứng minh được tình trạng sức khỏe tâm thần của chồng hoặc vợ mình bằng
giấy chứng nhận của cơ sở y tế hoặc những người thân trong gia đình thống nhất xác
nhận…Khi đó tòa án sẽ căn cứ vào yêu cầu và các chứng cứ khác để tuyên bố người chồng
hoặc người vợ là mất năng lực hành vi. Sau đó thì người còn lại nếu đủ điều kiện giám hộ sẽ
là người giám hộ đương nhiên của chồng hoặc vợ mình theo quy định "Vợ, chồng đại diện
cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người
giám hộ" [18, Khoản 2 Điều 24], [22, Khoản 1 Điều 62], thể hiện "tính đương nhiên" là đại
diện của nhau khi vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi. Theo đó thì khi một bên vợ hoặc
chồng bị tuyên bố là mất năng lực hành vi thì bên còn lại nếu đủ điều kiện giám hộ thì sẽ là
người đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự này khi thỏa mãn điều kiện:
- Có năng lực hành vi đầy đủ


- Có tư cách đạo đức tốt, không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc

người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
- Có điều kiện đảm bảo để thực hiện việc giám hộ [22, Điều 60].
Ta biết rằng khi một người bị tuyên bố là mất năng lực hành vi thì hậu quả của nó sẽ là mọi
hành vi của người này trong giao dịch sẽ coi là vô hiệu. Như vậy mọi việc liên quan đến
người này sẽ do người đại diện của họ thực hiện. Người đại diện đương nhiên của họ giờ
đây chính là vợ hoặc chồng hợp pháp của người đó. Người đại diện theo pháp luật của vợ
hoặc chồng sẽ xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh người bị mất năng lực
hành vi. Việc đại diện này tuân thủ các quy định của pháp luật dân sự về đại diện. Tuy nhiên
chúng ta cùng xem xét tính đương nhiên này theo quy định của pháp luật Việt Nam về đại
diện khi người vợ chưa đủ tuổi thành niên.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì nữ từ 18 tuổi trở lên có đủ điều kiện kết
hôn tức người nữ này chỉ cần 17 tuổi 1 ngày là có thể kết hôn mà không vi phạm về độ tuổi
kết hôn và đương nhiên là hôn nhân hợp pháp. Nhưng nếu trong khoảng thời gian từ lúc bắt
đầu 18 tuổi đến trước khi người nữ này đủ 18 tuổi người chồng bị tâm thần và bị tòa án
tuyên bố là người chồng mất năng lực hành vi dân sự thì người vợ lúc này có đương nhiên
trở thành người đại diện của người chồng không khi mà người vợ chưa có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ? Vì theo quy định tại Khoản 5, Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005 thì người
đại diện phải có "năng lực hành vi dân sự đầy đủ" tức người đã thành niên đủ 18 tuổi trở lên
(Điều 18, 19 Bộ luật Dân sự) mới đảm bảo điều kiện về tâm sinh lý, mới được pháp luật cho
phép là chủ thể tham gia vào quan hệ đại diện cũng như các quan hệ pháp luật khác. Vậy
trong trường hợp này vai trò, vị trí của người vợ sẽ được tính đến như thế nào, liệu vị trí của
người vợ và người chồng có bình đẳng với nhau hay không trong việc xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự cũng như trách nhiệm pháp lý của họ đối với những giao dịch loại này.
Nếu như không cho cho phép người vợ chưa thành niên này là đại diện đương nhiên cho
người chồng mất năng lực hành vi dân sự thì lại trái với quy định của Khoản 2 Điều 24 Luật
Hôn nhân và gia đình, tính đại diện đương nhiên không còn tồn tại. Như vậy, người vợ này
không được hưởng quyền và trách nhiệm của người làm vợ khi chồng mình bị mất năng lực
hành vi. Như vậy thì thật vô lý, vì dù sao hôn nhân của họ là hợp pháp, được pháp luật công
nhận. Người vợ lúc này sẽ không được tham gia bất cứ giao dịch nào liên quan đến chồng

mình vì chưa đến tuổi thành niên và ở phía gia đình của người vợ chưa thành niên này thì họ
có thể bị gạt ra mà không cơ quan nào bảo vệ được vì họ đã là phụ nữ lấy chồng và theo
chồng. Lúc này người vợ chưa thành niên sẽ không biết trông cậy vào đâu để thực hiện
quyền dân sự của mình. Qua quy định này của pháp luật thấy được sự mâu thuẫn của quy
định pháp luật Việt Nam.
Còn nếu cho phép người vợ này được đương nhiên đại diện cho chồng mình theo Khoản 2
Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình thì lại vi phạm quy tắc áp dụng pháp luật của Bộ luật
Dân sự. Bởi một trong những quy định của pháp luật về cá nhân giám hộ là phải đủ 18 tuổi.
Đây là độ tuổi tối thiểu theo quy định của pháp luật mới đảm bảo việc chăm sóc, bảo vệ
người bị mất năng lực hành vi. Như vậy, thật khó để áp dụng pháp luật trong trường hợp
này. Bên cạnh đó, quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự với người vợ trong trường hợp nói trên sẽ được bảo vệ như thế nào nếu sau khi giao
kết hợp đồng do tình hình thay đổi mà phía bên kia thấy bất lợi đã khiếu nại ra tòa và giao
dịch dân sự đó bị tuyên vô hiệu do không đủ năng lực hành vi dân sự?
Ta đặt vấn đề ngược lại khi người vợ chưa thành niên này bị tòa án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự có vi phạm hoặc gây thiệt hại thì ai sẽ là người đại diện cho họ? Bởi theo quy
định tại Khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự thì người đại diện theo pháp luật của người chưa
thành niên là cha mẹ của họ. Như vậy vai trò đại diện đương nhiên của người chồng đối với
vợ chưa thành niên của mình lại được đưa ra xem xét. Người đại diện tố tụng cho người vợ
chưa thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự bây giờ sẽ là người chồng hợp pháp hay là
cha mẹ của họ, anh chị họ? Tính đương nhiên đại diện của vợ chồng trong Khoản 2 Điều 24


×