Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT và HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP lý của LUẬT sư ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.66 KB, 42 trang )

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở
VIỆT NAM


- Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến nay
- Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1987
Hiểu theo nghĩa rộng và xem xét về mặt bản chất, hoạt động
của luật sư trong buổi đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa gắn liền với hoạt động "tư pháp bảo trợ" mà thực chất là chính
là hoạt động trợ giúp pháp lý hiện nay. Tư tưởng tiến bộ này xuất
phát từ tình yêu nước, thương dân và cũng bảo đảm cho yêu cầu
bảo vệ uy tín của Nhà nước dân chủ nhân dân còn khá non trẻ
trong nhiệm vụ bảo vệ người dân, tránh oan sai, lạm quyền hoặc
ức hiếp dân cũng như không để bỏ lọt tội phạm, đồng thời giúp
cho hoạt động điều tra, xét xử tội phạm được bảo đảm tiến hành
đúng quy trình tố tụng như các quốc gia văn minh, tiến bộ khác.
Ngay trong Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ghi nhận tại Điều 67 một nguyên tắc cơ bản: "Người bị cáo được
quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư". Đồng thời, Điều 44
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định: "Trong việc đại
hình, nếu trước Tòa án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố
một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư,
hoặc bào chữa viên để bào chữa" [8]. Theo Sắc lệnh này, "các luật


sư, bào chữa viên nhân dân có quyền biện hộ trước tất cả các Tòa
án, trừ những Tòa án nhân dân huyện và Tòa án binh tại mặt trận"


[8, Điều 46].
Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946 cũng quy định:
"Nguyên cáo hoặc bị cáo trong một việc hộ có quyền xin tư pháp
hỗ trợ" [9]. Nếu "người đương sự" được kiện thì việc cho "tư pháp
bảo trợ" có hiệu lực cho đến khi thi hành xong bản án mà "người
đương sự" không phải nộp một khoản lệ phí nào, kể cả việc cấp
trích lục án, phí tổn này sẽ do công khố chịu.
Đến Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 (được Sắc lệnh số
144 ngày 22/12/1949 sửa đổi) cho phép nguyên cáo, bị can, bị cáo
có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình
trước Tòa án xử việc hộ và thương mại trừ Tòa án binh tại mặt trận
(Điều 1). Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể
tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa
cho bị can (Điều 2). Người đứng ra bênh vực không được nhận
tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can (Điều 3). Người
bào chữa do ông Chánh án cử ra bênh vực cho bị can sẽ được
hưởng cấp phí hàng ngày theo định xuất (1.800 đồng nếu bào chữa
tại phiên tòa của một Tòa án nhân dân cấp khu và định xuất 1.500
đồng nếu bào chữa ở một Tòa án nhân dân cấp tỉnh).


Tiếp theo, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 101/HCTP ngày
29/8/1957 hướng dẫn việc các đoàn thể nhân dân cử người ra bênh
vực, giúp đỡ cho những hội viên của mình bị truy tố trước Tòa án
hoặc trong việc kiện dân sự. Người đứng ra bênh vực không được
nhận thù lao của bị cáo hay thân nhân bị cáo. Người nào phạm
phải điều này bị truy tố và trừng phạt tội lừa đảo.
Đến Hiến pháp năm 1959 quyền bào chữa của người bị cáo
vẫn được bảo đảm (Điều 101). Tuy nhiên, số lượng luật sư và bào
chữa viên nhân dân ngày càng giảm. Vì vậy, các tổ chức, đoàn thể

xã hội cũng được cử các thành viên của mình là người bào chữa
viên nhân dân, các Thẩm phán cũng được cho phép làm luật sư.
Nhưng do các tổ chức này khi đó vẫn nằm chung trong cơ chế bao
cấp của Nhà nước nên tất cả các hoạt động của các chủ thể này
đều được coi là hoạt động công vụ, gắn với việc thực hiện quyền
lực nhà nước và được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước. Qua đó,
có thể lý giải được vấn đề là hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí
của luật sư trong giai đoạn này chưa được đặt ra (trong giai đoạn
này không chỉ có hoạt động trợ giúp pháp lý được miễn phí mà tất
cả các hoạt động khác đều được miễn phí như học sinh đi học
được miễn phí, chữa bệnh miễn phí…).
Hiến pháp năm 1980 đã thiết lập hệ thống các cơ quan tư


pháp độc lập, bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát và nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa tiếp tục được khẳng định. "Quyền bào chữa
của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp
bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý" [30, Điều 133]. Ta có
thể thấy đến giai đoạn này đối tượng thụ hưởng của hoạt động trợ
giúp pháp lý của luật sư không còn chỉ là bị can, bị cáo mà đã
được mở rộng ra thêm các đương sự khác. Văn phòng luật sư
được thành lập, nằm dưới sự quản lý của Toàn án tối cao sau khi
thành lập Ủy ban Pháp chế và Văn phòng luật này thuộc hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước và công chức thực hiện việc bào
chữa cho bị cáo khi Tòa án yêu cầu và được hưởng chế độ lương
từ ngân sách Nhà nước. Đồng thời, các văn phòng bào chữa viên
nhân dân cũng được thành lập theo Thông tư số 691/QLTPK ngày
31/10/1983 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về công tác bào chữa
trong đó đã đề cập đến việc thực hiện bào chữa miễn phí cho bị
can, bị cáo là thành viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể xã hội

và các bị can, bị cáo khác. Đến cuối năm 1987, cả nước đã có 30
tỉnh thành lập Đoàn luật sư và bào chữa viên với gần 400 luật sư
và bào chữa viên. Mặc dù nằm trong cơ chế bao cấp, hoạt động
bào chữa được bảo đảm từ ngân sách nhà nước nhưng vào cuối
những năm 80 việc bào chữa, tư vấn pháp luật ở một số địa
phương đã lẻ tẻ có thu lệ phí hành chính. Tuy nhiên, riêng đối với


trường hợp chỉ định bào chữa thì đương sự vẫn được miễn phí,
luật sư và lệ phí hành chính giai đoạn này cũng giống như các loại
dịch vụ khác, còn mang nặng tính phục vụ, bao cấp và phụ thuộc
vào khả năng chi trả của người cần được giúp đỡ.
Như vậy, trong giai đoạn này chưa có một văn bản nào quy
định cụ thể trách nhiệm thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư
nhưng xem xét trên cơ sở thực tiễn về việc giúp đỡ pháp lý của
các luật sư ta có thể thấy một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư, bào chữa
viên nhân dân thực hiện chủ yếu là bào chữa cho các bị cáo trong
các vụ án hình sự theo chỉ định của Tòa án. Các lĩnh vực pháp luật
khác như hành chính, lao động, việc làm và một số lĩnh vực pháp
luật khác ít được đề cập đến.
Thứ hai, hoạt động trợ giúp pháp lý của Luật sư, bào chữa
viên nhân dân trong giai đoạn này do Nhà nước bao cấp hoàn
toàn. Tòa án chỉ định Luật sư thực hiện bào chữa trong các vụ án
hình sự và trả tiền thù lao cho luật sư đó; bào chữa viên nhân dân
thực hiện công việc bào chữa và hưởng phụ cấp bào chữa viên;
các tổ chức đoàn thể nhân dân cử người giúp đỡ cho những đoàn
viên của mình bị truy tố trước Tòa án hoặc trong các vụ kiện.
Thứ ba, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong giai



đoạn này chỉ mang tính chất như một hoạt động công vụ để phục
vụ nhiệm vụ chính trị - xã hội mà chưa phải là hoạt động nghề
nghiệp độc lập. Tuy nhiên, cũng có nhiều luật sư thực hiện trợ
giúp pháp lý cho người dân với tinh thần tự nguyện, từ thiện và
nhân đạo mà chưa trở thành một nghĩa vụ.
Như vậy, có thể thấy trong điều kiện mới thành lập, khó
khăn về mọi mặt nhưng Nhà nước ta đã rất quan tâm tới hoạt động
giúp đỡ pháp luật cho nhân dân. Các hoạt động này nằm chung
trong cơ chế bao cấp của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước chi trả
cho tất cả mọi chi phí cho hoạt động tư vấn, đại diện, bào chữa
trong các vụ án hình sự, dân sự… mà các đương sự hầu như
không phải bỏ ra một khoản chi nào (kể cả chi phí cho Luật sư).
Ngoài ra, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,
thậm chí các cơ quan, tổ chức nhà nước trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình cũng có những đóng góp nhất định như: thực
hiện các hoạt động tư vấn, đại diện cho đương sự, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự là thành viên của tổ chức mình mà
không thu phí.
- Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư từ năm 1987 đến năm 2006
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập


trung, bao cấp, phát triển kinh tế thị trường, hoạt động luật sư, tư
vấn pháp luật được coi là một hoạt động nghề nghiệp. Vai trò của
luật sư ngày càng trở nên quan trọng trong hỗ trợ pháp luật điều
chỉnh các quan hệ mang tính chất dân sự, kinh tế của công dân đặc
biệt là ở lĩnh vực mới là tư vấn pháp luật. Hoạt động của nghề luật
sư được chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tự hạch toán

kinh doanh và thị trường dịch vụ pháp lý được hình thành, vấn đề
đặt ra trong giai đoạn này là việc bảo vệ quyền lợi cho những
nhóm người yếu thế không có điều kiện kinh tế để sử dụng dịch
vụ pháp lý dễ bị thua thiệt khi tham gia vào các quan hệ xã hội có
tính tranh chấp. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm thực
hiện trợ giúp pháp lý của luật sư đã manh nha được hình thành.
Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và Nghị định số
15/HĐBT ngày 21/02/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy
chế Đoàn luật sư đã xác định một số vụ việc mà luật sư giúp đỡ
mà không thu phí: nguyên đơn tại Toàn án các cấp trong các vụ
việc sau: đòi tiền cấp dưỡng nuôi con; đòi bồi thường thiệt hại do
tai nạn lao động; bồi thường thiệt hại do tai nạn làm chết người trụ
cột của gia đình; khiếu nại về việc bầu cử Hội đồng Nhân dân
theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
Thương binh nặng (loại 1, 2/4); Đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp khi nhờ Luật sư giải thích pháp luật để giải thích, hướng dẫn


cử tri; thành viên của các tổ chức hòa giải khi nhờ Luật sư giải
thích pháp luật về những vấn đề có liên quan đến hoạt động xã hội
của họ (Điều 33 Quy chế Đoàn luật sư). Ngoài ra, người có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn hoặc các trường hợp đặc biệt khác và
đương sự có đơn yêu cầu thì Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư sẽ xét
miễn hoặc giảm chi phí.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 được Quốc hội thông qua
ngày 29/6/1988 cũng đã quy định, trong các trường hợp bị can, bị
cáo bị xử về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất hoặc tâm thần, nếu họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không mời người bào chữa thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ.
Việc chi trả thù lao cho luật sư này được trích từ nguồn ngân sách
nhà nước của cơ quan yêu cầu. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự
không quy định về quyền có người đại diện, bảo vệ quyền lợi cho
người chưa thành niên là nạn nhân của tội phạm.
Ngoài ra, hoạt động giúp đỡ pháp luật, trong đó có việc
giúp đỡ pháp luật miễn phí còn được đề cập tại Thông tư số
1119/QLTPPL năm 1987 và Công văn số 870 năm 1989 của Bộ
Tư pháp. Các văn bản nêu trên đã đề cập đến "dịch vụ pháp lý" và


cho phép các Hội luật gia và các Đoàn luật sư được mở Văn
phòng tư vấn pháp luật nhằm giúp đỡ pháp luật cho các đối tượng,
trong đó có một số vụ việc giúp đỡ miễn phí.
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 734/TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và đối tượng chính sách. Đây là văn bản pháp lý quan
trọng, là căn cứ pháp lý cho sự ra đời, phát triển của hệ thống tổ
chức trợ giúp pháp lý. Để huy động được đội ngũ cộng tác viên
trong đó có luật sư, tổ chức luật sư, tư vấn pháp luật tham gia trợ
giúp pháp lý Bộ Tư pháp đã ban hành Quy chế cộng tác viên của
tổ chức trợ giúp pháp lý kèm theo Quyết định số 459/1998/QĐBTP (được sửa đổi bổ sung theo Quyết định số 358/2003/QĐ-BTP
ngày 15/8/2003 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Quyết định này xác
định rõ mục đích, đối tượng, nguyên tắc hoạt động, tiêu chuẩn, thủ
tục công nhận và cấp thẻ, quyền và nghĩa vụ của cộng tác viên
trong đó có luật sư, các hình thức cộng tác, khen thưởng, xử lý vi
phạm đối với các cộng tác viên khi tham gia hoạt động trợ giúp
pháp lý. Để hướng dẫn cụ thể chế độ bồi dưỡng đối với cộng tác
viên thực hiện trợ giúp pháp lý, thi hành Điều 5 Quyết định số
734/QĐ-TTg ngày 30/3/1998 Liên Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính Tổ chức cán bộ Chính phủ đã ban hành Thông tư liên tịch số

187/TTLT/TP-TC-TCCP (được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư


liên tịch số 21/TTLT/TP-TC-NV ngày 26/12/2002 của Liên Bộ Tư
pháp - Tài chính - Nội vụ hướng dẫn chế độ bồi dưỡng đối với
cộng tác viên thực hiện trợ giúp pháp lý). Thông tư xác định rõ
mục đích và ý nghĩa của hoạt động trợ giúp pháp lý; đối tượng áp
dụng và mức bồi dưỡng cho các cộng tác viên khi họ thực hiện tư
vấn pháp luật, tham gia đại diện, bào chữa trước Tòa án.
Năm 2001, Pháp lệnh Luật sư được thông qua đã thiết lập
cơ chế pháp lý để khuyến khích, huy động đội ngũ luật sư tham
gia trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
(Điều 6) thông qua hình thức hành nghề của luật sư là các văn
phòng luật sư và công ty luật.
Nhằm triển khai thi hành Pháp lệnh luật sư năm 2001, ngày
12/12/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư, theo đó
mức thù lao và chi phí cho luật sư trong trường hợp tham gia tố
tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng đã được quy định
(Điều 26).
Ngày 05/8/2002, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy tắc
mẫu về đạo đức hành nghề luật sư kèm theo Quyết định số
356b/2002/QĐ-BTP. Theo Quy tắc này, việc thực hiện trợ giúp
pháp lý là nghĩa vụ cao cả của các luật sư - một trong những chủ


thể chính của quan hệ xã hội về trợ giúp pháp lý. Khi thực hiện trợ
giúp pháp lý, luật sư phải tận tâm, tích cực thực hiện như đối với
các vụ việc có thù lao và nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý là
một trong những quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà luật sư phải

tuân thủ trong quá trình hành nghề của mình (Quy tắc 4).
Ngoài ra, các quan hệ pháp luật về trợ giúp pháp lý trong
hoạt động tố tụng của luật sư vẫn được tiếp tục điều chỉnh theo
hướng thừa kế các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, vẫn quy định các trường
hợp án chỉ định người bào chữa sẽ do cơ quan tiến hành tố tụng đề
nghị Đoàn luật sư giới thiệu văn phòng luật sư hoặc đề nghị mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử
bào chữa viên nhân dân tham gia bào chữa.
Việc ban hành các văn bản pháp luật nêu trên đã phần nào
điều chỉnh các hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư đáp ứng kịp
thời nhu cầu cần được giúp đỡ về mặt pháp luật của mọi tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là người nghèo và đối tượng chính sách.
Sau 10 năm thi hành Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987,
số lượng luật sư trong toàn quốc đã đạt được 2.100 luật sư, sau khi
Pháp lệnh luật sư 2001 ra đời số lượng luật sư tăng gần 200% số
với số lượng luật sư trước khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 có hiệu


lực. Từ 2.100 luật sư và luật sư tập sự theo Pháp lệnh tổ chức luật
sư năm 1987, tính đến ngày 31/6/2006 đã tăng lên 4.070 luật sư,
luật sư tập sự (trong đó có 2.409 luật sư có Chứng chỉ hành nghề
luật sư và 1.660 luật sư tập sự). Đây là giai đoạn phát triển có tính
chất đột biến về số lượng luật sư, góp phần đáp ứng nhu cầu đã và
đang tăng của xã hội về dịch vụ của luật sư. Đồng thời, số lượng
luật sư tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác
viên cũng tăng lên đáng kể.
Tuy số lượng luật sư còn nhiều hạn chế về số lượng cũng
như chất lượng các Đoàn luật sư đã cố gắng rất nhiều trong việc
thực hiện chức năng giúp đỡ pháp lý cho công dân, tổ chức, bảo

đảm cử luật sư tham gia các vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã tạo điều kiện để
luật sư thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tuy nhiên cũng có lúc, có
nơi vai trò của luật sư còn chưa được coi trọng đúng mức, cá biệt
có cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán coi thường, phủ nhận
vai trò của luật sư, gây khó khăn cho luật sư thực hiện chức năng
của mình.
Sự tham gia tích cực của luật sư đã giúp đỡ cơ quan tiến
hành tố tụng sửa chữa sai lầm, thiếu sót, kịp thời quyết định đình
chỉ điều tra hoặc trả hồ sơ về điều tra bổ sung. Nhiều vụ án, nhờ


có sự đóng góp tích cực và có chất lượng của luật sư mà sự thật
khách quan đã được làm sang tỏ, nhiều bị cáo đã được Tòa án
tuyên bố vô tội hoặc giảm nhẹ tội, giảm nhẹ hình phạt. Thực hiện
nghiêm túc nghĩa vụ nghề nghiệp của mình, luật sư kiên trì đấu
tranh bảo vệ công lý, tìm đầy đủ bằng chứng giúp tòa án cấp phúc
thẩm, giám đốc thẩm có cơ sở xem xét, đánh giá lại bản án của
toàn án cấp dưới, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
Tuy nhiên, vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật chính
thức quy định trách nhiệm thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư
như một nghĩa vụ nghề nghiệp cá nhân mà các văn bản chỉ mang
tính chất khuyến khích luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý như một
trách nhiệm xã hội. Hầu hết các vụ việc trợ giúp pháp lý của luật
sư đều được tính phí nhưng mức tính phí này rất thấp thể hiện tính
nhân đạo của hoạt động này. Các quy định của pháp luật về cách
tính phí đối với luật sư thực hiện trợ giúp phá lý cũng chưa thống
nhất. Theo Nghị định số 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư năm 2001

có quy định mức thù lao của luật sư đối với vụ án hình sự và Văn
phòng luật sư tự thỏa thuận và được tính theo giờ hoặc tính trọn
gói theo vụ việc và mức cao nhất không quá 50.000 đồng/giờ làm
việc của luật sư trong khi đó tại Điều 26 của Nghị định này cũng


quy định mức thù lao đối với vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng
yêu cầu luật sư thì mức thù lao mà luật sư được trả là 70.000
đồng/1 ngày làm việc của luật sư. Qua đây có thể thấy cùng thực
hiện 1 vụ án hình sự nhưng luật sư thực hiện theo yêu cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng thấp hơn rất nhiều so với một vụ án do luật
sư thực hiện theo hợp đồng cung cấp dịch vụ thông thường.
- Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư từ năm 2006 đến nay
Những nguyên tắc nền tảng trong việc xác lập, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp
sau đó được thể chế hóa trong Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý
và các văn bản hướng dẫn khác về hoạt động trợ giúp pháp lý của
luật sư. Khoản 2 Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý và Điều 8 Luật
Luật sư năm 2006 khẳng định Nhà nước tạo điều kiện và khuyến
khích luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tham gia thực hiện, đóng
góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý.
Ngay tại Điều 4 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư Việt Nam của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày 20/7/2001
đã khẳng định: Trợ giúp pháp lý miễn phí là lương tâm và trách
nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Luật sư có nghĩa vụ thực hiện trợ
giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng khác


theo quy định của pháp luật, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam

bằng sự tận tâm, vô tư và trách nhiệm nghề nghiệp như các vụ
việc có nhận thù lao.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Luật sư ngày
20/11/2012 đã xác định lại, rõ ràng hơn về luật sư và hoạt động
trợ giúp pháp lý, cụ thể tại điểm d Khoản 2 Điều 21 quy định trợ
giúp pháp lý là nghĩa vụ của luật sư.
Như vậy, kể từ ngày 01/7/2012, khi Luật Luật sư năm 2012
có hiệu lực cá nhân mỗi luật sư có nghĩa vụ thực hiện trợ giúp
pháp lý cho người dân, đặc biệt là các đối tượng được ưu tiên trợ
giúp pháp lý quy định tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý, gồm:
Người nghèo; Người có công với cách mạng; Người già cô đơn,
người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; Người dân tộc thiểu
số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn. Điều này thể hiện rõ bổn phận, trách nhiệm của luật sư đối
với xã hội, mặt khác cũng khẳng định bản chất nghề nghiệp của
luật sư, là luôn sẵn sàng thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý cho
cộng đồng xã hội.
Để đưa những quy định trên vào cuộc sống Khoản 2 Điều 3
Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư


quy định:
Liên đoàn Luật sư Việt Nam hướng dẫn về thời
gian, cách thức, hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý; hình
thức xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm nghĩa vụ trợ
giúp pháp lý; định kỳ hàng năm đánh giá về hoạt động trợ
giúp pháp lý của luật sư, báo cáo Bộ Tư pháp [16].
Để thể chế hóa quy định của pháp luật, Liên đoàn Luật sư
Việt Nam sẽ đưa nội dung này vào điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt

Nam trong nhiệm kỳ II, đồng thời, sẽ có hướng dẫn việc thực hiện
trợ giúp pháp lý của luật sư để đảm bảo việc thực hiện trợ giúp
pháp lý của luật sư được thực hiện đúng quy định của Luật Luật
sư phù hợp với đặc thù, điều kiện hoàn cảnh của luật sư và nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay.
- Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
- Số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 734/TTg về việc thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp
lý cho người nghèo, đối tượng chính sách; thành lập Cục Trợ giúp
pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (Điều 1), ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước trực


thuộc Sở Tư pháp được thành lập (Điều 4). Cục Trợ giúp pháp lý
vừa có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước
về trợ giúp pháp lý, vừa trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý trong
những trường hợp cần thiết; thực hiện việc hợp tác quốc tế về trợ
giúp pháp lý và quản lý Quỹ trợ giúp pháp lý; tổ chức bồi dưỡng,
đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp pháp lý
cho đội ngũ cán bộ trợ giúp pháp lý và cộng tác viên; tham gia
phổ biến và giáo dục pháp luật cho người nghèo và đối tượng
chính sách (Điều 2). Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có chức
năng thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và các
đối tượng chính sách. Cục Trợ giúp pháp lý và Trung tâm trợ giúp
pháp lý của Nhà nước được sử dụng cộng tác viên (Điều 5).
Theo Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã xác định: Trợ giúp pháp
lý là loại hình dịch vụ pháp lý đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ về
chất lượng dịch vụ của Nhà nước nhằm bảo đảm thực hiện pháp

luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, người có
công với cách mạng, người có hoàn cảnh đặc biệt, góp phần thực
hiện dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong việc tổ chức thực


hiện trợ giúp pháp lý, phát huy tính chủ động, tự giác, tích cực
tham gia thực hiện của người thực hiện trợ giúp pháp lý, tiến tới
giai đoạn Nhà nước đóng vai trò thu hút, điều phối nguồn lực để
mô hình tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý của xã hội ngày càng
phát triển; Nhà nước tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý; kế thừa kết quả đã đạt
được trong việc phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà
nước.
Nhà nước huy động, khuyến khích mọi nguồn lực hiện có,
các tổ chức đoàn thể xã hội và cộng đồng tham gia trợ giúp pháp
lý, nhất là các luật sư, luật gia, các chuyên gia ở các lĩnh vực và các
lực lượng xã hội khác; nghiên cứu chính sách hỗ trợ các tổ chức,
cá nhân khi thực hiện trợ giúp pháp lý.
Như vậy, việc thực hiện trợ giúp pháp lý là do Nhà nước mà
cụ thể ở đây là Cục trợ giúp pháp lý và các Trung tâm trợ giúp
pháp lý nhà nước các tỉnh, thành phố đóng vai trò nòng cốt thực
hiện. Ngoài ra, Nhà nước cũng khuyến khích và kêu gọi mọi
nguồn lực khác nhau trong xã hội tham gia thực hiện trợ giúp
pháp lý.
Đồng thời, theo Điều 3 Luật Luật sư (được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư số



20/2012/QH13 ngày 20/11/2012, có hiệu lực thực hiện từ ngày
01/7/2013) đã quy định về chức năng xã hội của luật sư như sau:
"Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh" [34]. Để hoàn thành chức năng xã hội cao cả đó,
luật sư không những phải là người tự mình nêu gương trong việc
tôn trọng, chấp hành pháp luật mà còn có trách nhiệm và bổn phận
tự giác chấp hành các quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong hoạt
động hành nghề và giao tiếp xã hội. Trong quá trình hành nghề và
thực hiện các chức năng xã hội của mình đội ngũ luật sư đã tích
cực tham gia trợ giúp pháp lý cho các đối tượng thuộc diện được
trợ giúp pháp lý như người nghèo, người có công với cách mạng,
người già cô đơn, trẻ em không nơi nương tựa, người tàn tật… và
các đối tượng khác theo quy định của pháp luật.
Để trở thành cộng tác viên của Trung tâm và Chi nhánh thì
mỗi luật sư không chỉ có hiểu biết về pháp luật một cách sâu rộng,
có kỹ năng trợ giúp pháp lý mà còn yêu cầu phải có trách nhiệm là
lương tâm, đạo đức nghề nghiệp, tự nguyện tham gia trợ giúp
pháp lý. Khái niệm cộng tác viên trợ giúp pháp lý được nêu rõ
như sau:


Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt,
có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, tự
nguyện tham gia trợ giúp pháp lý mà không thuộc một
trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật
Trợ giúp pháp lý thì được Giám đốc Sở Tư pháp xem xét,

công nhận và cấp thẻ cộng tác viên [35].
Đồng thời, theo Điều 23 Luật Trợ giúp pháp lý thì "Luật sư
tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về luật sư,
tham gia trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác viên của Trung
tâm trợ giúp pháp lý nhà nước theo quy định của Luật này" [35].
Nhằm khắc phục tình trạng thiếu biên chế, đồng thời nhằm
huy động nguồn lực xã hội, những người có kiến thức pháp luật
đặc biệt là giới luật sư tham gia trợ giúp pháp lý. Sở Tư pháp các
tỉnh, thành phố đã chỉ đạo các Trung tâm và Phòng Tư pháp trong
việc xây dựng và phát triển mạng lưới cộng tác viên trợ giúp pháp
lý. Đặc biệt trong giai đoạn đầu khi số lượng Trợ giúp viên pháp
lý còn nhiều hạn chế thì vai trò của luật sư là cộng tác viên là vô
cùng quan trọng. Số vụ việc trợ giúp pháp lý trong tham gia tố
tụng đều do các cộng tác viên là luật sư đảm nhiệm (trừ một số địa
phương do thiếu luật sư đã cho phép chuyên viên trợ giúp pháp lý


thực hiện bào chữa theo văn bản phốihợp hướng dẫn của Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Công an và Tư pháp như Lào
Cai, Điện Biên...). Hiện nay, trong toàn quốc đã thành lập được 62
Đoàn luật sư/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với 7.072
luật sư và 2.831 tổ chức hành nghề luật sư [4] trong đó có 277 tổ
chức hành nghề luật sư (chiếm 10,6% tổng số tổ chức hành nghề
luật sư) với 1.055 luật sư chiếm tỉ lệ 11,7% đã đăng ký tham gia
trợ giúp pháp lý với tư cách là cộng tác viên với các Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước tại các tỉnh và thành phố trong toàn quốc
[6]. Nhiều địa phương chưa khuyến khích, huy động được tổ chức
hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp
lý, đến nay vẫn còn 89% tổ chức chưa đăng ký tham gia, thậm chí
nhiều địa phương chưa có tổ chức nào đăng ký tham gia trợ giúp

pháp lý.
- Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư
Tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý là việc
luật sư thực hiện trợ giúp pháp cung cấp thông tin pháp lý, giải
đáp các vướng mắc pháp luật cho người có yêu cầu, hướng dẫn
người dân cách xử sự phù hợp với pháp luật. Đây là hình thức trợ
giúp pháp lý phổ biến và đơn giản nhất. Các Trung tâm trợ giúp
pháp lý bố trí luật sư cộng tác viên chuyên trách trong các lĩnh


vực pháp luật khác nhau và do đó có thể thực hiện tư vấn cho các
đối tượng có nhu cầu khác nhau một cách nhanh chóng và hiệu
quả. Các vụ việc tư vấn có thể được thực hiện tại Trụ sở của
Trung tâm trợ giúp pháp lý hoặc tại Trụ sở của các Đoàn luật sư,
Văn phòng luật sư hoặc ngoài trụ sở (thông qua trợ giúp pháp lý
lưu động, sinh hoạt chuyên đề pháp luật…).
Theo quy định tại Luật Trợ giúp pháp lý và Luật Luật sư thì
tư vấn pháp luật được thực hiện bằng miệng hoặc bằng văn bản;
tư vấn trực tiếp, bằng thư tín, điện tín hoặc thông qua các phương
tiện thông tin khác; thông qua trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt
chuyên đề pháp luật và một số hình thức khác.
Khi luật sư thực hiện tư vấn pháp luật với vai trò là cộng tác
viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý thì ngay sau khi thụ lý đơn
yêu cầu trợ giúp pháp lý, luật sư phải tiến hành tư vấn ngay.
Trường hợp chưa thể tư vấn được ngay (do nội dung yêu cầu trợ
giúp pháp lý không thuộc lĩnh vực chuyên môn của luật sư thụ lý,
tính chất vụ việc phức tạp, cần có thời gian nghiên cứu hồ sợ, xác
minh hoặc chờ người yêu cầu trợ giúp pháp lý nộp thêm các giầy
tờ, tài liệu liên quan) thì nhận đơn kèm theo hồ sơ và viết phiếu
hẹn để hẹn người yêu cầu trợ giúp pháp lý đến tư vấn sau hoặc trả

lời sau bằng văn bản. Trong thời hạn không quá 15 ngày, kể từ


ngày thụ lý vụ việc hoặc nhận đủ các giấy tờ, tài liệu cần bổ sung,
luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm nghiên cứu và
trả lời bằng văn bản cho người được trợ giúp pháp lý; trong
trường hợp vụ việc cần có thời gian để xác minh thì thời hạn này
có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
Trường hợp tư vấn pháp luật trực tiếp bằng miệng thì luật
sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải ghi chép tóm tắt nội dung tư
vấn trong Phiếu thực hiện trợ giúp pháp lý. Phiếu thực hiện trợ
giúp pháp lý được lập thành hai bản, một bản được giao cho người
được trợ giúp pháp lý, một bản được lưu giữ trong hồ sơ vụ việc.
Trường hợp tư vấn bằng văn bản thì văn bản tư vấn sẽ được thay
thế cho Phiếu thực hiện trợ giúp pháp lý và được lưu giữ trong hồ
sơ vụ việc.
Đối với vụ việc yêu cầu tư vấn được chuyển đến bằng thư
tín, luật sư được phân công thực hiện trợ giúp pháp lý có trách
nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn không quá 15 ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý.
Các vụ việc tư vấn chủ yếu do tổ chức trợ giúp pháp lý tiếp
nhận thông qua các đợt trợ giúp pháp lý lưu động. Người thuộc
diện được trợ giúp pháp lý thường cư trú tập trung ở nông thôn,
miền núi địa bàn vùng sâu, vùng xa. Do đó, điều kiện đi lại của họ


thường gặp khó khăn cả về địa lý, giao thông và thời gian. Vì vậy,
không phải trong mọi trường hợp khi có vướng mắc pháp luật họ
đều có điều kiện tìm đến các tổ chức trợ giúp pháp lý để được
hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí. Trợ giúp pháp lý lưu động đang

là phương thức bám sát dân, gần dân, về tới tận vùng xa, vùng
sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để giúp
đỡ pháp lý (hướng dẫn, giải đáp pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp) cho người nghèo và đối tượng chính, người dân tộc
thiểu số ngay tại nơi họ cư trú và sinh sống. Người dân được cung
cấp thông tin pháp luật, được giải đáp thắc mắc, hiểu thêm về các
quyền và nghĩa vụ của công dân, nâng cao kiến thức pháp luật về
các vấn đề họ đang quan tâm.
Các vụ việc mà người dân có nhu cầu tư vấn chủ yếu thuộc
lĩnh vực pháp luật dân sự, đất đai, hôn nhân gia đình,... Đây là
những lĩnh vực pháp luật liên quan thiết thực đến đời sống hàng
ngày của người dân và vì thế thường nảy sinh vướng mắc và mâu
thuẫn trong cộng đồng dân cư.
Bên cạnh việc thực hiện trợ giúp pháp lý với vai trò là cộng
tác viên của các Trung tâm trợ giúp pháp lý thì các luật sư còn
thực hiện tư vấn pháp luật trong các đợt tư vấn lưu động do Liên
đoàn luật sư và các Đoàn luật sư các tỉnh tổ chức hàng năm. Trong


×