Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Đề tài Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan trên đàn bò tỉnh Trà Vinh kết hợp thử nghiệm hiệu lực thuốc tẩy trừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 56 trang )

LỜI CẢM TẠ
Để góp phần hoàn chỉnh báo cáo khoa học tổng kết đề tài:“ Điều tra tình hình
nhiễm sán lá gan trên đàn bò tỉnh Trà Vinh kết hợp thử nghiệm hiệu lực thuốc tẩy
trừ”. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đơn vị:
- Uỷ ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh.
- Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh Trà Vinh.
- Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Trà Vinh.
- Bộ môn Thú y - Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học
Cần Thơ.
- Chuyên viên phòng Quản lý khoa học, phòng kế hoạch - Tài chính Sở Khoa
học và công nghệ tỉnh Trà Vinh.
- Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 3 huyện: Càng Long, Châu
Thành, Cầu Ngang và Ban Quản lý đề tài đã tạo mọi điều kiện giúp chúng tôi hoàn
thành đề tài này.

-1-


CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Con bò là vật nuôi truyền thống của nông dân tỉnh Trà Vinh. Nó gắn liền với
truyền thống trồng lúa nước và trồng hoa màu, tận dụng nguồn rơm cỏ, phụ phẩm hoa
màu làm thức ăn nuôi dưỡng cho bò, vừa rẽ tiền, sẳn có để phát triển kinh tế gia đình
và kinh tế trang trại, góp phần tăng thu nhập cho nông hộ.
Trong thập kỷ qua có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành chăn nuôi
bò như nhà nước có các chính sách khuyến khích hỗ trợ chăn nuôi bò, sự phát triển
của tiến bộ khoa học kỹ thuật về công tác cải tạo giống, phương thức nuôi dưỡng,
ứng dụng kỹ thuật cho ăn uống, nuôi vỗ béo, phòng trừ dịch bệnh,… Tuy nhiên, trước
diễn biến cơ chế thị trường, đòi hỏi sản phẩm thịt bò phải ngon, sạch bệnh và dư
lượng thuốc tồn trữ trong thân thịt trước khi đem giết mổ. Từ đó cũng làm cho nhiều
người nuôi bò phải trăn trở, giá cả sản phẩm bò nuôi cũng có nhiều biến động, làm
ảnh hưởng ít nhiều đến số lượng đàn bò nuôi trong tỉnh nhà.


Bên cạnh các bệnh truyền nhiễm làm chết bò nuôi và gây thành dịch như bệnh
tụ huyết trùng, lỡ mồm long móng,…thì một số bệnh do ký sinh trùng, trong đó có
bệnh sán lá gan diễn ra một cách âm thầm, lặng lẽ nhưng có tính lây truyền nhanh,
rộng mà người nuôi bò không nghĩ đến. Các bệnh này không những làm ảnh hưởng
lớn đến sức sinh trưởng, sinh sản của bò nuôi, làm kế phát một số bệnh truyền nhiễm
mà nó còn làm cho chất lượng sản phẩm thịt bị giảm sút. Điều này là một thách thức
lớn, tác động không tốt đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò, là một trong những
nguyên nhân khiến đa số người nuôi bò phải giảm số lượng bò nuôi hoặc chuyển
sang đối tượng vật nuôi khác. Hơn nữa, triệu chứng lâm sàng của các bệnh do ký sinh
trùng thường không thể hiện rõ ràng, là nguyên nhân chẩn đoán sai lệch bệnh với một
số bệnh khác, từ đó hiệu quả điều trị không cao. Đặc biệt khi phòng trị, đòi hỏi phải
có biện pháp tổng hợp và mang tính cộng đồng. Điều đáng nói hơn nữa, một số bệnh
do giun sán ở bò như bệnh gạo bò, sán lá gan bò cũng có thể lây nhiễm sang con
người khi sử dụng một số sản phẩm từ thịt bò, rau xanh chứa trứng hoặc ấu trùng gây

-2-


nhiễm. Trong thời gian gần đây, bệnh sán lá gan lớn ở người xảy ra ở các tỉnh miền
Trung và Thành phố Hồ Chí Minh ngày một gia tăng ( Nguyễn Văn Đề, 2005). Theo
Triệu Nguyên Trung, Viện trưởng Viện sốt rét ký sinh trùng và côn trùng Quy Nhơn,
Bộ Y tế, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2009 tại các tỉnh miền Trung và Tây nguyên có
3543 ca ở người bị nhiễm bệnh sán lá gan, gần bằng năm 2006, là năm xác định thời
điểm bùng phát bệnh này, phát hiện 3838 ca. (Nguồn: ).
Theo số liệu thống kê, tổng số đàn bò trong tỉnh Trà Vinh hiện có khoảng
145.401 con bò ( Nguồn: Niên giám thống kê 2007, Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh).
Cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Số liệu đàn bò Tỉnh Trà Vinh
Huyện
TX Trà Vinh

Càng Long
Châu Thành
Cầu Kè
Tiểu Cần
Cầu Ngang
Trà Cú
Duyên Hải
Tổng cộng

2003
3421
8706
15016
4315
8480
17819
17586
5441
80784

2004
4096
11935
15659
5425
9094
22970
21596
7345
98120


2005
5162
12591
21101
6151
10175
25853
28494
8346
117873

2006
5730
17714
26813
9606
13297
29694
28937
10004
141795

2007
6216
17300
27136
10320
14696
29671

29378
10685
145401

Phần lớn người chăn nuôi chưa định kỳ sổ sán lá gan, phân bò thường dùng để
trồng rau cải và một số loại hoa màu khác. Đây chính là nguồn gây lây nhiễm thông
qua nguồn nước và rau sống.
Chính vì bệnh sán lá gan có khả năng ảnh hưởng đến bò nuôi và lây nhiễm cho
con người nên được sự thống nhất của Hội đồng Khoa học công nghệ tỉnh Trà Vinh,
và phê duyệt của UBND tỉnh Trà Vinh, chúng tôi triển khai thực hiện đề tài “ Điều
tra tình hình nhiễm sán lá gan trên đàn bò tỉnh Trà Vinh kết hợp thử nghiệm hiệu lực
thuốc tẩy trừ”.
Mục tiêu của đề tài:
- Mục tiêu chung: Xác định được tình hình nhiễm sán lá gan trên đàn bò trong
tỉnh. Từ đó xây dựng quy trình phòng ngừa và tẩy trừ sán lá gan trên một số mô hình
-3-


ứng dụng nuôi bò thịt vỗ béo để khuyến cáo cho hộ chăn nuôi bò áp dụng.
- Mục tiêu cụ thể: Xác định được tình hình nhiễm sán lá gan trên đàn bò trong
tỉnh. Xác định loại thuốc tẩy trừ sán lá gan có hiệu quả. Đề ra biện pháp phòng trừ
hữu hiệu đối với bệnh sán lá gan trong chăn nuôi bò.
Phạm vi nghiên cứu: Trên bò nuôi bị nhiễm sán lá gan ở các lứa tuổi tại 3 huyện
Càng Long, Châu Thành và Cầu Ngang. Cơ sở của việc chọn bò ở 3 huyện Càng
Long, Châu Thành và Cầu Ngang để nghiên cứu là:
- 3 huyện có đàn bò tương đối nhiều trong tỉnh.
- Dựa vào 3 huyện đại diện 3 vùng sinh thái: Huyện Càng Long đại diện vùng
nước ngọt, Châu Thành đại diện có vùng nước ngọt, nước lợ, Cầu Ngang có vùng
nước lợ, nước mặn, nước ngọt.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Nghiên cứu hoàn thiện quy trình kỹ thuật

phòng ngừa và tẩy trừ sán lá gan ở bò, đơn giản dễ áp dụng rộng rãi và mang tính
khoa học cao cho người chăn nuôi áp dụng.

-4-


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Tình hình nghiên cứu sán lá gan ngoài nước và trong nước.
2.1.1 Tình hình nghiên cứu sán lá gan trên thế giới
Sán lá gan được biết đến từ năm 1370. Năm 1379, Jehan De Brie mô tả toàn bộ
sán lá gan trên cừu. Năm 1758, Linnaeus phát hiện Fasciola hepatica, là một loài sán
lá gan. Rudolphi, năm 1845 tìm ra Dicrocoelium dendriticum là loài sán lá ký sinh ở
gan và ống dẫn mật. Năm 1847, Creplin phát hiện Paraphistomum explanatum,
Cobbold phát hiện Fasciola gigantica năm 1885, đây cũng là hai loài sán lá ký sinh ở
gan và ống dẫn mật ( Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1978)
Dawes (1962) ghi nhận gia súc bị suy nhược và thiếu máu là do độc tố của
Fasciola gigantica tác động gây ra hiện tượng chất đạm trong máu bị thiếu, lượng
albumin giảm và globulin tăng lên. ( Phạm Sĩ Lăng và Phan Địch Lân, 2001)
Soulby (1977) cho rằng Dicrocoelium dendriticum có hai ký chủ trung gian đó
là ốc và kiến.
Hope- Caawdery et al. (1977) cho rằng bò bị nhiễm 40-140 con sán lá thì tăng
trọng giảm 8-28%.
Aiken et al. (1978) ghi nhận trâu bò bị nhiễm sán lá gan dễ mắc các bệnh
Salmonellla dublin, Clostridium oedematiens.
Patzelt và Ralf (1993), khảo sát trên 2320 con bò ở Pakistan cho biết bò nhiễm sán lá
gan sớm nhất lúc 9 tháng tuổi. Tỷ lệ nhiễm tăng dần theo tuổi.
Sandra Marcia Tiezmarques và Maria Luccia Scroffrneker ( 1999) kiểm tra 482
gan trâu bò ở bang Rio Grand de Sul, Brazil cho thấy tỷ lệ nhiễm Fasciola hepatica ở
bò là 10,34% và ở trâu là 20%.
Rim và ctv (1994) tổng số người trên thế giới bị nhiễm sán lá gan khoảng 2,4

triệu. (Trích dẫn Đỗ Ngọc Minh, 1999)
2.1.2 Tình hình nghiên cứu sán lá gan ở trong nước.
Phan Địch Lân (1985) tổng kết cho thấy Việt Nam là một trong 5 nước châu Á
trồng lúa nước có tỷ lệ trâu bò nhiễm sán lá gan cao nhất, trâu bò càng lớn tuổi thì tỷ

-5-


lệ nhiễm càng cao.
Phạm Sĩ Lăng (2000), sán trưởng thành gây tổn thương cho gan và mật, đồng
thời tiết độc tố gây rối loạn tiêu hóa, viêm ruột cấp và mãn tính.
Lê Hữu Khương, Nguyễn Văn Khanh và Huỳnh Hữu Lợi (2001) điều tra nhiều
vùng sinh thái trong cả nước thấy rằng tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 25,9 đến
58,46% tùy theo miền, cao nhất là vùng núi và trung du Bắc bộ.
Chann Bory (2003) khảo sát trên 2000 gan trâu bò ở lò mổ Vissan, Thành phố
Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò là 14,83%, và trên trâu là
22,92%
Nguyễn Đức Tân et al. (2004) qua điều tra bê nuôi ở một số tỉnh Nam Trung
bộ và Tây nguyên cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bê là 14,41%.
Phòng khám chuyên khoa của Viện Sốt rét- Côn trùng Qui Nhơn đã điều trị
đến tháng 11/2006 khoảng 1500 người nhiễm sán lá gan Fasciola từ 15 tỉnh thành
miền Trung Tây nguyên và nam Trung bộ ( Nguồn : www.impe-qn-org.vn)
Phan Lục (2006) qua kiểm tra 179 mẫu phân bò ở Đaklak cho biết tỷ lệ nhiễm
sán lá gan rất cao là 82,4%, và qua mổ khám 29 bò thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan là
58,63%
Tình hình nghiên cứu sán lá gan ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Hồ Thị Thuận và Nguyễn Ngọc Phượng (1986) kiểm tra phân bò thấy rằng tỷ
lệ nhiễm sán lá gan trâu bò ở vùng Sài Gòn, Cần Thơ là 33,66%, Minh Hải nhiễm
2,42- 7% ; trong đó tỷ lệ nhiễm ở bò 21,93% và trâu là 91,66%.
Nguyễn Hữu Hưng (1993) mổ khám 130 trâu bò và qua kiểm tra phân 82 trâu

bò tại Thốt Nốt cho biết rằng tỷ lệ nhiễm sán lá gan khá cao, ở trâu 51,20% ; bò
33,33%. Sử dụng Han-dertil, uống trực tiếp không gây phản ứng phụ, đạt hiệu lực tẩy
sạch 100%
Nguyễn Hữu Hưng (1996), bằng phương pháp mỗ khám 64 trâu, 86 bò ở An
Giang, cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu là 85,93% ; bò 83,72%. Kiễm tra phân
130 con bò ở Tri Tôn và Tịnh Biên thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 46,15%.
Nguyễn Thị Hưng Hải (2004), qua kiểm tra 250 bò ở Cần Thơ phát hiện nhiễm

-6-


sán lá gan 122 con nhiễm, chiếm tỷ lệ 67,6%. Chị Hải cũng cho biết sử dụng thuốc
Dovenix liều 1,3ml/ kg thể trọng cho hiệu quả 100%.
Thạch Thị Thanh Thúy (2006) cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan bò ở Sóc Trăng
là 49,45% và tỷ lệ nhiễm tăng dần theo độ tuổi của bò. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là ở bò
ta, kế đến là bò lai Sind và cuối cùng là bò sữa.
Hà Huỳnh Hồng Vũ (2009) qua kiểm tra phân 981 con bò tại tỉnh Đồng Tháp
cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan bò là 53,31% và tỷ lệ nhiễm tăng dần theo độ tuổi của
bò. Kết quả thử nghiệm thuốc Praziquantel liều 25mg/kg thể trọng bò cho uống ;
Albendazole liều 15mg/kg thể trọng bò đều có thể tẩy sạch sán lá gan 100%, đồng
thời thuốc an toàn khi sử dụng, không gây phản ứng phụ.
Tại tỉnh Trà Vinh chưa nghiên cứu về tỉ lệ nhiễm sán lá gan. Chính vì thế
những vấn đề mà đề tài cần giải quyết đó là : Tìm hiểu về bệnh sán lá gan, đề ra nội
dung, phương pháp nghiên cứu, xác định tỉ lệ nhiễm và thử nghiệm hiệu lực thuốc tẩy
trừ tại 3 Huyện có bò nuôi nhiều nhất, từ đó hoàn thiện quy trình kỹ thuật phòng ngừa
và tẩy trừ Sán lá gan ở bò có khả năng khuyến cáo áp dụng rộng rãi.
2.2. Sơ lược về bệnh sán lá gan.
2.2.1. Mầm bệnh: Bệnh sán lá gan do Fasciola gigantica, Fasciola hepatica,
Paramphistomum explanatum và Dicrocoelium dendriticum gây ra.


. Fasciola gigantica

Hình 2.1 Fasciola gigantica

-7-


Phân loại: Ngành: Plathelminthes
Lớp Trematoda
Bộ Fasciolidae
Họ Fasciolidae và Paramphistomatsdae
Giống Fasciola và Gigantocotyle
Hình thái : Do Cobbold phát hiện năm 1885, sán có hình dạng giống chiếc lá, dài 2575mm, rộng 5-12mm, thường chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Đầu sán có chóp, không
có vai, phần đầu phình ra. Giác bụng tròn lớn lồi ra, giác miệng nhỏ ở ngay đỉnh đầu,
túi sinh dục lớn nằm gần giác bụng. Hầu dài hơn thực quản, ruột phân thành nhiều
nhánh nhỏ, buồng trứng phân thành nhiều nhánh nằm gần giữa trước thân. Hai tinh
hoàn phân nhánh nằm chồng lên nhau, tuyến noãn hoàng xếp dọc 2 bên thân. Trứng
to, hình bầu dục, màu vàng chanh, vỏ mỏng, có nắp, bên trong tế bào phôi phân bố
đều kín vỏ trứng, kích thước trứng 0,125-0,177mm x 0,060-0,1mm.
Ký chủ cuối cùng: trâu, bò, dê, cừu và cả con người.
Ký chủ trung gian: ốc thuộc họ Lymnaeidae. Ở Việt Nam là Lymnaea viridis và
Lymnaea swinhoei.
Vị trí ký sinh: ống dẫn mật, gan.
Phân bố: Châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Châu Âu, Châu Á gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản, Pakistan, Malayxia, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam.
. Fasciola hepatica

Hình 2.2 Fasciola hepatica

Linnaeus phát hiện 1758

-8-


Hình thái: thân dẹp hình lá cây, thường có màu nâu nhạt, dài từ 20-30mm, rộng 416mm. Phần thân trước phình to rồi thon lại dần ở phía cuối thân tạo thành vai.
Những ống dẫn tuyến noãn hoàng chạy ngang chia vùng giữa sán ra phần trước và
phần sau thân. Phần sau có tinh hoàn, bộ phận sinh dục đực. Tử cung ở phần giữa
thân trước tạo một mạng lưới rối như tơ vò. Phía sau tử cung là buồng trứng có
nhánh. Giác miệng nhỏ, tròn nằm ở chóp đầu con sán. Giác bụng hơi to hơn, hình ba
cạnh ở cách giác miệng 3-5mm. Trứng có kích thước 0,13–0,145mm x0,07–0,09mm (
Theo Skarjabin và Schulz, 1973)
Ký chủ cuối cùng: Trâu, bò, dê, cừu, người.
Ký chủ trung gian: quan trọng nhất là ốc Galba truncatula. Ở mỗi nước và mỗi
vùng khí hậu là một loài ốc khác, đều thuộc họ Lymnaeidae.
Vị trí ký sinh: ống mật, có khi lạc vào phổi, dưới da, tổ chức xung quanh thận.
Phân bố: nhiều vùng trên thế giới như Mỹ, Canada, một số nước châu Phi, châu Á và
châu Âu.
Bảng 2.1 Phân biệt hai loài Fasciola hepatica và Fasciola gigantica.
Đặc điểm

Fasciola hepatica

Fasciola gigantica

Chiều dài thân

20-30mm

25-75mm

Chiều rộng thân


4-16mm

5-12mm

Phía trước

Tạo vai

Không tạo vai

Phía đuôi

Nhọn



Hai mép thân

Không song song

Song song

Giác miệng và giác bụng Có



Nhánh ruột

Nhiều và thấy rõ


Ít hơn

-9-


. Paramphistomum explanatum

Hình 2.3 Paramphistomum explanatum

Creplin phát hiện 1947.
Hình thái: Thân hình bầu dục gần hình nón, màu trắng nhạt, 3-13mm x 1-5mm. Giác
miệng ở đầu thân có kích thước 0,9-1mm x 0,8-0,9mm. Tinh hoàn xếp chéo.
Trứng hình bầu dục có kích thước 0,11-0,12mm x 0,06-0,072mm.
Ký chủ cuối cùng: bò, bò u, trâu, cừu, dê.
Ký chủ trung gian: ốc Bulinus tropicus, B. Schakoi, Indoplanorbis exustus.
Vị trí ký sinh: túi mật, ống mật.
Phân bố: nhiều vùng trên thế giới.
. Dicrocoelium dendriticum

.

Hình 2.4 Dicrocoelium dendriticum

-10-


Rudolphi phát hiện 1845
Hình thái: là loài sán nhỏ có hình chiếc giáo, dài 4,4-8,4mm, rộng khoảng 2,5mm.
Phần đầu rất hẹp, phần sau rộng. Thân sán dẹp mỏng có thể nhìn thấy hình dạng cơ

quan bên trong. Tinh hoàn mảnh khảnh có dạng thùy nằm nối tiếp nhau ngay sau giác
bụng và buồng trứng nằm sau tinh hoàn. Tuyến noãn hoàng nằm ở giữa đến cuối
thân. Tuyến sinh dục nằm 2 bên thân cuộn ngang tử cung.
Trứng màu nâu đậm, có nắp. Kích thước trứng trung bình 30-35µm.
Ký chủ cuối cùng: cừu, dê, bò, heo, chó, khỉ, thỏ.
Ký chủ trung gian: ốc và kiến.
Vị trí ký sinh: ống mật, túi mật.
Phân bố: Châu Âu, Bắc Mỹ.
2.2.2. Vòng đời và sự phát triển của sán lá gan.
Vòng đời của Fasciola gigantica và Fasciola hepatica: Theo Urquhart và ctv (1987)
thì chu trình phát triển của Fasciola gigantica và Fasciola hepatica thì giống nhau
nhưng thời gian cho từng giai đoạn phát triển của Fasciola gigantica dài hơn. Gồm 2
giai đoạn:
- Giai đoạn phát triển bên ngoài ký chủ: Trứng sán theo phân của vật chủ ra
ngoài, gặp nhiệt độ thích hợp (25-30oC), đủ oxy, trứng sẽ nở sau 9-21 ngày thành
micracidium (mao ấu) dài khoảng 130 µm. Chúng bơi lội tự do trong nước nhờ lông
xung quanh, sống không quá 48 giờ ở môi trường ngoài và rất mẫn cảm với các chất
hóa học. Chúng chủ động tìm ốc nước ngọt họ Lymnaea, chui vào gan tụy của ốc biến
đổi thành sporocyst (bào ấu) có kích thước khoảng 300µm. Sau 3-7 ngày cứ một
micracidium biến đổi thành một sporocyst. Một sporocyst sinh sản vô tính tạo ra 5-10
rediae (lôi ấu) cần 18 ngày, chúng gia tăng kích thước đến 1,6mm; rồi 13-14 ngày sau
rediae sinh sản vô tính cho ra 3-6 cercariae (vĩ ấu) có kích thước 300µm x 230µm.
Sau đó cercariae chui ra khỏi ốc, bơi lội tự do trong nước từ 10-14 giờ, rụng đuôi và

-11-


tạo kén aldolescaria có đường kính 200µm. Sau 2-24 giờ bám vào cây cỏ dưới nước
hay gần nước, vỏ cây, đất, nước. Khi vật chủ cuối cùng nuốt vào sẽ phát triển thành
sán trưởng thành.

- Giai đoạn phát triển bên trong cơ thể ký chủ: Khi vật chủ cuối cùng ăn phải
kén aldolescaria, tùy theo tình trạng sức khỏe, khả năng đề kháng, tính cảm thụ của
vật chủ mà kén có thể di hành về gan theo một trong hai con đường:
* Theo hệ thống tuần hoàn đến gan.
* Ấu trùng aldolescaria chui qua màng ruột đi vào xoang bụng rồi tấn
công vào gan.
Trong thời kỳ di hành, ấu trùng của Fasciola spp có thể đi qua các cơ quan như
phổi, hạch lâm ba, dưới da, tuyến tụy. Chúng trú ở đó và gây ra những tổn thương,
đến gan chúng phá thành mao mạch rồi xâm nhập vào ống dẫn mật và phát triển
thành dạng trưởng thành. Theo Phan Địch Lân (2000) thời gian từ khi trâu bò ăn phải
kén đến khi phát triển thành sán trưởng thành là 79-88 ngày. Fasciola spp trưởng
thành có thể sống trong cơ thể trâu bò gần 11 năm. Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái
(1978) thấy thời gian ngắn nhất từ trứng cho đến lúc thành kén của Fasciola
gigantica là khoảng 70 ngày.Như vậy vòng đời của sán lá gan khá dài, khoảng 4
tháng. Phát triển bên ngoài cơ thể vật chủ (hơn 1 tháng trong ốc), 3 tháng phát triển
bên trong cơ thể ký chủ.

-12-


1. Trứng
2. micracidium
3. sporocyst.
4. rediae.
5. cercariae.
6. aldolescaria.
7.Ký chủ.
8.Sán trưởng thành

Hình 2.5 Vòng đời phát triển của Fasciola spp

(Nguồn: www.pdp.cdc.gov)
* Vòng đời của Dicrocoelium dendriticum.
Phát triển qua 2 ký chủ trung gian là ốc và kiến. Micracidium không nở từ
trứng cho đến khi ký chủ trung gian nuốt phải. Chúng nở ra trong ruột ốc và cư trú ở
tuyến màng treo ruột, micracidium tạo ra nhiều sporocyst non được phân biệt bởi lớp
cutin. Rediae không hình thành. Tỷ lệ phát triển thấp, từ micracidium sản xuất ra
sporocyst trong thời gian hơn 3 tháng. Cercariae được sinh ra từ sporocyst trong điều
kiện không khí ẩm ướt hoặc khô, trong phổi của ốc, các cercariae kết thành khối gọi
là “tuyến nhớt”. Mỗi sporocyst tạo ra từ 200 - 400 cercaria, chúng kết lại với nhau
nhờ tuyến gelatin. Những “tuyến nhớt” bị tống ra khỏi ốc và bám dính vào cây cỏ.
Những “tuyến nhớt” này bị kiến ăn phải. Trong xoang bụng của kiến sản sinh
metacercaria. Mỗi con kiến tạo ra khoảng 128 metacercaria trong thời gian 26 - 62
ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường. Ký chủ cuối cùng nuốt phải kiến nhiễm
metacercaria, sau đó metacercaria thâm nhập vào trong vách ruột của ký chủ rồi đến
gan, cuối cùng vào trong ống dẫn mật phát triển thành sán trưởng thành. Những sán lá
gan non phát triển trong ống dẫn mật nhỏ, sán lá gan trưởng thành vào ống dẫn mật
lớn. Chúng trưởng thành sau 7 tuần và sau 4 tuần thì trứng hình thành.

-13-


Ký chủ cuối cùng

D.dendriticum
trưởng thành

metacercaria

Kiến - ký chủ
trung gian II


Trứng
gggg
g

cercariae

ốc - ký chủ
trung gian I

“Tuyến nhớt”

Sporocyst

Hình 2.6 Vòng đời phát triển của Dicrocoelium dendriticum
( Nguồn: www.pdp.cdc.gov)
2.2.3. Ký chủ trung gian
Ký chủ trung gian của sán lá gan là loài ốc nước ngọt không có nắp như
Lymnaea truncatula, Lymnaea auricularia, Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei,
Lymnaea cubensis. Ở Việt Nam có 2 loài là Lymnaea swinhoei phổ biến ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long và Lymnaea viridis ở vùng núi và trung du.
Đặc điểm 2 loài ốc
. Lymnaea viridis (Ốc chanh)
Ốc có vỏ mỏng, không có nắp miệng, kích thước 10mm, vỏ ốc dễ vỡ, số vòng
xoắn từ 4,5 - 5 vòng, vòng xoắn cuối cùng lớn.Ốc thích sống ở nơi nước xâm xấp,
thường đẻ trứng 7 - 10 quả/ổ, sau 7 ngày nở thành ốc con, trong điều kiện nhiệt độ ở
nước ta ốc đẻ được quanh năm và nở thành con.

-14-



Hình 2.7 Ốc Lymnaea viridis
(H. Adams, 1866)
. Lymnaea swinhoei (Ốc vành tai):Vỏ mỏng dễ vỡ, không có nắp miệng, kích thước
20 mm, vòng xoắn cuối cùng rất lớn chiếm gần hết phần thân, vỏ loe ra như cái vành
tai. Ốc đẻ trứng quanh năm, mỗi ổ trứng có từ 60 - 150 quả, ốc thường sống trôi nổi ở
cống, rãnh, ao, hồ.

Hình 2.8 Ốc Lymnaea swinhoei
(H. Adams, 1866)

Bảng 2.2. So sánh phân biệt 2 loài ốc
Cấu tạo

Lymnaea swinhoei

Lymnaea viridis

Nắp miệng

Không có

Không có

Các vòng xoáy của vỏ

Nhô cao

Nhô cao


Vành miệng

Loe rộng như vành tai

Thu nhỏ lại

Chỉ số chiều cao lỗ miệng

Gấp 3 lần chiều cao tháp ốc

Bằng hoặc nhỏ hơn chiều
cao tháp ốc

(Theo Phan Địch Lân, 1985)

-15-


Sự phân bố của ốc trung gian
Ốc Lymnaea viridis có ưu thế trội hơn, tỷ lệ biến thiên 29 -86%, còn ở
Lymnaea swinhoei tỷ lệ biến thiên 14 - 71%.
Tỷ lệ phân bố của 2 loài ốc trên theo vùng địa lý như sau
Vùng núi

: L. viridis 75%

L. swinhoei 25%

Vùng trung du


: L. viridis 66,5%

L. swinhoei 33,5%

Vùng ven biển

: L. viridis 51,5%

L. swinhoei 48,55%

Vùng đồng bằng : L. viridis 42%

L. swinhoei 58%

Nước ta có điều kiện thuận lợi cho sự gây nhiễm bệnh cũng như nhiễm bệnh
trong tự nhiên. Cơ thể trâu bò lại có thể tiếp nhận gần hết số lượng aldolescaria đưa
vào cùng một lúc. Cho nên, ở những vùng ô nhiễm có mầm bệnh, có nhiệt độ thích
hợp để nở mao ấu, có ốc trung gian, có trâu bò ăn phải kén gây bệnh thì cứ bình quân
3 tháng lại tạo ra một đời sán mới. Gia súc vẫn mang mầm bệnh cũ lại thêm mầm
bệnh mới tạo nên hiện tượng bội nhiễm. Trong đó vai trò của ốc ký chủ trung gian
cũng rất quan trọng trong quá trình truyền bệnh.
2.2.4. Tác hại của sán lá gan
Đối với chăn nuôi, thể cấp tính gây chết súc vật nuôi, còn thể mãn tính làm
giảm năng suất vật nuôi, giảm sức đề kháng làm gia súc dễ cảm nhiễm với các mầm
bệnh khác. Hope, Cawdery và ctv (1977) cho thấy bò bị nhiễm 40-140 con sán lá thì
tăng trọng giảm từ 8-28%.
Đối với con người, bệnh có thể lây từ gia súc sang người hay ngược lại. Bệnh
sán lá gan có thể dẫn đến tử vong do vỡ gan, xuất huyết...

-16-



Hình 2.9 Con sán chui ra từ ngực của một
Bệnh nhân nữ 48 tuổi . (Nguồn: Nguyễn Văn Đề,2002)
Đối với kinh tế, bệnh sán lá gan gây tổn thất không nhỏ. Chẳng hạn như toàn
bộ gan bị bệnh phải huỷ bỏ, bệnh này ở Hungari gây thiệt hại hàng năm tới 400 triệu
forint ( Trích dẫn Bệnh ngã nước trâu bò, Phan Địch Lân, 2000). Ở Hà Lan, bệnh này
gây thiệt hại cho ngành kinh doanh sữa 135 triệu forint/năm. Ở lò sát sinh Anh phải
loại thải 120 tấn gan tươi trị giá 2,8 triệu forint/năm (Theo số liệu thống kê của FAO).
2.2.5. Tác động của sán lá gan lên ký chủ.
Tác động cơ giới: sán non di hành gây tổn thương ruột, mạch quản nhất là nhu
mô gan. Sán trưởng thành cư trú, bám, hút máu, làm viêm ống dẫn mật, gây canxi hóa
niêm mạc ống dẫn mật, gây tắc ống dẫn mật đưa đến hoàng đản.
Tác động chiếm đoạt: sán non ăn tổ chức, sán trưởng thành hút máu gây thiếu
máu (0,2ml máu/ngày/sán), sán ăn dịch mật gây rối loạn tiêu hóa.
Tác động đầu độc: sán bài tiết chất độc trong gan gây nhiễm độc cho gia súc.
Tác động truyền bệnh: sán trưởng thành đẻ trứng trong ống dẫn mật theo phân ra
ngoài gieo rắc mầm bệnh, thường kết hợp bệnh tiên mao trùng, bệnh lao làm bệnh
nặng thêm.
2.2.6. Dịch tễ học.
Nguồn gieo rắc mầm bệnh chủ yếu là trâu, bò, dê, cừu và những loài thú hoang dại
khác.

-17-


Fasciola spp phân bố rộng khắp thế giới. Theo Nguyễn Ngọc Tuân, (2002),
Fasciola hepatica là loài sán thường thấy trong gan trâu bò ở các quốc gia Châu Âu,
Châu Mỹ, trong khi đó Fasciola gigantica gây thiệt hại lớn cho trâu bò ở vùng Châu
Á như Indonexia, Nêpan, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam.

Theo Phan Địch Lân (1985) và Hồ Thị Thuận (1984), bệnh sán lá gan phát
hiện khắp các tỉnh từ Bắc đến Nam, tỷ lệ nhiễm ở miền núi (30-35%), đồng bằng và
trung du (40-70%). Như vậy, vùng đồng bằng trung du nhiễm với tỷ lệ cao hơn vùng
núi và vùng ven biển.
Lê Hữu Khương, Nguyễn Văn Khanh và Huỳnh Hữu Lợi (2001) điều tra nhiều
vùng sinh thái trong cả nước cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 25,96-58,46% tùy
theo vùng sinh thái, cao nhất là vùng núi và cao nguyên Bắc Bộ.
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), trứng sán rất nhạy cảm với khô hạn và
tác động trực tiếp của ánh sáng mặt trời. Ở môi trường khô hạn, phôi ngừng phát triển
và trứng sán chết sau 8-9 ngày. Ở môi trường ẩm ướt trứng có khả năng duy trì sức
sống khá lâu, tồn tại đến 8 tháng. Trên đất cát không có cỏ, cây che phủ và bóng mát
trứng bị chết nhanh chóng. Ở nhiệt độ thấp từ -5 đến -150C, phôi bị chết sau 2 ngày,
10-20oC trứng ngừng phát triển, 40-50oC phôi bị chết sau vài phút.
Phan Địch Lân (2000) cho biết các loài ốc nước ngọt là vật chủ trung gian của
Fasciola phân bố rất rộng. Ở Việt Nam, loài Lymnaea viridis thích sống ở cạn hơn,
nơi có nước xâm xấp, còn loài Lymnaea swinhoei thích sống nơi có nước nhiều hơn,
sống trôi nổi ở cống rãnh ao hồ.
Theo Trịnh Văn Thịnh và Phạm Văn Khuê (1978), tuổi gia súc càng lớn thì tỷ
lệ nhiễm càng tăng. Súc vật bệnh thường tăng lên vào mùa ký chủ trung gian phát
triển, các vũng nước có nhiều cercariae, aldolescariae nên những năm mưa nhiều súc
vật nhiễm sán tăng nhiều hơn những năm nắng ráo khô hạn. Mùa hè gia súc nhiễm
cũng tăng hơn so với các mùa khác trong năm. Đến cuối mùa thu và mùa đông bệnh
thường phát ra.

-18-


Sán có thể đẻ 20.000 trứng/ ngày, trứng đề kháng tốt với điều kiện môi trường
nhưng nhạy cảm với khô hanh và tác động trực tiếp của ánh sáng (Giáo trình Ký sinh
trùng thú y, Nguyễn Hữu Hưng - Đỗ Trung Giã, 2001).

Sán có thể tồn tại trong cơ thể gia súc từ 3-11 năm, ấu trùng metacercaria sống
159 ngày, ốc sống tới 3 năm. Trứng sán sống 2-3 tháng trong môi trường ẩm của
phân. Kén sán có thể tồn tại 6 tháng trong bóng râm (Lương Văn Huấn và Lê Hữu
Khương, 1997).
Bệnh Fasciola còn gặp ở người.Tổng số người trên thế giới bị nhiễm Fasciola
khoảng 2,4 triệu (Rim và ctv, 1994).( Trích dẫn Hà Huỳnh Hồng Vũ, 2009).
2.2.7. Cơ chế sinh bệnh.
Sán có kích thước lớn nên khi ký sinh với số lượng lớn trong cơ thể gia súc làm
tắc ống dẫn mật gây hoàng đản.
Ấu trùng di hành xuyên qua các mô bào, nhất là gan và vách mao quản gây tổn
thương lớn.
Sán lá gan trưởng thành ký sinh trong gan sẽ phá hoại tế bào gan gây viêm và
xơ gan.
Ngoài ra, sán còn tiết độc tố làm cho thành ống dẫn mật và tế bào gan bị biến
đổi bệnh lý, độc tố vào máu gây trúng độc toàn thân.
Khi ấu trùng di hành sẽ mang theo vi trùng, siêu vi trùng làm bệnh nặng thêm
và phát sinh các bệnh truyền nhiễm khác.
* Cơ chế sán lá gan lớn gây bệnh cho người:

Nguồn: www. diendanykhoa.com/showthread.php?t=3649
Sán trưởng thành ký sinh ở ống mật chủ và đường mật trong gan người, gia
súc. Trứng xuống ruột theo phân ra ngoài. Trong nước, trứng nở ra trùng lông rồi
xâm nhập vào một số loài ốc; khi phát triển thành ấu trùng đuôi di động thì rời khỏi
ốc.
-19-


Fasciola gigantica, Fasciola hepatica có trong cá nước lợ, và chủ yếu hơn là
trong các loại rau sống trong nước (cải xoong, ngổ, rau om, rau cần, ngó sen, rau
nhúp v.v…). Ăn gỏi cá, rau sống làm cho dạng nang ấu trùng (metacercaria) xâm

nhập vào dạ dày ruột, rồi tự lột lớp vỏ, xuyên qua màng ruột, theo máu vào gan, phát
triển trong tế bào gan, rồi sau đó định hình ở ống mật. Sau khoảng 2- 3 tháng sẽ phát
sinh triệu chứng: sốt, run lạnh, đau vùng bụng, vùng gan (hông phải). Nếu không điều
trị sẽ chuyển sang giai đoạn mạn tính. Lúc này người bệnh có biểu hiện mệt, chán ăn,
buồn nôn, xuất huyết đường tiêu hóa, thiếu máu, đau khớp, đau cơ, ho, có thể tràn
dịch màng phổi. Đồng thời sẽ tạo ra những ổ áp-xe nhỏ, rồi những ổ áp-xe lớn, phá tổ
chức gan, dẫn đến xơ gan, gây xơ cứng đường mật, tắc mật, vàng da. Nếu vật chủ
thích hợp, chúng có thể tồn tại ở người từ 9 - 13,5 năm.
Ấu trùng xuyên qua thành ruột non và xuyên qua phúc mạc xâm nhập bao gan
rồi di chuyển dần đến ống gan lớn. Bệnh tiến triển theo hai giai đoạn:
1.Giai đoạn gan (xâm nhập):
Các triệu chứng xuất hiện khoảng 6-12 tuần sau khi ăn phải các ấu trùng nang
(metacercariae) và kéo dài 2-4 tháng. Trong giai đoạn này, một số lượng lớn ấu trùng
di chuyển qua thành ruột, qua khoang phúc mạc, bao gan. Các triệu chứng hay gặp
nhất là đau bụng, sốt cơn, sút cân, nổi mề đay, ho, khó thở, đau ngực, rối loạn đại
tiện, chán ăn và buồn nôn.
Có khi đau khắp bụng nhưng thường khu trú ở vùng hạ sườn phải.
2. Giai đoạn mật (trưởng thành):
Có thể kéo dài nhiều năm, do F.hepatica có xu hướng di chuyển đến lòng ống
mật chủ và phát triển thành sán trưởng thành ở đó. Trứng xuất hiện trong phân sau
giai đoạn tiền lâm sàng khoảng 3-4 tháng. Khi xuất hiện tổn thương ở vị trí này thì
giai đoạn phá hủy gan kết thúc. Các triệu chứng như sốt, chán ăn và đau bụng có thể
hết, bệnh nhân chuyển sang giai đoạn không triệu chứng. Tăng bạch cầu ưa axit

-20-


(eosinophils) là một dấu hiệu thường gặp. Nhiều bệnh nhân có biến chứng bán tắc
mật cùng với đau từng cơn vùng thượng vị hoặc hạ sườn phải, có biểu hiện của viêm
đường mật cấp: sốt, vàng da, đau bụng... Khi xâm nhập vào gan, sán lá gan lớn gây

nên các tổn thương ở gan rất nặng nề mà hậu quả là chảy máu và hình thành sẹo. Sau
khi sán đã xâm nhập vào đường mật, cùng với các tổn thương cơ học, các độc tố sẽ
làm cho thành ống mật dày lên, đường mật giãn, tổ chức gan tổn thương thoái hóa,
cuối cùng dẫn đến xơ gan. Ở giai đoạn sớm và trong trường hợp số lượng sán trong
đường mật chưa nhiều, các biểu hiện của bệnh sán lá gan lớn thường ít được chú ý.
Có thể gặp đau vùng thượng vị, sốt, nôn, tiêu chảy, ngứa. Người bệnh có thể có các
triệu chứng này kéo dài trong vài tháng. Giai đoạn sau là các biểu hiện của tình trạng
viêm túi mật hoặc áp-xe gan. Xét nghiệm máu lúc này thường có hình ảnh của một
tình trạng nhiễm khuẩn với tăng eosinophils. Nhưng nếu người chưa là vật chủ thích
hợp, sán non còn di chuyển xuống đại tràng, ra thành ngực, đến tuyến vú hoặc xuyên
thủng da chui ra khớp gối. Thế giới cũng đã từng ghi nhận những trường hợp sán chui
cả xuống buồng trứng, tinh hoàn, màng phổi...
Sau khoảng 6 - 12 tuần khi sán lá gan lớn xâm nhập, người bệnh có biểu hiện
hay gặp nhất là: đau bụng, sốt cơn, sút cân, nổi mề đay, ho, khó thở, đau ngực, rối
loạn đại tiện, chán ăn và buồn nôn. Có khi đau khắp bụng nhưng thường khu trú ở
vùng hạ sườn phải hoặc vùng thượng vị nên dễ nhầm với các bệnh về gan mật hoặc
dạ dày. Khi sán lá gan lớn đã khu trú lâu trong cơ thể, gây áp xe có mủ, hủy hoại dần
bộ phận gan. Bệnh có thể dẫn đến tử vong do vỡ bao gan, xuất huyết hoặc sốc nhiễm
trùng vì viêm phúc mạc…
2.2.8. Triệu chứng và các thể bệnh.
Bệnh phụ thuộc vào mức độ nhiễm sán, tình trạng sức khỏe, tuổi, mùa vụ và
tình hình quản lý, chăm sóc, thường thời gian ủ bệnh 25-30 ngày.
Trong thời kỳ di hành, ấu trùng Fasciola gây tổn thương các cơ quan như gan,
phổi, mạch máu, hạch lâm ba... Khi trưởng thành sán hút máu làm cho trâu bò gầy
-21-


yếu, thiếu máu, chậm tăng trưởng, giảm sản lượng sữa từ 15-30%.
Sán lá gan hút máu ống mật gây viêm ống dẫn mật, canxi hoá, một số có hiện
tượng xơ gan. Bệnh tiến triển làm niêm mạc nhợt nhạt, vàng da, gầy rạc, mô mỡ và

bắp thịt teo, hồng cầu giảm còn dưới 1triệu/mm3.
Bệnh thường xảy ra ở 2 thể:
Thể cấp tính ít xảy ra, nếu chế độ nuôi dưỡng thiếu thốn về chất và lượng sẽ
làm cho con vật bệnh nặng thêm. Các trường hợp nhiễm nặng, trâu bò thường chết
đột ngột, thiếu máu, niêm mạc nhợt nhạt, tiêu chảy, vàng da, đôi khi có triệu chứng
thần kinh. Con vật uể oải, kiệt sức và chết sau vài ngày từ khi xuất hiện triệu chứng.
Thể mãn tính, đa số trâu bò bị nhiễm Fasciola spp đều biểu hiện ở thể mãn
tính. Gồm 3 thời kỳ
Thời kỳ đầu: không có triệu chứng rõ rệt.
Thời kỳ thứ hai: gầy, thiếu máu, khát nước, hơi sốt, thủy thũng nhẹ ở phúc
mạc, kết mạc mắt sưng và nhợt nhạt, mí mắt phù.
Thời kỳ thứ ba: gầy rạc, con có thai thì sảy thai hoặc đẻ non, yếu ớt, nhẹ cân.
Bỏ ăn, tiêu hoá kém, tiêu lỏng. Triệu chứng đặc hiệu là thủy thũng dưới hàm.
Thời gian tiến triển bệnh rất thay đổi, thường ít kéo dài quá 6 tháng, con vật
chết do kiệt sức.
Như vậy, triệu chứng lâm sàng dạng mãn tính là rối loạn tiêu hoá, kém ăn, tiêu
chảy, đôi khi chướng hơi dạ cỏ, lông xù, niêm mạc nhợt nhạt, sờ vùng gan thấy sưng
đau. Bệnh nặng thì con vật sốt, hoàng đản, thủy thũng, gia súc có thể trúng độc và
chết.
2.2.9. Bệnh tích.
Tùy thuộc vào cường độ nhiễm sán.
Nếu nhiễm nhiều, con vật bị viêm gan cấp tính, gan sưng, sung huyết, trên mặt

-22-


gan có nhiều vệt đỏ dài 2-4mm do sán non di hành, có thể thấy viêm phúc mạc. Gan
chắc, cứng, thành ống dẫn mật tăng sinh, dày lên và chắc cứng lại, đôi khi có hiện
tượng canxi hoá. Nếu nặng trâu bò gầy rạc, máu loãng, thịt màu xám, xoang bụng,
xoang ngực, xoang bao tim chứa đầy nước.

Nếu nhiễm nhẹ, mô gan bị hủy, gan xơ cứng, niêm mạc ống dẫn mật dày lên do
mô liên kết tăng sinh. Túi mật căng lên chứa đầy dịch mật và có thể dày lên nếu có
sán ký sinh.
Locryt (1958) mô tả bệnh tích sán lá gan với túi mật sưng to, ống mật bị tắc,
phình to, lớp thượng bì dày lên, có nhiều ổ áp xe ở gan. Gan sưng to, chai cứng và
nặng, tích nước xoang bụng, bạch cầu ái toan tăng 81%. Gia súc thiếu máu, nhiễm
độc viêm khớp nặng.
Lương Tố Thu và ctv (1997) cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu bò qua
kiểm tra ở lò mổ lên tới 76%, đại đa số gan bị xơ hóa, hoại tử, canxi hóa.
2.2.10. Chẩn đoán.
Chẩn đoán lâm sàng: dựa vào tình hình dịch tễ của bệnh và các triệu chứng như
thiếu máu kèm vô cảm, ăn kém ngon miệng, gầy, da hơi vàng, tiêu lỏng, phù thũng,
suy mòn dần. Sờ vào sườn bên phải gây cảm giác đau rõ ràng.
Chẩn đoán phòng thí nghiệm: kiểm tra phân và chẩn đoán huyết thanh học
Xét nghiệm phân theo phương pháp gạn rửa sa lắng nhiều lần để tìm trứng sán
lá gan (Benedek,1943). Chú ý khi xét nghiệm phân cần phân biệt Fasciola spp,
Paramphistomum explanatum và Paramphistomum cervi vì 3 loại trứng này gần
giống nhau.

-23-


Đặc điểm hình

Trứng Fasciola

thái

spp


Trứng
Paramphistomum
explanatum

Paramphistomum cervi

Màu sắc

Vàng sẫm

Hình dạng

Hai đầu thon nhỏ, Một đầu to, một đầu Một đầu to, một đầu
gần đều nhau
nhỏ
nhỏ

Tế bào phôi

Tập trung từng cụm, Phân bố không đều
To đều nhau, xếp
phân bố không xếp gồm một đầu dày và
kín vỏ trứng
kín vỏ trứng
một đầu thưa

Kích thước

0,111-0,151 x
0,063-0,078mm


Vỏ trứng

Mỏng hơn

Vàng sậm

Trứng

0,110-0,120
0,060-0,072mmx
0,120-0,190mm

Xám nhạt

x 0,012-0,0178 x 0,0420,048mm

Dày hơn

Dày

Chẩn đoán huyết thanh: phát hiện kháng thể trong huyết thanh súc vật bằng các
phương pháp miễn dịch như SAT, ELISA, IFAT.
Ngoài ra, còn dùng phản ứng dị ứng để chẩn đoán: dùng sán trưởng thành để
chế kháng nguyên.
Chẩn đoán mổ khám: mổ khám súc vật bệnh chết tìm sán trong túi mật, ống
dẫn mật, gan. Sự có mặt của sán lá gan trong ống dẫn mật, canxi hoá ống dẫn mật và
những tổn thương do sán non di chuyển là đặc trưng của bệnh sán lá gan.
2.2.11. Phòng bệnh.
Muốn phòng bệnh có hiệu quả ta cần phải dựa vào 3 yếu tố, đó là chu trình

phát triển của sán lá gan, tình hình dịch tễ của bệnh và sinh thái của ký chủ trung
gian. Từ đó ta đưa ra biện pháp phòng trừ tổng hợp.
Định kỳ tẩy sán, cứ 6 tháng/lần, điều trị súc vật nhiễm sán. Những trang trại
chăn nuôi tập trung cần có kế hoạch chăn thả luân phiên đồng cỏ.

-24-


Ủ phân sinh học để ngăn ngừa mầm bệnh xâm nhiễm vật nuôi.
Diệt ký chủ trung gian bằng cách tháo khô những vùng lầy lội, dùng CuSO 4
hay thả vịt để tiêu diệt các loài ốc Lymnaea tránh truyền lan mầm bệnh.
Vệ sinh thức ăn nước uống, chăm sóc nuôi dưỡng tốt đàn bò để nâng cao thể
trọng và sức đề kháng để chống đỡ bệnh sán lá gan cũng như các bệnh giun sán khác.
Xử lý cơ quan nhiễm sán như gan, nếu nhiễm nhiều phải nấu chín và chế biến
thức ăn cho gia súc.
Không nhập gia súc ở vùng bệnh để tránh lây lan. Tất cả trâu bò trước khi nhập
đàn phải kiểm tra để xác định có bị nhiễm sán hay không, chữa sạch bệnh mới cho
nhập đàn.
Không cho gia súc uống nước chảy qua đồng cỏ có chứa mầm bệnh của sán lá
gan.
2.2.12. Điều trị.
Để công tác điều trị đạt kết quả tốt, người làm công tác thú y cần nắm 3 điều cơ
bản. Bên cạnh việc diệt ký sinh trùng ở cơ thể gia súc, ta phải tránh để gia súc tái
nhiễm và bồi dưỡng cho gia súc hồi sức.
Hiện nay có nhiều loại thuốc điều trị sán lá gan đang sử dụng trên thị trườ
Bảng 2.3 Một số loại thuốc đang sử dụng trên thị trường
Tên biệt dược

Tên thương


Nước sản

Dạng

mại

suất

thuốc
Dung

Liều dùng

thuốc
Tiêm dưới da

Nitroxinil

Dovenix

Pháp

Triclabendazol

Fascinex

Thụy Sĩ

Oxyclozanit


Fasciozanida

Cuba

Bột

15mg/kg

Uống

Rafoxanid

Bio-dewomer

Việt Nam

Bột

7,5mg/kg

Uống

-25-

dịch
Dung
dịch

1ml/25kg


Đường cấp

10ml/100kg Tiêm dưới da


×