BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ỨNG DỤNG
ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG QUÁ NHIỀU ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN CÓ LÀM GIẢM SỰ
ĐA DẠNG VÀ PHONG PHÚ TRONG BÀI TẬP NẶN TẠO DÁNG
CỦA HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC NOONG BUA?
Tên tác giả, đơn vị công tác:
- Vũ Hữu Cương - Khoa Tiểu học - Mầm non
- Hà Thị Hương – Phòng Đào tạo - NCKH
- Lê Kim Thoa – Khoa Tiểu học - Mầm non
- Nguyễn Văn Nguyên - Tổ Bộ môn chung
Trường cao đẳng Sư phạm Điện Biên - Tỉnh Điện Biên
Tóm tắt
Một số giáo viên dạy mỹ thuật ở lớp 4 trường tiểu học Noong Bua – TP
Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên khi dạy bài Tập nặn tạo dáng thường hay sử
dụng nhiều đồ dùng trực quan. Tuy nhiên, đối với những môn như mỹ thuật,
nhấn mạnh đến tính sáng tạo thì việc giáo viên sử dụng quá nhiều đồ dùng trực
quan trong một bài học sẽ làm giảm sự đa dạng và phong phú các sản phẩm của
học sinh, điều này chưa được khẳng định chắc chắn.
Mục đích của nghiên cứu này là tìm ra sự khác biệt giữa việc sử dụng quá
nhiều đồ dùng trực quan và sử dụng vừa đủ số lượng đồ dùng trực quan có ảnh
hưởng như thế nào đến sự đa dạng và phong phú sản phẩm nặn của học sinh. 21
học sinh lớp 4 tham gia nghiên cứu được chia làm 2 nhóm; nhóm thực nghiệm
(G1), nhóm đối chứng (G2). Bài kiểm tra đầu vào cho cả hai nhóm yêu cầu học
sinh thực hiện 01 bài Tập nặn tạo dáng; 02 bài thực hành trong chương trình
được thiết kế cho 2 nhóm theo hai hướng: G1 giáo viên thực nghiệm thiết kế bài
dạy học theo hướng giảm bớt đồ dùng trực quan, G2 giáo viên thực nghiệm vẫn
sử dụng nhiều đồ dùng trực quan như hiện trạng; sử dụng 01 bài kiểm tra đầu ra
cho hai nhóm: Tập nặn tạo dáng. Các phép kiểm chứng độc lập thực hiện đối
với bài kiểm tra đầu ra cho thấy sự khác biệt, nghiêng về nhóm thực nghiệm.
1
Giới thiệu
Nghiên cứu này dựa trên đặc điểm tâm lí học và đặc điểm ngôn ngữ tạo
hình của học sinh tiểu học. Hiện trạng học sinh được xem từ 10 đến 18 đồ dùng
trực quan trước khi thực hiện bài tập nặn. Giáo viên cố gắng tổ chức bài học
sinh động hơn bằng cách giới thiệu và cho HS xem nhiều đồ dùng trực quan
mục đích giúp HS có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng và phong phú.
Kết quả là hầu hết học sinh thường bắt chước các đồ dùng trực quan được cho
xem và sản phẩm của các em thể hiện sự thiếu sự đa dạng và phong phú. Vấn đề
đặt ra là việc sử dụng quá nhiều đồ dùng trực quan có làm giảm sự đa dạng và
phong phú của sản phẩm nặn trong bài tập nặn và tạo dáng hay không.
Một trong những yêu cầu của học môn mỹ thuật đối với bất kỳ một cấp
học nào đó là hướng tới sự sáng tạo. Sáng tạo bao gồm nhiều mức độ tùy theo
từng lứa tuổi và cấp học. Đối với cấp tiểu học sáng tạo được hiều là khi học
sinh tạo ra sản phẩm hoặc bài vẽ: không giống bài vẽ của các bạn, không lặp lại
hoàn toàn bài vẽ của giáo viên hoặc những mẫu vật, tranh ảnh có sẵn; đặc biệt
trong những phân môn như: vẽ trang trí, vẽ tranh, nặn tạo dáng thì một trong
những cách biểu hiện sự sáng tạo trong bài học là học sinh tạo ra sản phẩm cần
đa dạng và phong phú về chủ đề, hình dáng và màu sắc… Theo Bách khoa toàn
thư Wikipedia.org “… Sáng tạo là để tư tưởng được thoát ra khỏi các nền nếp
kiến thức cũ mà đã từng được dùng để giải quyết vấn đề…”
(Trích từ ) .
Một nghiên cứu khác có liên quan của tác giả Bartel (2006) đã tìm ra rằng
bắt chước không phải là cách phát triển một tinh thần sáng tạo cho học sinh vì
học bắt chước khiến học sinh thụ động hơn. Đối với Marvin, bắt chước là một
phản xạ theo bản năng trong việc học của học sinh, dẫn tới “học vẹt” và không
khuyến khích tư duy sáng tạo (Trích dẫn tài liệu Tập huấn NCKH - 2008).
Mục tiêu của nghiên cứu khoa học ứng dụng này là trả lời câu hỏi: Sử
dụng quá nhiều đồ dùng trực quan có làm giảm sự đa dạng và phong phú
2
trong bài nặn và tạo dáng của học sinh trong bài nặn và tạo dáng của học sinh
lớp 4 trường tiểu học Noong Bua Thành phố Điện Biên Phủ, Tỉnh Điện Biên?
Phương pháp
a. Khách thể nghiên cứu
21 học sinh lớp 4 Trường tiểu học Noong Bua, Thành phố Điện Biên Phủ,
Tỉnh Điện Biên được chọn tham gia thực nghiệm này. Một nhóm được chọn là
nhóm tham gia nghiên cứu (G1) và một nhóm là nhóm đối chứng (G2)
* Danh sách học sinh nhóm thực nghiệm (G1)
TT Họ và tên
Giới tính
Dân tộc
Na
m
Nữ
1 Sùng A Của + H’Mông
2 Lù Thị Dung + Thái
3 Vì Thị Dung + Thái
4 Tòng Văn Hưởng + Thái
5 Tòng Văn Hoàn + Thái
6 Nguyễn Thị Huế + Kinh
7 Tòng Văn Kiên + Thái
8 Bùi Thị Nhung + Kinh
9 Lò Thị Phương + Thái
10 Hoàng Văn Phong + Kinh
* Danh sách học sinh nhóm đối chứng (G2)
3
TT Họ và tên
Giới tính Dân
tộc
Nam Nữ
1 Quàng Văn Chung + Thái
2 Lê Thị Chuyên + Kinh
3 Cà Thị Hằng + Thái
4 Nguyễn Thị Hường + Kinh
5 Phạm Thị Hương + Kinh
6 Lường Văn Hùng + Thái
7 Cà Thị Kim + Thái
8 Nùng T. Phương Mai + Thổ
9 Nguyễn T. Kim Nhung + Kinh
10 Thùng Văn Lượng + Thái
11 Quàng Thị Phiêng + Thái
Nhóm thực nghiệm khi học bài Nặn và tạo dáng chỉ được giáo viên thực
nghiệm cho xem một số lượng đồ dùng trực quan vừa đủ (theo thiết kế) và giáo
viên tác động bình thường. Nhóm đối chiếu thì được xem nhiều đồ dùng trực
quan (như thiết kế) và giáo viên tác động nhiều hơn.
b. Thiết kế
Phân nhóm tương đương trước khi phân chia ngẫu nhiên được thực hiện
trong 1 lớp. Điều này đưa ra một thiết kế thực nghiệm hình thức với bài kiểm tra
đầu vào (01) và bài kiểm tra đầu ra (02) như dưới đây.
c. Đo lường
4
Nhóm
KT đầu vào Tác động
Thực nghiệm
(G1)
01
Đưa ra 13 trực quan trong bài học
Giáo viên hướng dẫn bình thường
Đối chứng
(G2)
Đưa ra 13 trực quan trong bài học
Giáo viên hướng dẫn tác động bình thường
Nhóm
KT đầu ra Tác động
Thực nghiệm
(G1)
02
Đưa ra 8 trực quan trong bài học
Giáo viên hướng dẫn bình thường
Đối chứng
(G2)
Đưa ra 18 trực quan
Giáo viên hướng dẫn nhiều hơn
Bài kiểm tra đầu vào trước tác động
- Bài: Tập nặn, tạo dáng: Nặn con vật
Bài kiểm tra đầu ra sau tác động
- Bài 30: Tập nặn, tạo dáng: Đề tài tự chọn
Cụ thể:
TT Tên bài dạy
Số lượng trực quan thường dạy
Tranh,
ảnh
Mô hình
Mẫu
nặn
Đồ chơi
Hình vẽ
trên
bảng
1
Bài 16: Tập nặn, tạo
dáng:
Tạo dáng con vật hoặc
ô - tô từ vỏ hộp
5 2 7 2 2
Giảm trực quan Giảm: 3 Giảm: 0 Giảm: 3 Giảm: 0 Giảm: 0
2
Bài 23: Tập nặn và tạo
dáng:
Tập nặn dáng người
6 4 3 2 2
Giảm trực quan Giảm: 2 Giảm: 2 Giảm: 1 Giảm: 0 Giảm: 0
3
Bài 30: Tập nặn và tạo
dáng:
Đề tài tự chọn
0 4 6 0 1
Giảm trực quan Giảm: 0 Giảm: 2 Giảm: 2 Giảm: 0 Giảm: 0
- Nhóm chuyên gia môn học và giáo viên thực nghiệm sử dụng thang điểm
đo mức độ đa dạng và phong phú để đánh giá sản phẩm nặn (thang điểm 10).
THANG ĐO MỨC ĐỘ ĐA DẠNG VÀ PHONG PHÚ (Cho 1 học sinh)
T
T
Tiêu chí Điểm
Ghi
chú
1 Chủ đề sản phẩm phong phú, không bị ảnh hưởng nhiều bởi đồ
dùng do GV cung cấp
2 Tạo ra sản phẩm nặn đa dạng về hình dáng, cấu trúc và đặc
điểm của đối tượng
3 Phối hợp màu sắc đẹp, hài hòa
4 Thiết kế trình bày sản phẩm sinh động
5 Giới thiệu được sản phẩm.
Tổng điểm:
* Mỗi tiêu chí tương ứng với điểm số như sau:
5
+ Tiêu chí 1 điểm tối đa: 3 điểm.
+ Tiêu chí 2 điểm tối đa: 3 điểm.
+ Tiêu chí 3 điểm tối đa: 2 điểm.
+ Tiêu chí 4 điểm tối đa: 1 điểm.
+ Tiêu chí 5 điểm tối đa: 1 điểm.
- Tính độ tương quan giữa điểm các bài tập (để đảm bảo độ giá trị đồng
quy).
Bảng điểm kết quả kiểm tra:
Nhóm G1
TT Họ và tên
BKT
ĐV
B1 B2 B3
BKT
ĐR –
02
KT
GK
01
1 Sùng A Của 5 6 6 8 7 8
2 Lù Thị Dung 6 7 7 7 8 8
3 Vì Thị Dung 6 6 6 8 7 7
4 Tòng Văn Hưởng 7 8 8 8 8 9
5 Tòng Văn Hoàn 5 7 7 6 7 7
6 Nguyễn Thị Huế 6 7 8 8 8 9
7 Tòng Văn Kiên 7 6 6 7 7 8
8 Bùi Thị Nhung 6 7 6 6 7 7
9 Lò Thị Phương 7 6 6 7 7 7
10 Hoàng Văn Phong 6 6 7 8 7 8
Nhóm G2
6
Quy trình nghiên cứu
Hoạt động ban đầu là cho cả hai nhóm thực hiện bài kiểm tra đầu vào (bài
Nặn và tạo dáng: Nặn con vật), nhóm chuyên gia môn học tiến hành đánh giá
sản phẩm thông qua thang đo mức độ đa dạng và phong phú, hai nhóm được
học cùng số lượng đồ dùng trực quan và được hướng dẫn theo thiết kế. Học sinh
được tự do lựa chọn chủ đề, chất liệu kết hợp để làm bài nặn và hoàn thành bài
trong thời gian 1 tiết. Trong 2 bài học tiếp theo trong chương trình, giáo viên
duy trì thực nghiệm đã thiết kế với hai nhóm, kết thúc bài thực hành số 30 theo
7
TT Họ và tên
BKTĐV
B1
B2 B3
BKT
ĐR –
KT
GK
01
1 Quàng Văn Chung 6 6 7 6 7 7
2 Lê Thị Chuyên 6 8 7 7 8 7
3 Cà Thị Hằng 7 6 7 7 6 8
4 Nguyễn Thị Hường 7 6 8 7 8 7
5 Phạm Thị Hương 5 6 7 8 7 6
6 Lường Văn Hùng 6 7 8 7 7 7
7 Cà Thị Kim 6 6 5 6 6 7
8 Nùng T. Phương Mai 5 5 6 7 6 6
9 Nguyễn T. Kim Nhung 7 7 8 8 8 8
10 Thùng Văn Lượng 6 7 6 8 7 7
11 Quàng Thị Phiêng 6 6 8 7 7 8
chương trình, nhóm GV thực nghiệm sử dụng bài: Bài 30: Tập nặn tạo dáng: Đề
tài tự chọn làm kiểm tra đầu ra cho cả hai nhóm G1 và G2.
Phân tích dữ liệu và kết quả
Phép kiểm nghiệm t-test độc lập cho thấy nhóm tham gia thực nghiệm đạt
điểm cao hơn so với nhóm đối chứng cả ở bài kiểm tra đầu vào và đầu ra. Trong
trường hợp này, sự khác biệt trong kết quả kiểm tra đầu ra có thể do khác biệt
trong bài kiểm tra đầu vào. Để gạt bỏ ảnh hưởng của sự khác biệt ban đầu giữa
các nhóm, điểm chênh lệch được tính bằng cách lấy điểm bài kiểm tra đầu ra trừ
đi điểm bài kiểm tra đầu vào. Sau đó, hai nhóm được so sánh dựa trên điểm
chênh lệch này.
So sánh giá trị trung bình
Phép đo
Nhóm thực nghiệm
(10 học sinh)
Nhóm đối chứng
(11 học sinh)
Giá trị p của
phép kiểm
nghiệm t-test
Quy mô
ảnh hưởng
Gía trị
TB
SD Gía trị
TB
SD
Đầu vào 6.6 0,70 6,4 0,81 0,28 0,34
Đầu ra 7,8 0,79 7,1 0,70 0,11 0,88
Điểm chênh
lệch
1,2 0,9 0,7 11,0 0,17 0.54
Như trong Bảng 1, giá trị trung bình điểm chênh lệch của nhóm nghiên
cứu là 1,2 và nhóm đối chiếu là 0,7 như vậy chênh lệch điểm giữa hai nhóm là
0,54 nghiêng về phía nhóm tham gia thực nghiệm. Quy mô ảnh hưởng tương
ứng là 0.24, theo tiêu chuẩn Cohen là mức ảnh hưởng nhỏ. Kết quả được khái
quát trong biểu đồ Hình 1 dưới đây.
8
Kết luận và kiến nghị
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của việc đưa ra quá
nhiều đồ dùng trực quan hoặc sử dụng vừa phải đồ dùng trực quan có ảnh
hưởng như thế nào tới sự đa dạng và phong phú của sản phẩm nặn trong bài nặn
và tạo dáng của HS lớp 4 Trường Tiểu học Noong Bua, TP Điện Biên Phủ, Tỉnh
Điện Biên.
Các kết quả cho thấy học sinh được xem quá nhiều đồ dùng trực quan
trong dạy học bài nặn và tạo dáng có thể gặp trở ngại trong việc tạo cho sản
phẩm nặn sự đa dạng và phong phú. Ngược lại, việc đưa ra vừa phải số lượng
đồ dùng trực quan cho phù hợp với từng tiết học cụ thể, sẽ góp phần làm cho
HS tích cực hơn trong việc tạo ra sản phẩm nặn đa dạng và phong phú.
Điều này cho thấy việc giáo viên sử dụng quá nhiều đồ dùng trực quan
trong một tiết dạy không phải cách tốt để khuyến khích học sinh tạo ra sự đa
dạng và phong phú trong bài nặn và tạo dáng.
9
Hình 1: So sánh giá trị trung bình