Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN NHỮNG NGUYEN LI cơ bản của CHỦ NGHIA MAC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.56 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN NHỮNG NGUYÊN LÍ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN
Đề bài:
Hội nhập kinh tế Việt Nam: Cơ hội và thách thức

Họ & tên: PHÙNG THỊ VÂN ANH
Lớp: K20CLCH

MỤC LỤC


Chương I: Một số khái niệm cơ bản
1.1.
1.2.

Khái niệm hội nhập kinh tế
Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế

Chương II: Cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
2.1.
2.2.
2.3.

Những cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam
Những thách thức khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
Những thành tựu và hạn chế

Kết luận
Tài liệu tham khảo

Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài


Cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan. Đây
là một bước đi tất yếu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, Đại hội
X của Đảng đã khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng
cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển”. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã
và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là
một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Hơn thế nữa, một nước đang phát
triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, một vấn
đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt
Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách.
Nhưng theo chủ trương của Đảng: “VN muốn làm bạn với tất cả các nước”, chúng
ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế
là tất yếu khách quan đối với VN.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Hội nhập kinh tế Việt Nam: Cơ hội và thách
thức.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Phép biện chứng đã khẳng định:các sự vật, các hiện tượng, các quá trình khác nhau
của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, và cũng đồng
thời khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ
đó.
Các sự vật hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng phong phú, có khác nhau
bao nhiêu,song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất,
thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại

biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau
theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng


khẳng định rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật,
của một hiện tượng trong thế giới. Do đó mọi mối liên hệ đều mang tính khách
quan, là vốn có của sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến. Bởi lẽ
bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Trong thời
đại ngày nay không có một quốc gia nào là không có mối quan hệ, không có sự
liên hệ với các quốc gia khác. Bởi vậy mà xu hướng toàn cầu hóa, khu vưc hóa mọi
mặt đời sống xã hội trở thành một xu thế tất yếu của thời đại. Tuy các mối liên hệ
được biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể theo điều kiện nhất định
song dù dưới hình thức nào thì chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ
biến nhất, chung nhất.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
• Phân tích
• Tổng hợp
• Thống kê
• Điều tra xã hội học
4. Ý nghĩa của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một xu thế khách quan. Trong hơn một thập
kỷ lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có gia tăng mạnh mẽ gắn hiền
với sự phát triển của khoa học - công nghệ sự gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu
như môi trường, dân số… Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra
yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược, hội nhập phù hợp
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không thể phát triển nếu
như không mở cửa hội nhập. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển
sang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc

đẩy mạnh tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là một vấn đề
quan trọng của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, hội nhập sẽ đón nhận được những
cơ hội, thuận lợi phát triển song kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với các thách


thức. Nhằm nâng cao tư duy hiểu biết vấn đề kinh tế nên, em đã chọn đề tài: "Cơ
hội và thách thức đối với Việt Nam”
5. Kết cấu
• Nội dung
• Kết luận
• Tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
Chương I: Một số khái niệm cơ bản
1.1.

Khái niệm hội nhập kinh tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các doanh nghiệp
tham gia vào một môi trường kinh doanh mang tính chất toàn cầu, khu vực với các
quy luật chung và có yếu tố cạnh tranh
1.2. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới,
từ thấp đến cao, từ quy mô hẹp đến quy mô ngày càng rộng lớn hơn, đặc biệt là
trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa
đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ. Trước đây, tính chất xã hội hóa của quá trình sản xuất chủ
yếu mới lan tỏa bên trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá
trình sản xuất, kinh doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế
quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế
quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có sự thay đổi đáng kể, dần

hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn lớn
cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Tình hình này càng đòi hỏi sự
tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bởi
lẽ, các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ
quản lý... Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm
cho tính chất xã hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc


gia, lan tỏa sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung. Mặt khác, tự do hóa
thương mại cũng đang trở thành xu hướng tất yếu, được xem là nhân tố quan trọng
thúc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng
cao mức sống của mọi quốc gia.
Chương II: Cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
2.1.NHỮNG CƠ HỘI CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM

2.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu
của VN
Nội dung của hội nhập là mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi Việt nam gia
nhập các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng
nhiều ưu đãi về thuế qua, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ
khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ
tính trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN kim ngạch xuất khẩu của ta sang
các nước thành viên tăng đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu VN-ASEAN tăng
trung bình 15,3% hàng năm. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được
tạo ra sẽ nhiều hơn.
Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của
người lao động.
2.1.2 . Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước
ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội

để thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn
và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta ra
làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước
ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có


hiệu quả. Mấy năm qua VN thu được kết quả khả quan trong thu hút vốn đầu tư
nước ngoài nhất là năm 2008 với con số kỷ lục FDI đạt 64 tỉ đôla vốn đăng ký và
11,5 tỉ đô la vốn giải ngân.
Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính của
VN, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ năm 1992 đã
đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng trong việc nâng cấp và
phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong năm 2009 tổng mức ODA cam kết dành
cho VN đạt 8,063.86 tỷ USD.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của VN:
trong những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và
đa phương các khoản nợ nước ngoài cũ của VN được giải quyết thông qua câu lạc
bộ Paris, London và đàm phám song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân
thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã
hội trong nước.
2.1.3 . Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp
thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý
Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến
của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế
quốc tế là con đường khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra
môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả. Qua đó mà các kỹ thuật và công nghệ
mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội đề chúng ta lựa chọn
kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kỹ thật công nghệ quốc gia.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,
các nhà kinh doanh được đào tạo trong và ngoài nước. Chỉ tính riêng trong các


công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30.000 lao động trực tiếp, 600 cán bộ
quản lý và 25.000 cán bộ kĩ thuật đã được đào tạo
2.1.4 . Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng
môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, Các chính sách kinh tế, cơ chế
quản lý ngày càng minh bạch hơn, nâng cao vị trí của VN trên trường quốc tế
Trước đây VN chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu.
Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế
giới, hiện Việt Nam cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như:
ASEAN, WTO, APEC……
Chính vì thế mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn định, uy tín của
Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tiến trình hội nhập của
nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các
thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải
thiện; thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của
nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh
2.1.5 . Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu nguồn lực nước ta
với các nước.
Với dân số hơn 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu
chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực sẽ lãng phí và kém hiệu
quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn nhân lực nước ta được
khai thông , giao lưu với các nước, thực hiện theo đường lối đối ngoại của Đảng:
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế”. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc sử dụng lao động

thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để


nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới và các sáng chế mà ta chưa
có.
2.2.NHỮNG THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.2.1. Sức ép cạnh tranh trên thị trường quốc tế

Thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ một nước đang phát triển
có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh
nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ
nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính
sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh. Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn
trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế ở 3 cấp độ: sản phẩm,
doanh nghiệp và quốc gia.
- Sản phẩm: cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn cả trong và ngoài nước với nhiều đối
thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. - Doanh nghiệp: đối mặt với nguy cơ rủi
ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng.
Do thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải cắt giảm
mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa
các lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo
hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp.... Ngoài
ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế tư nhân
cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,... Về
cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu
thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có
thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
2.2.2 Sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các
vùng miền của đất nước



Trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra
một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng
trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng
đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm
vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí
còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu
nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các
cam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân
số và lực lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh
tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách... Trong tình hình
như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự
phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát
triển của đất nước.
2.2.3. Sự ràng buộc về các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu
tư khi hội nhập quốc tế
Trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta
phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu
tư... chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình
đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào
sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ
và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế
giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế,
đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất
phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến
trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc
quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên
phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước

ta.


Thí dụ như khu vực nông nghiệp, nông dân, trong đàm phán khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới. Trung ương cũng đã chỉ đạo làm sao đối tượng là người nông
dân và một số mặt hàng nông sản phải được bảo hộ ở mức độ hợp lý. Chúng ta
cũng đã đạt được cam kết riêng đối với bốn mặt hàng trong nông nghiệp, có bảo hộ
bằng cách duy trì hạng ngạch nhập khẩu, được phép duy trì khoảng 10% tổng số
chi phí cho nông nghiệp để trợ cấp cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông
dân. các nước nghèo và đang phát triển một mặt thừa nhận toàn cầu hóa sẽ tiếp tục
là xu thế áp đảo trong thế kỷ thứ XXI, nhưng đòi hỏi toàn cầu hóa phải đem đến
những cơ may đồng đều cho tất cả các nước, trước hết phải xóa nợ cho các nước
nghèo, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nước nghèo và đang phát triển có
khả năng hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa.
Muốn vậy, các nước phát triển không được sử dụng các tổ chức và thể chế quốc tế
để áp đặt các luật chơi có lợi cho họ và tất nhiên bất lợi cho các nước nghèo và
đang phát triển, chẳng hạn các nước phát triển đòi hỏi mở cửa thị trường cho các
lĩnh vực mũi nhọn mà họ chiếm ưu thế trong khi khép lại hoặc bảo hộ các thị
trường của họ đối với các mặt hàng truyền thống hoặc còn chút ít ưu thế của các
nước nghèo và đang phát triển. Họ bảo hộ nền nông nghiệp của họ, hạn chế sự
thâm nhập các sản phẩm nông nghiệp của các nước nghèo và đang phát triển, buộc
các nước này phải cơ cấu lại nền kinh tế trong khi không chịu cơ cấu lại nền kinh
tế của họ.
Các nước phát triển chủ yếu đầu tư lẫn nhau, còn số vốn đầu tư vào các nước đang
phát triển rất ít, trong đó các nước nghèo lại càng nhận được phần ít hơn. Họ
chuyển giao cho các nước này những công nghệ cũ kỹ, nhà máy xí nghiệp gây ô
nhiễm để đi vào những ngành mũi nhọn, từ đó luôn giữ chìa khóa phát triển trong
tay họ. Còn các nước nghèo và đang phát triển lắm khi buộc phải vét cạn kiệt
nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình, hy sinh môi trường sinh thái hòng đổi lấy
sự phát triển có hạn. Họ đòi hỏi các nước đi vào nền kinh tế thị trường, hội nhập



vào tiến trình toàn cầu hóa, đẩy nhanh tư nhân hóa, dân chủ hóa theo kiểu phương
Tây nhằm tạo những tiền đề để chuyển hóa các chế độ chính trị mà họ không ưa.
Họ
rêu rao về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và dân chủ hóa, về sự "biện chứng
hỗn hợp giữa phát triển với hiện đại hóa và dân chủ hóa". Những nước nào chống
lại thì họ bao vây cấm vận. Điều họ muốn chính là làm thế nào nhào nặn tất cả các
quốc gia dân tộc trên thế giới này theo hình mẫu tư bản chủ nghĩa phương Tây của
họ.
2.3.NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ

2.3.1. Thành tựu
Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như ADB, IMF, WB, tham gia các tổ chức kinh tế,
thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương
(ASEAN, AFTA, ASEM, APEC, WTO…). Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của WTO vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán
gia nhập tổ chức này
Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá
tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định
thương mại song phương và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với
các nước và các tổ chức quốc tế…
Về xuất nhập khẩu: Hoạt động xuất nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ. Phát triển
xuất khẩu đã góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhất
là đối với khu vực nông thôn. Phát triển xuất khẩu cũng có tác dụng tích cực trong



việc nâng cao trình độ của người lao động và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về thu hút FDI, ODA và kiều hồi: Việt Nam không chỉ là nước nhận FDI, mà
còn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. FDI và ODA vào Việt Nam đã góp phần thúc
đẩy tăng GDP, tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được từ quá trình hội nhập KTQT đã nêu trên,
quá trình hội nhập của VN còn những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới
như sau:


Chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có giai đoạn, có khâu còn chưa



được triển khai đồng bộ, đầy đủ.
Trong một số trường hợp, hội nhập kinh tế quốc tế còn mang tính bị động, bị
lôi cuốn theo tình thế và yêu cầu chính trị, chưa có nghiên cứu cơ sở khoa học
và thực tiễn trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị của nền kinh tế nước ta



chưa cao.
Chưa có chiến lược rõ ràng, chủ động khi tham gia các Hiệp định FTA, chưa
chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản trong nước và chưa có được nỗ lực chung của
toàn xã hội để tận dụng tối đa các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
đem lại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu




quả và phát triển bền vững.
Các lợi ích quốc gia thu được từ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa tương
xứng với tiềm năng của đất nước. Các hạn chế này đã tác động bất ợi tới phát
triển kinh tế-xã hội trong thời gian qua và có thể gây tác động bất lợi lâu dài tới
nền kinh tế.

2.3.3. Bài học rút ra


Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần xuất phát từ yêu cầu bên trong của đất
nước, phù hợp với sự chuẩn bị và mức độ sẵn sàng của nền kinh tế và các doanh
nghiệp. Cần có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức và hành động, nhất là cần
xây dựng các căn cứ khoa học và thực tiễn để phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Cần đảm bảo tầm nhìn dài hạn về các mục tiêu kinh tế, chính trị ngoại giao và
mục tiêu chiến lược tổng thể trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đòi hỏi mức độ cam kết cao hơn cam kết
gia nhập WTO cả về phạm vi và mức độ. Cần chủ động xem xét xây dựng, điều
chỉnh khuôn khổ pháp lý trong nước để vừa phục vụ nhu cầu phát triển của đất
nước, vừa hỗ trợ và tận dụng tốt nhất các cơ hội mà tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ đem lại.
Cần chú trọng tăng cường chất lượng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập cũng
như nâng cao năng lực nghiên cứu và năng lực triển khai bao gồm cả quản trị.
Hội nhập kinh tế quốc tế cần gắn kết hơn với đổi mới kinh tế - xã hội trong nước
để nâng cao hiệu quả và tăng cường thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì mục tiêu phát triển
chung của đất nước, nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng.
Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội
nhập trong các lĩnh vực khác, nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, là
nội dung chính và quan trọng nhất của Hội nhập quốc tế.

Kết hợp chặt chẽ giữa Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập
tự chủ, chủ quyền và an ninh quốc phòng; giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái...;
Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ.
KẾT LUẬN


Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức
đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và
thách thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò
của nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động
lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự
cường,

đoàn

kết

của

toàn

dân

tộc.

Thực

tế


đã

chứng

tỏ

việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn
đú ng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay.
Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết
là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập
và phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1.Nguyễn Hồng Nga: Báo cáo Kinh tế thế giới và Việt Nam: Những điểm nhấn
năm 2012 và triển vọng 2013.
2.Thời báo kinh tế Sài Gòn online
3.Tài liệu môn học ,
- Yoshiteru Uramoto, Giám đốc ILO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương: Bình
luận về Hội nhập kinh tế đem lại lợi ích gì cho Việt Nam và Asean
- Bài bình luận của TS Lê Đăng Doanh “Cộng đồng Kinh tế Asean AEC: Cơ hội và
thách thức đối với Việt Nam




×