Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG mại BIÊN GIỚI GIỮA các TỈNH tây bắc với TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.95 KB, 49 trang )

NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN THƯƠNG MẠI BIÊN
GIỚI GIỮA CÁC TỈNH TÂY
BẮC VỚI TRUNG QUỐC

1


- Triển vọng hoạt động thương mại biên giới ở một số
tỉnh Tây Bắc Việt Nam
- Bối cảnh mới của quốc tế, Trung Quốc và Việt Nam
- Bối cảnh mới của quốc tế
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được để
ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn
mạnh:
Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức
độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu
cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Các công ty
xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình quốc tế
hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu
rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự tùy thuộc
lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày
cảng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do
đó con người và tri thức càng trở thanh nhân tố quyết định sự
phát triển của mỗi quốc gia.

2


Có thể thấy, tình hình quốc tế trong những năm tới sẽ có


những thay đổi nhanh, phức tạp và khó lường, Tuy nhiên, hòa
bình, hợp tác và phát triển sẽ tiếp tục là xu thế lớn. Bối cảnh
quốc tế tác động đến phát huy lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
trong xuất khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt –
Trung trong những năm tới như sau:
Thứ nhất, toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan,
tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cừa
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa có
cơ hội và vừa có thách thức. Phát triển hoạt động thương mại
biên giới Việt – Trung nói chung, thương mại biên giới tại
một số tỉnh khu vực Tây Bắc Việt Nam với Trung Quốc nói
riêng là một đòi hỏi không thể né tránh đối với cả Việt Nam
và Trung Quốc cũng như các nước trong khu vực và trên thế
giới trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Thứ hai, việc tham gia vào mạng lưới sản xuất, cũng ứng
và phân phối toàn cầu trở thành yêu cầu đối với các nền kinh
tế. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Sự
tăng cường liên kết thông qua các công ty xuyên quốc gia như
là một bộ phận của mạng lưới sản xuất, cung ứng và phân
3


phối toàn cầu. Các cửa khẩu biên giới Việt – Trung sẽ không
chỉ còn phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp Việt
Nam và Trung Quốc mà còn phục vụ cho các doanh nghiệp
xuyên quốc gia trong quá trình liên kết thị trường Việt Nam
và thị trường Trung Quốc với thị trường thế giới.
Thứ ba, các nước ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới
theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên

ba trụ cột: chính trị - an ninh, kinh tê, văn hóa – xã hội, đặc
biệt việc nỗ lực thúc đẩy liên kết nội khối để xây dựng Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015. Việc thiết lập các khu vực mậu
dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc,cũng như ASEAN với
các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và Niu Di Lân
sẽ xác định vai trò của ASEAN, trong đó có Việt Nam. Các
cửa khẩu biên giới Việt – Trung sẽ ngày càng khẳng định vai
trò cầu nối trung chuyển hàng hóa và dịch vụ giữa Trung
Quốc với Việt Nam nói riêng và giữa Trung Quốc với ASEAN
và các nước trong khu vực.
Thứ tư, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới đã tác động đến tất cả cá mặt của đời sống xã hội, là một
trong những yếu tố làm thay đổi về kinh tế và quan hệ quốc
tế. Công nghệ thông tin đã, đang và sẽ tiếp tục mở rộng hoạt
4


động thương mại biên giới Việt – Trung ra khởi phạm vi vùng
biên giới, trở thanh hoạt động thương mại giữa Việt Nam với
Trung Quốc cũng như hoạt động thương mại quốc tế.
Thứ năm, các tổ chức ngân hàng, tài chính quốc tế, các
nhà tài trợ quốc tế song phương và đa phương sẽ tiếp tục hỗ
trợ phát triển hạ tầng cho các nước đang phát triển và chậm
phát triển. Từ đó, tạo cơ hội phát triển hạ tầng vùng biên giới
Việt – Trung hiện vẫn còn đang ở trong tình trạng yếu kém,
không theo kịp tốc độ phát triển hoạt động thương mại biên
giới Việt – Trung trong thời gian vừa qua.
- Một số yếu tố thuộc về Trung Quốc.
Một là, “sự trỗi dậy nổi bật của Trung Quốc”. Theo nhiều
dự báo, đến năm 2050, thậm chí sớm hơn, Trung Quốc sẽ giải

quyết được các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, đẩy mạnh cải
cách chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng. Theo đó,
Trung Quốc sẽ tiến tới chia quyền lãnh đạo thế giới với Mỹ,
nhất là ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương và do vậy các
tranh chấp về tài nguyên, lãnh thổ sẽ gay gắt hơn;
Hai là, sự phát triển của Việt Nam. Cho đến nay, Việt
Nam vẫn đang loay hoay trong mô hình phát triển theo chiều
5


rộng. Mô hình này hiện không còn phù hợp. Do vậy, nếu Việt
Nam thực hiện thành công việc tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng thì Việt Nam vẫn có thể có cơ hội
bước vào thời kỳ phát triển mới với tốc độ tăng trưởng cao
hơn, tiềm lực kinh tế của đất nước gia tăng. Đây là cơ sở quan
trọng để Việt Nam có thể phát triển quan hệ Việt – Trung theo
hướng tích cực và hiệu quả. Còn nếu Việt Nam không chuyển
đổi mô hình tăng trưởng thành công thì Việt Nam sẽ rơi vào
thời kỳ tăng trưởng trì trệ với nhiều bất ổn và sẽ tác động tiêu
cực tới quan hệ Việt – Trung;
Ba là, sự xoay trục chiến lược của Mỹ sang Châu Á.
Bốn là, các vấn đề năng lượng, tài nguyên đang diễn ra
phức tạp theo hướng ngày càng cạn kiệt và giá cả gia tăng sẽ
tác động lớn tới Trung Quốc là nước sử dụng năng lượng và
tài nguyên hàng đầu thế giới. Do đó, Trung Quốc sẽ tiếp tục
săn lùng các nguồn tài nguyên khắp nơi, đã biến biển Đông –
nơi có dầu lửa, khí đốt thành nơi tranh chấp chủ quyền và có
thể sự tranh chấp này sẽ gia tăng.
- Tiến trình, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam.


6


- Với quyết tâm của 12 nước thành viên, trong đó có Việt
Nam đang xúc tiến đàm phán để sớm ký Hiệp định hợp tác
kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), theo đó một loạt các
Hiệp định về xuất xứ hàng hoá, mua sắm Chính phủ, lao động
và công đoàn,… sẽ tác động không nhỏ đến Việt Nam. Điều
này buộc Việt Nam phải có tư duy mới về lãnh đạo, điều
hành,… nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội khác.
- Năm 2018,Việt Nam sẽ phải thực hiện nền kinh tế thị
trường đầy đủ (không phải là phi thị trường như hiện nay).
Theo đó, Việt Nam phải cải cách mạnh theo hướng đồng tiền
nội địa phải tiến tới tự do chuyển đổi; Tiền lương, tiền công
do chủ, thợ thoả thuận quyết định, giá cả hàng hoá, dịch vụ do
thị trường điều tiết; Quyền kinh doanh của doanh nghiệp
trong và ngoài nước tiến tới như nhau; Nguồn lực do thị
trường phân bổ; Thương mại và đầu tư tiến tới tự do hoá hoàn
toàn. Đây là những vấn đề không dễ đáp ứng và thực hiện đối
với Việt Nam.
- Năm 2020, Việt Nam phải trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.

7


- Hiện nay, đang xúc tiến hoàn tất đàm phán Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam – EU (Ngày 13/10/2014, theo
quyết tâm của Chủ tịch Châu Âu và Thủ tướng Nguyễn Tấn

Dũng nhân chuyến thăm chính thức Châu Âu đã ra tuyên bố
chung Việt Nam – EU và định hướng sẽ ký Hiệp định này vào
vài tháng tới); Hai nước Việt Nam và Ấn độ (nhân chuyến
thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Ấn độ ba ngày 2830/10/2014, hai Thủ tướng tuyên bố quyết tâm hai quốc gia sẽ
nâng hợp tác chiến lược. Ngày 10/12/2014, Việt Nam về cơ
bản đã hoàn tất việc đàm phán Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam – Hàn quốc và ngày 15/12/2014 tuyên bố chung kết
thúc đàm phán FTA giữa Việt Nam và liên minh Hải quan LB
Nga, Blarut và Kazăctan. Song song với việc thực hiện các
vấn đề này, Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiều Hiệp định song
phương và đa phương khác đã ký tham gia. Tất cả các định
hướng hoạt động này đang tiếp tục tác động đến Việt Nam và
nếu chúng ta không thay đổi tư duy, không tích cực cải cách
mạnh mẽ, hiệu quả hơn thì sẽ bị thua thiệt lớn trong các cuộc
chơi khu vực và toàn cầu và như vậy sẽ không chỉ mất cơ hội
mà thách thức đối mặt ngày càng lớn.

8


- Định hướng chính sách phát triển thương mại Việt –
Trung trong bối cảnh mới.
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của các hiệp
định thương mại tự do với các đối tác lớn trên thế giới, như
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), tham gia vào
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... Nếu được tận dụng tốt,
các hiệp định thương mại tự do không chỉ mở ra các cơ hội
phát triển mà còn là cơ hội để Việt Nam giảm bớt và thoát
khỏi tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc,

bảo đảm sự phát triển cân bằng và bền vững của nền kinh tế
Việt Nam. Muốn vậy, các định hướng chính sách hợp tác phải
hướng vào:
Thứ nhất, phát triển quan hệ thương mại Việt -Trung
theo hướng cân bằng kim ngạch XNK. Hiện nay, cán cân
thương mại ngày càng nghiêng về hướng có lợi cho Trung
Quốc. Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, nhập siêu của
Việt Nam từ quốc gia này liên tục gia tăng, từ mức 0,19 tỷ
USD và 2,67 tỷ USD trong các năm 2001 và 2005, lên 16,4 tỷ
USD năm 2012 và 24,6 tỷ USD năm 2013. Năm 2014 và
2015, các con số tương ứng là 28,8 tỷ USD và 32,3 tỷ USD.
9


Trong các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc,
bình quân có khoảng 30 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100
triệu USD, trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ
USD (lớn nhất là máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; tiếp
đến là điện thoại các loại và phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện; vải; sắt thép; xăng dầu). Điều đáng ngạc
nhiên là, ngay cả đối với mặt hàng rau, củ, quả, Trung Quốc
cũng xuất sang Việt Nam số lượng gấp 3 lần mức mà nước
này nhập từ Việt Nam. Như vậy Chính phủ Việt Nam cần chủ
động đàm phán với Trung Quốc về việc cân bằng cán cân
thương mại này theo hướng Trung Quốc sẽ phải gia tăng nhập
khẩu thêm các hàng nông sản, hàng công nghiệp của Việt
Nam. Đồng thời, Trung Quốc tăng đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam để sản xuất và xuất khẩu hàng hoá trở lại Trung Quốc,
điều chỉnh tỷ giá theo hướng có lợi cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam sang Trung Quốc. Cần thoả thuận với Trung Quốc

về các giải pháp khắc phục các hoạt động thương mại không
lành mạnh (buôn gian bán lận, hàng giả, hàng nhái, hàng kém
chất lượng, hàng rau quả, thực phẩm có chất độc hại,..)
Thứ hai, khuyến khích FDI của Trung Quốc vào Việt
Nam không phải theo hướng khai thác thị trường Việt Nam,
10


mà là theo hướng sản xuất xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu trở
lại thị trường Trung Quốc với hơn 1,3 tỷ dân. Điều chỉnh luật
đấu thầu theo hướng chỉ đấu thầu quốc tế những dự án mà
doanh nghiệp Việt Nam không thể làm được. Khi đấu thầu
quốc tế, tiêu chí chất lượng công nghệ, tiến độ phải được đề
cao.
Thứ ba, về khả năng quan hệ Việt – Trung hoàn toàn hữu
hảo, hợp tác toàn diện với 16 chữ và mối quan hệ 4 tốt, từ nay
đến 2020 sẽ khó thuận buồm xuôi gió. Bởi ý đồ chiến lược
của Trung Quốc là mở rộng lãnh thổ, lãnh hải xuống Biển
Đông và trên thực tế, Trung Quốc đã lấn chiếm quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam và một số đảo ở Trường Sa. Tinh
thần dân tộc nước lớn, chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang nổi
lên ở Trung Quốc. Do vậy, điều có thể dự báo là Trung Quốc
sẽ tiếp tục có những hành xử rắn, kể cả chiếm đảo song song
với việc thúc đẩy quan hệ với Việt Nam. Thích ứng với bối
cảnh, điều kiện mới, Việt Nam vẫn phải củng cố, phát triển
quan hệ với Trung Quốc, vẫn giữ nguyên quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện với 16 chữ vàng và quan hệ 4 tốt với
Trung Quốc. Đồng thời, Việt Nam cần xây dựng quan hệ đối
tác toàn diện với Mỹ và nên ở mức ngang tầm quan hệ với
11



Trung Quốc; Phát triển mạnh quan hệ đối tác chiến lược với
các thành viên Hội đồng bảo an Liên hợp quốc như Nga, Anh,
Pháp cũng nên ở mức ngang với quan hệ với Trung Quốc và
Mỹ. Xúc tiến thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với các nước
lớn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đức,… Chỉ trên cơ sở phát triển
quan hệ đối tác chiến lược, Việt Nam mới có nhiều thuận lợi
và ít rủi ro hơn trong giải quyết tranh chấp và phát triển buôn
bán song phương.
Thứ tư, Việt Nam cần thực hiện mạnh mẽ và quyết liệt
cải cách bên trong, đặc biệt là về thể chế và tái cấu trúc nền
kinh tế và các ngành kinh tế, trong đó có ngành thương mại
phải thay đổi để phát triển thị trường, đặc biệt là tận dụng tốt
các thị trường là các nước thành viên của WTO, của các FTA
và Hiệp định TPP. Tăng cường thu hút đầu tư của các nước
trong Hiệp định TPP và FTA vào sản xuất và xuất khẩu và chú
trọng hơn đối với ngành nông, lâm, thuỷ sản nhằm tăng nhanh
giá trị gia tăng của ngành này. Đồng thời, tăng cường thu hút
FDI của các nước này vào phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm
tạo đà, động lực mới cho Việt Nam phát triển hiệu quả và bền
vững.

12


Thứ năm, tăng cường và nâng cao hiệu quả liên kết hợp
tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp của
Trung Quốc và các nước khác trong sản xuất và xuất khẩu
nhằm thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi nhanh từ mô hình gia

công, lắp ráp theo mô đun sang mô hình tích hợp sản xuất và
phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ trong chế biến hàng nông,
lâm, thuỷ sản, công nghiệp dệt may, ôtô, xe máy, điện tử,…
và do đó sẽ hướng tới giảm nhập siêu từ Trung Quốc trong
tương lai gần.
- Cơ hội cho các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trong phát
triển thương mại biên giới.
Việt Nam thực hiện hoạt động xuất khẩu qua các cửa
khẩu biên giới Việt – Trung có thể được chia thành 03 loại
hình sau:
- Thứ nhất, thông qua 9 cặp cửa khẩu quốc tế và cửa
khẩu chính. Đây là các cặp cửa khẩu chính thức được mở theo
Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu ngày
18/11/2009. Các cặp cửa khẩu này được Việt Nam và Trung
Quốc bố trí đầy đủ các lực lượng chức năng quản lý Nhà nước
chuyên ngành hải quan, biên phòng, kiểm dịch của mỗi bên.

13


- Thứ hai, thông qua 11 cặp cửa khẩu phụ, do địa
phương hai bên trao đổi để mở ra cho mọi người, phương tiện
giao thông vận tải, hàng hoá, vật phẩm qua lại.
- Thứ ba, 7 lối mở biên giới: không có sự trao đổi thoả
thuận hai bên về cửa khẩu. Phía Việt Nam đơn phương cho
phép hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đi qua nhưng phía
Trung Quốc chỉ coi là điểm hoạt động mua bán, trao đổi của
cư dân biên giới. Phía Việt Nam đã bố trí đầy đủ lực lượng
chức năng quản lý Nhà nước chuyên ngành hải quan, biên
phòng, kiểm dịch và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho

quản lý hoạt động XNK. Còn phía Trung Quốc chỉ bố trí lực
lượng biên phòng và chưa có cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho quản
lý hoạt động XNK.
Trong những điều kiện, bối cảnh mới và những chính
sách mới của Việt Nam trong phát triển quan hệ thương mại
với Trung Quốc, các tỉnh biên giới Tây Bắc Việt Nam cần
nắm bắt và phát huy tốt một số cơ hội sau:
Một là, đẩy nhanh tái cấu trúc các ngành kinh tế trong
tỉnh nhằm tạo đà mới cho thương mại phát triển. Để tham gia
các FTA và Hiệp định TPP, Việt Nam phải hội nhập và mở

14


cửa mạnh mẽ. Theo đó, Chính phủ rất quyết liệt thực hiện các
cải cách kinh tế và các tỉnh Tây Bắc không phải là ngoại lệ và
cần tận dụng tốt các cơ hội mới để phát triển.
+ Đối với ngành công nghiệp, cần đánh giá lại lợi thế và
hạn chế của các ngành công nghiệp khi tham gia thương mại
quốc tế (trong đó có với Trung Quốc); Điều chỉnh lại chiến
lược tổng thể ngành, vùng đối với công nghiệp từ góc độ hợp
tác và cạnh tranh, trước hết đối với Trung Quốc; Mở rộng
quyền tự do đầu tư, kinh doanh, thực sự bình đẳng cho cả
doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghiệp có vốn ĐTTTNN; Điều chỉnh đầu tư của tỉnh chỉ tập
trung vào lĩnh vực then chốt, thiết yếu; Phân bổ lại các nguồn
lực cho sản phẩm có lợi thế, thu hẹp/loại bỏ các sản phẩm
kém cạnh tranh; Coi trọng yêu cầu hiệu quả, chất lượng, trình
độ công nghệ, năng suất lao động,…
+ Đối với ngành nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp)

trên cơ sở đánh giá rà soát lại lợi thế và hạn chế của ngành khi
tham gia hợp tác thương mại quốc tế, trong đó có Trung
Quốc, việc tái cơ cấu lại ngành cần gắn phát triển nông nghiệp
với phát triển nông thôn, với công nghiệp, dịch vụ, khoa học
công nghệ, môi trường; Chuyển đổi nông nghiệp theo hướng
15


đa dạng hoá, phát triển bền vững, coi trọng chất lượng và tiêu
chuẩn sản phẩm, năng suất lao động và giá trị gia tăng.
+ Đối với ngành dịch vụ, trên cơ sở đánh giá lại lợi thế,
hạn chế, điều chỉnh lại chiến lược phát triển ngành dịch vụ,
chú trọng phát triển các dịch vụ nhằm tạo điều kiện tốt nhất
cho hoạt động XNK với Trung Quốc qua các cửa khẩu biên
giới đất liền, đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ (chú
trọng chất lượng).
Hai là, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi để thu
hút các nhà đầu tư kể cả trong và ngoài nước vào sản xuất và
xuất khẩu hàng hoá tại các tỉnh Tây Bắc. Cần nâng cao hiệu
quả liên kết hợp tác với các nhà đầu tư Trung Quốc trong sản
xuất và xuất khẩu, trong đó có xuất khẩu sang Trung Quốc.
Chỉ có như vậy mới giảm thiểu và tránh được rủi ro khi làm
ăn với thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, cần có cơ chế,
chính sách thích hợp để thu hút và tận dụng được tiềm lực của
các nhà đầu tư từ các quốc gia phát triển như Mỹ, Úc,
Niuzilân, EU, Nhật Bản,.. đầu tư vào làm ăn với các tỉnh Tây
Bắc. Đây chính là việc tận dụng các cơ hội của các Hiệp định
TPP và FTA mà Việt Nam sắp tham gia và có hiệu lực.

16



Ba là, tăng cường cơ chế hợp tác địa phương.
Hợp tác địa phương hai bên biên giới đóng vai trò quan
trọng trong XNK hàng hoá qua các cửa khẩu biên giới đất
liền. Do Trung Quốc phân cấp mạnh cho chính quyền nhân
dân khu tự trị dân tộc Choang- Quảng Tây và tỉnh Vân Nam,
nên các địa phương Trung Quốc được chủ động quyết định
nhiều vấn đề trong quản lý và điều hành XNK hàng hoá qua
cửa khẩu biên giới Việt Trung. Do đó, các tỉnh Tây Bắc hợp
tác với nhau để mở rộng hợp tác với khu tự trị Choang –
Quảng Tây và tỉnh Vân Nam – Trung Quốc. Chỉ có như vậy
mới có thể giúp từng tỉnh phát huy được lợi thế và sử dụng
được sức mạnh tổng hợp của các tỉnh và hạn chế thách thức
nhằm phát triển thương mại một cách bền vững và hiệu quả.
Bốn là, cơ hội trong đầu tư nâng cấp và phát triển các
khu kinh tế cửa khẩu đã được phê duyệt, lựa chọn thu hút đầu
tư vào phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế biến các
sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm phục vụ xuất khẩu.
- Mục tiêu và định hướng phát triển thương mại biên
giới các tỉnh Tây Bắc thời kỳ tới

17


- Quan điểm phát triển thương mại biên giới tại các
tỉnh Tây Bắc Việt Nam
- Các quan điểm của Trung ương Đảng, Chính phủ về
hợp tác thương mại với Trung Quốc.
- Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại số 1 và thị

trường xuất khẩu chính của hàng hóa Việt Nam.
- Mục tiêu phát triển thương mại biên giới các tỉnh
Tây Bắc
- Xây dựng đường biên giới ổn định, hòa bình, hữu nghị;
hình thành các khu vực dân cư dọc theo tuyến biên giới. Đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực biên giới;
xây dựng hạ tầng cửa khẩu, hạ tầng thương mại để thu hút và
đáp ứng được các loại hình xuất nhập khẩu.
- Cải cách thủ tục hành chính, thu hút đầu tư; thúc đẩy
kim ngạch xuất khẩu đến năm 2020; đẩy mạnh xuất khẩu gắn
công tác chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại để
hạn chế nhập siêu tiến tới cân bằng cán cân thương mại.
- Định hướng phát triển thương mại biên giới các tỉnh
Tây Bắc Việt Nam
18


Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển tổng thể thương
mại tại các tỉnh Tây Bắc đến năm 2020, định hướng đến năm
2030 phù hợp với các quy hoạch trung của khu vực đã được
Thủ tướng Chính phủ và các Bộ phê duyệt.
* Định hướng phát triển tổng thể:
- Phấn đấu đến năm 2020, hoạt động thương mại biên
giới trở thành một lĩnh vực kinh tế chủ lực, có tính chất thúc
đẩy các ngành, lĩnh vực khác của địa phương phát triển.
- Hạ tầng cửa khẩu, thương mại biên giới được đầu tư
xây dựng đồng bộ; hình thành các khu thương mại, trung tâm
dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa qua biên giới; hợp tác phát
triển các khu thương mại qua biên giới tại các khu vực có đủ
điều kiện.

- Khai thác tối đa các ưu đãi về thuế quan tại hiệp định
thương mại ASEAN-Trung Quốc; Hiệp định về mua bán hàng
hóa khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc để đẩy mạnh
xuất khẩu gắn với chống buôn lậu, hàng giả và gian lận
thương mại qua biên giới nhằm hạn chế nhập siêu tiến tới cân
bằng cán cân thương mại.

19


* Định hướng phát triển giai đoạn 2010-2020:
- Tuân thủ lợi thế so sánh và sự hợp tác phân công lao
động giữa hai địa phương để xác định nguyên tắc phát triển
thương mại biên giới. Chủ động trao đổi, hội đàm với phía
Trung Quốc để tăng cường sự hiểu biết và tạo sự đồng thuận
trong lĩnh vực hợp tác thương mại biên giới.
- Đề xuất, xây dựng và ban hành các cơ chế quản lý,
điều tiết linh hoạt có tính đặc thù đối với loại hình thương mại
biên giới. Đề nghị Quốc hội có cơ chế cho phép địa phương
được sử dụng một tỷ lệ nhất định từ nguồn thu phí, thuế xuất
nhập khẩu để đầu tư hạ tầng thương mại biên giới.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế
tham gia vào lĩnh vực đầu tư và kinh doanh thương mại, xuất
nhập khẩu hàng hóa qua biên giới; hộ trợ các chủ thể kinh
doanh tại biên giới nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn
về kinh doanh xuất nhập khẩu phù hợp với các thông lệ quốc
tế
- Các giải pháp thúc đẩy hoạt động thương mại biên
giới ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam với Trung Quốc


20


- Nhóm giải pháp về thể chế
- Nhóm giải pháp vĩ mô
Trước hết cần có sự thống nhất rằng, thương mại biên
giới là hoạt động thương mại đặc thù do đó phải có các quy
định riêng. Các điều khoản của Luật Thương mại 2005 không
có và không xác định thế nào là thương mại biên giới mà tại
Điều 4 chỉ xác định “ Hoạt động thương mại phải tuân theo
Luật thương mại và pháp luật có liên quan. Hoạt động thương
mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy
định của luật đó. Hoạt động thương mại không được quy định
trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy
định của Bộ luật dân sự”. Vì lý do đó, Chính Phủ đã ban hành
Quyết định số 254/QD-TTg ngày 7/11/2006 về quản lý hoạt
động thương mại biên giới với các nước có chung biên giới.
Tại Điều 1 của Quyết định đã xác định có 3 loại hoạt động
thương mại thuộc thương mại biên giới gồm: (1)Hoạt động
mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới; (2)Buôn bán
hàng hóa tại chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh
tế cửa khẩu; (3) Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên
giới không theo các phương thức, theo thông lệ buôn bán

21


quốc tế đã thỏa thuận trong Hiệp định thương mại song
phương.
Trên thực tế, hoạt động thương mại biên giới không chỉ

được quy định tại các Quyết định số 254/QĐ-TTg và Quyết
định số 139/QĐ-TTg mà còn phải chịu sự ràng buộc bởi các
quy định tại Nghị định và Quyết định khác có liên quan của
Chính phủ và Thủ tướng chính phủ. Nhiều quy định chồng
chéo, chưa rõ ràng, khó hiểu hoặc hiểu theo nhiều cách khác
nhau dẫn đến khó khăn trong quản lý và điều hành hoạt động
thương mại biên giới. Do vậy,
Thứ nhất: cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để
xây dựng Nghị định của Chính phủ hoặc cao hơn là Pháp lệnh
về Thương mại biên giới cho phù hợp với thực tế và tính đặc
thù của thương mại biên giới. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan
trọng cho công tác quản lý, điều hành hoạt động thương mại
biên giới của cả nước nói chung và các tỉnh biên giới Tây Bắc
nói riêng.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Nghị định có thể
bao gồm các tổ chức, cá nhân tham gia quản lý và hoạt động
thương mại biên giới. Còn phạm vi điều chỉnh có thể bao gồm

22


mọi hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu
biên giới đất liền; hoạt động dịch vụ thương mại tại các khu
vực cửa khẩu; và hoạt động mua, bán, trao đổi hàng hóa của
cư dân biên giới. Ngoài ra, một số nội dung cần phải quy định
tại Nghị định để phù hợp với tình hình thực tế:
(i) phải xây dựng một cơ chế quản lý và điều hành linh
hoạt hoạt động thương mại biên giới, bao gồm các biện pháp
cụ thể phân cấp quản lý và điều hành thương mại biên giới
giữa các Bộ, ngành Trung ương và phân cấp nhiều hơn cho

UBND các tỉnh biên giới;
(ii) cần phải có những quy định về quản lý đối với
thương nhân và mặt hàng xuất nhập khẩu qua biên giới đất
liền để đảm bảo điều phối linh hoạt giữa các khu vực cửa
khẩu khác nhau. Xây dựng một hệ thống phân phối hàng hóa
từ vùng sản xuất đến khu vực cửa khẩu, xuất khẩu sang các
nước có chung biên giới và ngược lại kiểm soát hệ thống phân
phối hàng hóa nhập khẩu từ cửa khẩu.
(iii) quy định về tiền tệ, thanh toán, chính sách thuế, phí
và lệ phí trong thương mại biên giới để đảm bảo yêu cầu phát
triển hiện nay.

23


(iv) quy định về cửa khẩu, địa điểm xuất – nhập hàng
hóa qua biên giới. Đồng thời, quản lý và điều hành hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hóa qua chợ biên giới, chợ cửa khẩu,
chợ trong khu kinh tế cửa khẩu và hoạt động mua, bán, trao
đổi hàng hóa của cư dân biên giới.
(v) quy định về chất lượng hàng hóa, kiểm tra chất lượng
và kiểm dịch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với
hàng hóa xuất - nhập khẩu qua biên giới.
(vi) quy định về trách nhiệm và thẩm quyền của Ban chỉ
đạo thương mại biên giới trong điều hành hoạt động thương
mại biên giới.
Thứ hai là phải có chiến lược phát triển thương mại biên
giới của Việt Nam với Trung Quốc
Thời gian qua, để phát triển thương mại biên giới chúng
ta đã triển khai xây dựng các quy hoạch phát triển thương mại

giữa các tỉnh có chung đường biên giới với Trung Quốc. Tuy
nhiên, các bản quy hoạch chỉ được Bộ trưởng hoặc Chủ tịch
UBND tỉnh phê duyệt nên giá trị pháp lý có hạn và thiếu các
nguồn lực để thực hiện. Hơn nữa, nội dung và tầm nhìn của
các quy hoạch đã được phê duyệt chưa giải quyết được những
24


vấn đề mang tính tổng thể và rộng lớn ở khu vực biên giới
Việt- Trung. Do chưa có chiến lược, Việt Nam còn bị động và
lúng túng trong việc xây dựng và thực hiện chính sách, cũng
như các cơ chế quản lý và điều hành hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt – Trung.
Xây dựng chiến lược phát triển thương mại biên giới của
Việt nam với Trung quốc là rất cần thiết và có ý nghĩa lâu
dài, kể cả với cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến
địa phương cũng như những thương nhân tham gia hoạt động
thương mại biên giới. Trên cơ sở có một chiến lược phát triển
được Thủ tướng chính phủ phê duyệt sẽ hạn chế được việc
hoạch định chính sách thiếu động bộ, hạn chế tình trạng phân
tán, chia cắt, điều hành thiếu sự thống nhất như hiện nay.
Chiến lược được phê duyệt sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để
các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh của Việt Nam
triển khai các chính sách và giải pháp tạo điều kiện thuận lợi
về xây dựng cơ sở hạ tầng, đàm phán mở rộng thị trường
Trung Quốc, phát triển dịch vụ hỗ trợ thương mại tại cửa
khẩu, khuyến khích và hỗ trợ thương nhân tham gia hoạt động
thương mại biên giới một cách thuận lợi và ổn định, khai thác

25



×