Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

NHỮNG ĐƯỜNG lối ĐỊNH HƯỚNG và TÌNH HÌNH THỰC HIỆN của VIỆT NAM về CHÍNH SÁCH đảm bảo AN NINH LƯƠNG THỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.1 KB, 75 trang )

NHỮNG ĐƯỜNG LỐI ĐỊNH
HƯỚNG VÀ TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN CỦA VIỆT NAM VỀ CHÍNH
SÁCH ĐẢM BẢO AN NINH
LƯƠNG THỰC


- Các chính sách về đảm bảo ANLT của Việt Nam
Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn từ lâu đã là
mối quan tâm lớn của Đảng và chính phủ. Phát triển sản xuất
nông nghiệp nhằm phục vụ đời sống và phục vụ các ngành
sản xuất khác đã được chúng ta nhấn mạnh trong các đường
lối chỉ đạo của chúng ta qua các thời kỳ. Tuy nhiên, trước đây,
chúng ta chú trọng cho phát triển nông nghiệp chung, ý niệm
về an ninh lương thực của Việt Nam còn khá ít ỏi. Trong
khuôn khổ nghiên cứu này chỉ tập trung phân tích các chính
sách đảm bảo an ninh lương thực ở Việt Nam từ sau Đổi mới
năm 1986 đến nay.
Giai đoạn sau khi đất nước thống nhất từ 1976 – 1986 là
giai đoạn những sai lầm của phương thức quản lý kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bị đẩy lên cao nhất. Sản xuất tập thể làm
cho quyền lợi và trách nhiệm của người sản xuất không còn
gắn chặt với nhau. Nông dân không còn thiết tha với ruộng
đất do công sức lao động và thành quả sản xuất bị tách rời,
sản xuất theo kiểu đối phó, năng suất lúa năm sau tuột hơn
năm trước. Nạn đói diễn ra thường xuyên.Chế độ phân phối
theo ngày công lao động và phân chia sản phẩm cứng ngắc


theo tem phiếu định lượng của nhà nước đã góp phần làm
nước ta đi vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Giai đoạn


này đã xuất hiện mầm mống đầu tiên của “khoán hộ” (bắt đầu
lần đầu tiên vào năm 1960 ở Vĩnh Phú) mở đường cho việc tư
nhân hóa sản xuất, giao quyền tự chủ sản xuất cho các đơn vị
hộ nông dân và được khẳng định chính thức bằng Chỉ thị 100CT/TW năm 1981. Chỉ thị này đã giúp giải phóng sức sản
xuất, gắn lao động với kết quả cuối cùng và đưa nông nghiệp
dần phát triển. Sản lượng lương thực giai đoạn 1981 – 1985
bình quân đạt 17 triệu tấn, thu nhập bình quân hàng năm tăng
6,4%.
Giai đoạn 1986 – 1993: Bước vào quá trình Đổi mới,
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã công nhận cơ chế quản
lý tập trung không còn phù hợp. Tháng tư năm 1988, Nghị
quyết 10/1988/NQ-TW về đổi mới quản lý nông nghiệp hay
còn gọi là “Khoán 10” đã chuyển trọng tâm của nông nghiệp
và phát triển nông thôn từ các hợp tác xã sang hộ nông dân.
Chính sách này đã góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sản
xuất tư nhân. Người nông dân được gắn chặt quyền lợi với
công sức sản xuất của mình nên sản lượng lương thực gia tăng
nhanh chóng. Một loạt các cải cách về giá và mở cửa thị


trường tạo điều kiện phát triển ngành nông nghiệp, sản lượng
lương thực tăng trưởng vượt bậc. Năm 1987 và năm 1988
chúng ta từng phải nhập khẩu hơn 460.000 tấn lương thực để
đáp ứng nhu cầu trong nước thì đến năm 1989 Việt Nam lần
đầu tiên trở thành nước xuất khẩu gạo với 1,37 triệu tấn (Theo
Hiệp hội lương thực Việt Nam). Luật Đất đai được ra đời năm
1993 và chính thức có hiệu lực năm 1994, giao quyền cho hộ
nông dân sử dụng, hộ nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Luật
này đã tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần. Sản lượng lương thực không chỉ đủ đáp ứng nhu
cầu trong nước mà còn dư thừa cho xuất khẩu, đây là cơ sở
quan trọng nhằm phân bổ lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi và
thực hiện chuyên canh theo lợi thế từng địa phương.
Giai đoạn 1993 – 2000: Trong giai đoạn này, các chính
sách được đưa ra có trọng tâm là khuyến khích mở rộng sản
xuất nông nghiệp. Việc bãi bỏ các hợp tác xã đã tạo ra những
khoảng trống, đòi hỏi phải có những mô hình khác nhằm cung
cấp dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, dẫn đến thành lập hệ thống
khuyến nông quốc gia và các cơ sở tín dụng của nông dân.


Các rào cản thương mại cũng được dỡ bở dần, nông dân cũng
không còn phải nộp nghĩa vụ cho nhà nước theo hạn ngạch.
Giai đoạn 2000 đến nay: Các chính sách của nhà nước
đã hướng tập trung hơn vào việc nâng cao năng suất, chất
lượng, giá trị sản xuất nông sản nói chung và sản xuất lương
thực nói riêng. Giai đoạn này có sự ban hành của hai nghị
quyết quan trọng trong nông nghiệp và sản xuất lương thực.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị
quyết nhằm định hướng xây dựng nền nông nghiệp hiện đại,
tăng cường cơ sở hạ tầng cho nông thôn và cải thiện đời sống
của người nông dân. Năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 63/2009/NQ-CP nhằm đảm bảo ANLT quốc gia bằng
cách đảm bảo về khả năng cung cấp đầy đủ lương thực đặc
biệt là gạo, đây là văn bản chính sách đầu tiên cho mục tiêu
này.
Nhờ thực hiện các biện pháp chính sách về đảm bảo
ANLT, giai đoạn từ 1986 đến nay, chúng ta liên tục thu được

những kết quả tốt về nông nghiệp nói chung và ANLT nói
riêng.


Về tổng diện tích canh tác lương thực có xu hướng tăng
lên, từ 6.477 nghìn ha năm 1990 lên 8.438 nghìn ha năm 2004
và lên 8.996 năm 2014 (tăng thêm 2.519 ha từ năm 1990 đến
2014). Diện tích canh tác lúa tăng từ 6.043 ha năm 1990 lên
7.816 năm 2014 (tăng 1.773 nghìn ha), diện tích canh tác ngô
tăng từ 432 nghìn năm 1990 lên 1.179 (tăng 747 nghìn ha).
Sản lượng lương thực chung cũng tăng thêm 30.281 nghìn tấn
từ 19.898 nghìn tấn vào năm 1990 lên 50.179 nghìn tấn vào
năm 2014, riêng sản lượng lúa tăng 25.750 nghìn tấn (gấp
2,34 lần năm 1990).
Việc đảm bảo ANLT quốc gia được thực hiện chủ yếu
thông qua việc phát triển ngành nông nghiệp sản xuất lương
thực và việc phân phối lương thực đến tay người dân thông
qua các chính sách bộ phận. Mục tiêu của các chính sách bộ
phận này được đưa ra trong một số văn bản, kế hoạch. Mỗi
chính sách bộ phận đều đưa ra các mục tiêu và hành động cụ
thể để đạt được mục tiêu này. Nếu xét theo yêu cầu việc đảm
bảo ANLT là nhằm “đảm bảo mọi người, trong mọi thời điểm
đều có thể tiếp dận dễ dàng với nguồn lương thực an toàn
nhằm đảm bảo sống và sinh hoạt bình thường thì có thể phân


loại các chính sách dành cho ANLT là gồm các nhóm chính
sách sau:
(1)


Nhóm chính sách về đảm bảo khả năng cung ứng lương

-

thực gồm:
Chính sách Quy hoạch đất đai, diện tích, chủng loại gieo

(2)

-

(3)
(4)

trồng cây lương thực;
Chính sách hỗ trợ sản xuất lương thực.
Nhóm chính sách nhằm tăng cường khả năng tiếp cận
lương thực gồm:
Chính sách lao động - việc làm, tăng thu nhập;
Các chính sách hỗ trợ, trợ cấp lương thực và trợ cấp thu
nhập.
Xây dựng kênh phân phối lương thực.
Nhóm chính sách tăng cường vệ sinh an toàn thực phẩm.
Các chính sách đối phó khi xảy ra khủng hoảng lương
thực.

- Nhóm chính sách về đảm bảo khả năng cung ứng lương
thực
- Chính sách quy hoạch đất đai, diện tích, chủng loại gieo
trồng cây lương thực

Trong nông nghiệp, có thể nói đất là yếu tố quan trọng
hàng đầu do đó rất được sự quan tâm của chính phủ Việt
Nam. Nội dung cơ bản của chính sách đất nông nghiệp của


Nhà nước Việt Nam hiện nay thể hiện qua chế độ sở hữu đất
nông nghiệp, chính sách giá đất của Nhà nước, chính sách tích
tụ và tập trung đất nông nghiệp, chính sách thuế đất nông
nghiệp và chính sách bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp.
Chế độ sở hữu đất đai của Việt Nam chia ra làm quyền sở hữu
và quyền sử dụng. Quyền sở hữu đất thuộc về Nhà nước (đại
diện cho toàn dân). Nhà nước vừa đóng vai trò cơ quan quản
lý hành chính công đối với đất đai, vừa đóng vai trò chủ sở
hữu đất, có quyền quyết định thu hồi quyền sử dụng đất của
nông dân, chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp và giao
đất nông nghiệp đã được chuyển mục đích sử dụng cho tổ
chức và cá nhân không phải là nông dân, quy định giá thu hồi
đất nông nghiệp. Quyền sử dụng đất nông nghiệp thuộc về
người nông dân nhưng chỉ giới hạn trong việc sử dụng đất cho
mục đích nông nghiệp, người nông dân không được tự ý
chuyển mục đích sử dụng đất sang lĩnh vực khác. Mục tiêu
của các chính này này nhằm đảm bảo việc sử dụng hợp lý và
quản lý đất đai nói chung. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhà
nước ban hành các quy định về quy hoạch sử dụng nguồn đất.
Có thể kể đến các văn bản sau:


Luật Đất đai: Thời kỳ sau năm 1986, Luật đất đai được
ban hành lần đầu tiên năm 1987 xác định: “Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước

giao đất cho các nông trường, lâm trường, xí nghiệp, đơn vị
vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá
nhân để sử dụng ổn định, lâu dài”. Năm 1993, Luật Đất đai
mới thay thế cho Luật Đất đai năm 1987 quy định “đất đai
thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất thuộc về người sử
dụng đất”. Năm 2003, Luật Đất đai 1993 được thay thế bằng
Luật Đất đai 2003, kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm
1993 và mở rộng hơn quyền cho người sử dụng đất nông
nghiệp là hộ gia đình và cá nhân gồm các vấn đề như thời hạn
sử dụng đất đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm là 20
năm, đối với đất trồng cây lâu năm là 50 năm; hạn mức giao
đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối
cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 3 héc ta đối với mỗi
loại đất. Hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia
đình, cá nhân không quá 10 héc ta đối với các xã, phường, thị
trấn ở đồng bằng; không quá 30 héc ta đối với các xã,
phường, thị trấn ở trung du, miền núi. Trường hợp hộ gia
đình, cá nhân được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây


hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối thì tổng hạn
mức giao đất không quá 5 héc ta. Luật cũng mở rộng hạn mức
nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đáp
ứng yêu cầu tích tụ đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp theo
hướng hiện đại phù hợp với đường lối phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Cho phép hộ gia đình, cá nhân tích tụ với diện tích
lớn hơn (không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp).
Luật quy định cụ thể và đầy đủ từ việc thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ tái định cư bảo đảm một cách công khai, minh
bạch và quyền lợi của người có đất thu hồi, đồng thời khắc

phục một cách có hiệu quả những trường hợp thu hồi đất mà
không đưa vào sử dụng, gây lãng phí, trong khi nông dân lại
không có đất để sản xuất. Luật này cũng quy định những
trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất phi nông nghiệp tại Điều 36, theo đó, khi chuyển đất
nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp phải xin phép cơ quan
có thẩm quyền và thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
Đối với các đất trồng cây nông nghiệp hàng năm mà không
được sử dụng trong thời gian từ 12 tháng trở lên sẽ bị thu hồi
theo Điều 38 của Luật Đất đai 2013.


Năm 1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/CP
ngày 27/9/1993 về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình
sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Nghị định này đã xác định các vùng đất được giao cho mục
đích sản xuất nông nghiệp, thời hạn và diện tích giao. Tháng
10 năm 2001, chính phủ ban hành Nghị định số 68/2001/NĐCP nội dung nêu các quy định về thẩm quyền và các căn cứ
việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Quốc hội khóa 13 đã ra Nghị quyết số 17/2011/QH13
ngày 22/11/2011 về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và
Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) cấp quốc gia. Theo
đó, đến năm 2020, diện tích đất nông nghiệp cả nước là
26,732 triệu ha, diện tích đất trồng lúa là 3,812 triệu ha
(14,26%), diện tích đất chuyên trồng lúa nước 2 vụ trở lên là
3,222 triệu ha (12,1%).
Năm 2012, ban hành Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày
02/02/2012 của Thủ tướng chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020
và tầm nhìn đến 2030. Theo đó, đến năm 2020, Đất sản xuất

nông nghiệp năm 2020 là 9,59 triệu ha, trong đó đất lúa 3,812
triệu ha. Như vậy giữa 2 văn bản quy hoạch đất đai của Quốc


hội và Chính phủ đã có những sự khác nhau khi xác định tổng
diện tích đất nông nghiệp là khác nhau nhưng diện tích trồng
lúa vẫn bằng nhau.
Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 về chiến
lược phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020 đưa việc đảm
bảo ANLT vào định hướng ưu tiên: “Đảm bảo an ninh lương
thực trên cơ sở bảo vệ 3,8 triệu hecta diện tích đất lúa, đảm
bảo nguồn cung lương thực, nhu cầu dinh dưỡng và khả năng
tiếp cận lương thực của người dân”.
Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 quy định
về quản lý, sử dụng đất trồng lúa tại các vùng trồng lúa trên cả
nước, nghị định này cũng nhắc đến điều kiện và thẩm quyền
chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa. Ngoài ra, nghị định
còn nhắc đến mức hỗ trợ tiền mặt nhằm bảo vệ và phát triển
diện tích đất trồng lúa: Hỗ trợ 500.000 đồng/ha/năm đối với tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất lúa trên đất chuyên trồng
lúa nước và 100.000 đồng/ha/năm trên đất lúa khác trừ đất lúa
nương tự mở rộng không theo quy hoạch. Đối với các trường
hợp thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh hoặc với các trường hợp
khai hoang, cải tạo đất sử dụng đất nhằm mục đích canh tác


nông nghiệp Nghị định này cũng đưa ra mức hỗ trợ trên tỷ lệ
chi phí bỏ ra.
Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 23/12/2009 về bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia đã đưa quy hoạch đất lúa và lương

thực khác vào nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần thực hiện:
“Đến năm 2020, bảo vệ quỹ đất lúa 3,8 triệu ha để có sản
lượng 41 - 43 triệu tấn lúa đáp ứng tổng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm; tăng
diện tích trồng ngô lên 1,3 triệu ha, sản lượng 7,5 triệu tấn;
diện tích trồng cây ăn quả 1,2 triệu ha, sản lượng 12 triệu tấn;
rau các loại 1,2 triệu ha, sản lượng 20 triệu tấn”.
Năm 2015, Chính phủ tiếp tục đưa ra Nghị định số
35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 về quản lý, sử dụng đất trồng
lúa thay thế Nghị định số 42/2012/NĐ-CP ngày 11/5/2012 về
quản lý và sử dụng đất trồng lúa và có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/7/2015. Nghị định 35/2015/NĐ-CP có sự thay đổi về
mức hỗ trợ so với Nghị định 42/2012/NĐ-CP. Cụ thể: nâng
mức hỗ trợ từ 500.000 đồng lên hỗ trợ 1.000.000
đồng/ha/năm đối với đất chuyên trồng lúa nước và từ 100.000
đồng lên hỗ trợ 500.000 đồng/ha/năm đối với đất trồng lúa
khác, trừ đất lúa nương được mở rộng tự phát không theo quy


hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa. Đối với trường hợp đất
khai hoang, theo Nghị định trước đây sẽ hỗ trợ theo tỷ lệ chi
phí mà tổ chức, cá nhân, hộ gia đình đã bỏ ra thì theo Nghị
định mới sẽ hỗ trợ tiền mặt 10.000.000 đồng/ha đất trồng lúa,
hỗ trợ 5000.000 đồng/ha đối với đất trồng lúa nước được cải
tạo từ đất trồng lúa 1 vụ hoặc đất nông nghiêp khác.
Trọng tâm chung của các chính sách kể trên là đảm bảo
sử dụng đất trồng lương thực theo định hướng chính phủ mà
chủ yếu là lúa nhằm đảm bảo khả năng tự cung lương thực.
Mục tiêu các chính sách đặt ra là giữ 3,8 triệu ha đất trồng lúa
để đảm bảo sản lượng 41 đến 32 triệu tấn lúa đáp ứng yêu cầu

trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm ngoài ra
tăng diện tích và sản lượng các cây lương thực khác và rau
màu. Luật Đất đai cũng quy định trách nhiệm của chính quyền
các cấp trong việc bảo vệ diện tích đất nông nghiệp bằng quy
định: khi nông dân muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì
phải xin phép cấp có thẩm quyền. Điều này góp phần kiểm
soát quá trình đô thị hóa. Một số nội dung chính trong chính
sách này như: hạn chế tối đa việc chuyển đất chuyên trồng lúa
nước sang sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp trừ cho
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công


cộng và phải được phê duyệt. Đưa ra phương án hỗ trợ,
khuyến khích việc khai hoang, bảo vệ và phát triển đất trồng
lúa. Hỗ trợ nông dân khi lúa bị hư hỏng bởi dịch bệnh tự
nhiên, hỗ trợ cho việc khai hoang, cải tạo đất lúa.
- Chính sách hỗ trợ sản xuất lương thực
Nhằm duy trì lượng cung lương thực nhất thiết đòi hỏi
phải tăng cường trình độ sản xuất và áp dụng khoa học kỹ
thuật. Hiện nay, Việt Nam định hướng sản xuất lương thực
không những nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu. Do vậy, nhóm chính sách này hướng đến mục tiêu
tăng cường trình độ sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật, đẩy
mạnh cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa.
Điển hình cho nhóm chính sách này là các chính sách
nhằm phát triển cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, bao
gồm các hệ thống thủy lợi, hệ thống đường bộ, đầu tư cho
nghiên cứu khoa học nông nghiệp. Một số văn bản chính sách
về cơ sở hạ tầng nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói
riêng là: Pháp lệnh số 32/2001/PL-UBTVQH10 ngày

04/04/2001 về khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; Quyết
định số 1590/QĐ-TTg ngày 09/10/2009 về phê duyệt chiến


lược phát triển thủy lợi Việt Nam. Các chính sách này nhằm
tăng cường hệ thống thủy lợi điều tiết lượng nước, củng cố đê
điều, phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất nói chung.
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2016 – 2020 được Chính phủ phê duyệt cũng đưa
vào nội dung Phát triển cơ sở hạ tầng tại Nội dung số 02:
Hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng. Đến năm 2020, có
77% số xã đạt chuẩn tiêu chí số 3 về thủy lợi.
Hệ thống khuyến nông được tổ chức từ Trung ương đến
địa phương có chức năng hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức các lớp
bồi dưỡng, tập huấn về chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ
thuật trong sản xuất nông nghiệp, kiến thức sản xuất an toàn,
hợp tác xã nông nghiệp… Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là
các hoạt động khuyến nông được thực hiện bởi các trung tâm
khuyến nông, cán bộ khuyến nông ở các cấp. Các lớp đào tạo
ngắn hạn nhằm tập huấn kỹ năng cho người nông dân được tổ
chức thường xuyên và định kỳ theo kế hoạch của các địa
phương. Các tài liệu, thông tin về sản xuất nông nghiệp được
cung cấp về các xã, phường, được phổ biến cho người nông
dân thông qua hội nông dân và các hợp tác xã. Hiện tại, tất cả


63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có Trung tâm
khuyến nông hoặc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư.
Trong giai đoạn 1992 – 2008, Chương trình khuyến
nông sản xuất lúa lai F1 đã hướng dẫn, chuyển giao công

nghệ sản xuất hạt lai thông qua mô hình cho nông dân ở 26
tỉnh thành phố, diện tích lúa lai F1 tăng từ 173ha (năm 1992)
lên 1.500ha những năm 2006-2008, năng suất hạt giống từ
300kg/ha (1992) lên 2.500kg/ha những năm 2000. Giá thành
hạt giống trong nước bằng 60% so với giống nhập khẩu, tự
túc được khoảng 25% nhu cầu hạt giống lúa lai.
Giai đoạn này cũng triển khai song song Chương trình
phát triển lúa lai thương phẩm được triển khai rộng khắp các
tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên. Năng suất bình quân đạt 65
tạ/ha, cá biệt có nơi đạt 100 tạ/ha cao hơn lúa thuần khoảng
10-15 tạ/ha.
Từ năm 1997, chương trình khuyến nông phát triển lúa
chất lượng tập trung vào Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng
sông Cửu Long cho đến nay đã mở rộng ra tất cả các vùng
nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu thụ gạo có chất lượng ngày càng
cao trong nước và phục vụ xuất khẩu.


Chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ hỗ
trợ chuyển đổi một phần diện tích lúa hiệu quả thấp sang
trồng lương thực, rau màu khác như ngô, lạc, đậu tương…
hoặc chuyển đổi các mùa vụ phù hợp để có năng suất và hiệu
quả kinh tế cao hơn, giảm trừ dịch bệnh.
Chương trình phát triển các cây lương thực khác như
Chương trình phát triển ngô lại đã nâng năng suất ngô từ 21,1
tạ/ha (năm 1995) lên gần 40 tạ/ha (năm 2008). Chương trình
này đã góp phần hoàn thành sớm 3 năm mục tiêu 1 triệu ha
ngô, sản lượng 4 triệu tấn (kế hoạch đến 2010).
- Nhóm chính sách nhằm tăng cường khả năng tiếp cận
lương thực

- Chính sách lao động – việc làm, tăng thu nhập
Trong những năm qua, thu nhập đầu người của Việt Nam
đã liên tục được tăng lên giúp cải thiện về khă năng tiếp cận
lương thực. Tỷ lệ đói nghèo và suy dinh dưỡng của Việt Nam
đã giảm đi. Theo UNDP, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu
thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói
vào năm 2002, sớm 13 năm so với mục tiêu đề ra.


- Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 1998 – 2015 (Đơn vị tính:
%)
199 200 200 200 200 201 201 201 201 201 201
Năm
Cả

8

2

4

6

8

0

1

2


3

4

5

37, 28, 18, 15, 13, 14, 12, 11,

nước

4

9

1

5

4

2

6

1

9,8 8,4

7


Thàn
h thị

9

6,6 8,6 7,7 6,7 6,9 5,1 4,3 3,7

Nông 44, 35, 21,
thôn

9

6

2

3

2,5

16, 17, 15, 14, 12, 10,
18

1

4

9


1

7

8

9,2

Trong giai đoạn 1998 – 2015, tỷ lệ hộ nghèo của Việt
Nam đã liên tục giảm, từ 37,4% vào năm 1998 xuống chỉ còn
7,0% vào năm 2015. Đối với khu vực nông thôn tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm từ 44,9% năm 1998 xuống còn 9,2% vào năm
2015.
- Cơ cấu chi tiêu dùng lương thực, thực phẩm chia
theo thành thị, nông thôn. (Tính theo mức giá hiện hành).
Tiêu dùng gạo/tháng (Đơn vị: %)


Chung

Thành thị

Nông thôn

2002

25.30

14.8


31.4

2004

22.20

13

26

2006

20.70

12.6

28

2008

22.70

14.7

31.4

2010

15.70


10

19.7

2012

14.20

9.5

17.4

2014

12.70

8.6

15.8

Lương thực khác (quy ra gạo)/tháng (Đơn vị: %)
Chung

Thành thị

Nông thôn

2002

2.80


2.6

2.9

2004

2.80

2.6

2.9

2006

2.80

2.6

2.9

2008

2.80

2.6

2.9



2010

2.80

2.6

2.9

2012

2.80

2.6

2.9

2014

2.80

2.6

2.9

Tỷ trọng chi tiêu dành cho tiêu dùng thực phẩm trong
tổng chi tiêu của hộ gia đình cũng có những khả quan. Tỷ
trọng chi tiêu gạo giảm từ 25,3% năm 2002 xuống còn 12,7%
năm 2014. Tỷ trọng mức chi tiêu lương thực trong tổng mức
chi tiêu của hộ gia đình chính là một chỉ tiêu phản ánh quan
trọng của khả năng đảm bảo an ninh lương thực, chỉ số này

càng thấp thì an ninh lương thực càng cao. Điều này cho thấy,
mức độ đảm bảo về ANLT của người dân ngày càng được
tăng lên. Các chính sách về tạo việc làm tăng thu nhập, xóa
đói – giảm nghèo đã góp phần mang lại hiệu quả này. Một số
chính sách được thực hiện trong thời gian qua như:
-

Nghị quyết số Số: 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 về
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối

-

với 61 huyện nghèo
Chiến lược việc làm giai đoạn 2011-2020.


-

Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn

-

2011-2015
Nghị định số 61/2015/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ tạo

-

việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm.
Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm


-

2020”.
Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020 (gọi tắt là Đề án 1956).
Nhóm chính sách này thường nằm trong nhóm chính

sách chung về lao động – việc làm của mỗi quốc gia có mục
tiêu duy trì cơ cấu lao động phù hợp nhằm phát triển kinh tế.
Đối với mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực, các chính sách
lao động sẽ giải quyết các vấn đề về số lượng và chất lượng
của lực lượng lao động cho sản xuất lương thực do đó sẽ liên
quan các chính sách về dân số, dịch chuyển lao động và đào
tạo tay nghề cho lao động sản xuất nông nghiệp. Mặt khác,
các chính sách này giúp tạo ra việc làm, tăng thu nhập cho
người dân. Khả năng tiếp cận lương thực của người dân tăng
lên khi thu nhập của họ gia tăng do khi thu nhập cao, mức giá
lương thực trở nên rẻ đi tương đối. Xu hướng hiện đại hóa đòi
hỏi giảm dần tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chuyểnsang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Do đó, chúng ta cần


phải đẩy nhanh quá trình dịch chuyển lao động này ra khỏi
ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, để mục tiêu đảm bảo an ninh
lương thực vẫn được đảm bảo ngay cả khi lao động trong
ngành chỉ còn dưới 20% thì đòi hỏi phải có chính sách nhằm
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, năng suất lao động
cho lực lượng này. Theo Báo cáo Điều tra lao động việc làm
năm 2013 thì tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo năm
2013 ở khu vực nông thôn chỉ đạt 11,2% so với 33,7% ở khu
vực đô thị. Hầu hết lao động nông thôn không có trình độ

chuyên môn kỹ thuật (chiếm 88,5%) so với 66,1% ở khu vực
đô thị.
- Số lượng, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong
nền kinh tế đã qua đào tạo phân theo ngành kinh tế (*)

Tỷ lệ
tổng số

2009

2010

2011

2012

2013

2014

14,8

14,6

15,4

16,6

17,9


18,2

Sơ bộ
2015
19,9


lao
động đã
qua đào
tạo của
cả nước
(%)
Tỷ

lệ


Nông
nghiệp,
lâm
nghiệp

3,9

2,4

2,7


3,0

3,5

3,6

4,2

và thủy
sản

đã

qua đào
tạo (%)
Số
lượng

ngành

24.60 24.27 24.36 24.35 24.39 24.40 23.45
5,9

9,0

2,9

7,2

9,3


8,7

0,9


nông,
lâm,
thủy sản
(nghìn
người)
Số
lượng


cả 47.74 49.04 50.35 51.42 52.20 52.74 52.88

nước(ng

3,6

8,5

2,0

2,4

7,8

4,5


6,6

hìn
người)
Số

959,6 582,7 657,8 730,7 854,0 878,7 984,9

lượng

ngành
nông,
lâm,
thủy sản
đã
đào

qua


×