Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tình hình chất thải của Việt Nam và một số thực tiễn trong nhưng năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.42 KB, 10 trang )

A. Sơ lược chung về vấn đề quản lý chất thải
I. Sơ lược về tình hình chất thải của Việt Nam và một số thực tiễn trong nhưng năm qua
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về phát triển kinh tế - xã hội..
Những năm qua, tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh đã trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về kinh tế - xã hội, đô thị hóa quá nhanh đã tạo
ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm chất lượng môi trường và phát triển không bền vững. Lượng
chất thải phát sinh tại các đô thị và khu công nghiệp ngày càng nhiều với thành phần phức tạp.Lượng chất
thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung
bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát
triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp. Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị
loại III trở lên và một số đô thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả
nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng, các chợ và kinh
doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở, đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công
nghiệp và các nguồn chất thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được xử lý triệt để
vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị. Ở nước ta, quản lý chất thải nói chung và chất thải rắn
nói riêng theo hướng bền vững là một trong 7 chương trình ưu tiên cao nhất được xác định trong Chiến
lược Bảo vệ môi trường Quốc gia 2001 - 2010 và Định hướng đến năm 2020 và cũng là một nội dung
thuộc lĩnh vực ưu tiên trong chính sách phát triển của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam.
Gần đây nhất, ngày 17/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 2149/QĐ-TTg phê duyệt
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 (dưới đây
gọi tắt là Chiến lược quốc gia về chất thải rắn) trong đó xác định quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các
giải pháp cơ bản cho việc thực hiện. Chất thải là sự đồng hành tất yếu trong mọi hoạt động kinh tế và phát
triển. Trong điều kiện tiến bộ khoa học và công nghệ hiện nay và trong tầm nhìn dài hạn (vài thập kỷ tới),
lượng chất thải nói chung và chất thải rắn nói riêng có xu hướng gia tăng cùng với sự gia tăng của sản
xuất và tiêu dùng trong quá trình phát triển của xã hội. Sự gia tăng của chất thải đã, đang và vẫn tiếp tục
là một nguyên nhân chính của tình trạng ô nhiễm môi trường và suy giảm chất lượng môi trường, đe dọa
tính bền vững trong quá trình phát triển cả ở tầm vĩ mô (quốc gia) cả ở tầm trung mô (địa phương, khu
vực) và cả ở tầm vi mô (cơ sở sản xuất kinh doanh). Tác nhân này được kìm hãm và khắc phục đồng thời
theo cả hai hướng: một là bằng các giải pháp công nghệ nhằm giảm thiểu, hạn chế lượng chất thải thải ra
môi trường và hai là bằng các giải pháp quản lý đối với chất thải trong suốt quá trình phát sinh và vận


động của chất thải.
Quản lý chất thải: là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý,
tiêu hủy, thải loại chất thải (Khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005)
II. Pháp luật môi trường Việt Nam liên quan đến quản lý chất thải
Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều quy định về quản lý chất. Những quy định của
pháp luật trong lĩnh vực này được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Quyết định
256/2003/ QĐ- Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược bảo vệ mội trường Quốc gia đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020, Bộ luật bảo vệ môi trường năm 2005, Nghị định 81/2006/NĐ- CP về xở lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Quyết định số 12/2006 / QĐ- Bộ tài nguyên và môi
trường ngày 8/9/2006 về việc ban hành danh mục phế liệu được nhập khẩu làm nguyên liệu trái phép, Nghị
định 59/ NĐ- CP ngày 9/7/2007 về quản lý chất thải rắn, Nghị định 174/NĐ- CP ngày 29/11/2007 về phí
bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, Nghị định 21/NĐ- CP ngày 28/2/2008 sửa đổi, bổ sung một số
điều của nghị định 80/2006/ NĐ- CP ngày 9/8/2006.
1. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Dựa trên các quy định của Quy chế quản lý chất thải nguy hại và Luật bảo vệ môi trường 2005,
khái niệm pháp luật về quản lý chất thải nguy hại có thể được hiểu như sau: Đó là một hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại đối với cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường và với nhau trong quy trình quản lý chất thải nguy hại nhằm bảo vệ môi
trường và sức khỏe cộng đồng. Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối với chất
thải nguy hại, pháp luật xác định địa vị pháp lý của các cá nhân, các tổ chức sản xuất kinh doanh có liên
quan đến lĩnh vực chất thải nguy hại, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể này tham gia vào các quan hệ
khai thác, sử dụng các thành phần môi trường. Cũng thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể
1
quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động quản lý chất thải nguy hại
trong phạm vi cả nước, cần kiểm soát tốt chất thải nguy hại ngay từ nguồn thải đồng thời thực hiện tốt các
bước trong quy trình quản lý chất thải nguy hại như thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu trữ, xử lý và tiêu
hủy chất thải nguy hại. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã đưa ra một quy trình để triển khai và
thực hiện một cách lần lượt từ việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến việc xử lý và tiêu hủy chất thải nguy
hại. Đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại, từ các cơ
quan quản lý nhà nước đến các tổ chức, cá nhân.

2. Pháp luật về chất thải rắn thông thường
Các vấn đề điều tương tự như pháp luật về chất thải nguy hại, ngoài các quy định chung về trách
nhiệm quản lý chất thải rắn trước hết thuộc về chủ phát sinh chất thải ( là những tổ chức, cá nhân có cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác có phát sinh chất thải) hoặc bên tiếp nhận
quản lý chất thải ( là những tổ chức, cá nhân khác có đủ điều kiện và năng lực quản lý chất thải) theo hợp
đồng chuyển giao trách nhiệm quản lý chất thải, pháp luật còn quy định riêng về từng loại chất thải: yêu
cầu đặt ra đối với chủ phát sinh chất thải thông thường để phục vụ mục đích tái chế, tái sử dụng, xử lý
hoặc thải bỏ phù hợp (quy định tại điều 78,79 Luật bảo vệ môi trường 2005). Bên cạnh đó, việc xử lý
nguồn nước thải cũng được quy định tại điều 80, 81 Luật bảo vệ môi trường 2005. Chủ quản lý hệ thống
nước thải phải thực hiện quan trắc định kỳ nước thải trước và sau khi xử lý. Quản lý và kiểm soát bụi, khí
thải phải đạt được tiêu chuẩn môi trường. Ngoài ra, pháp luật còn có các quy định về hạn chế tiếng ồn, độ
rung, ánh sáng, bức xạ…
B. Tác động của hội nhập kinh tế đến lĩnh vực pháp luật bảo vệ môi trường
I. Pháp luật về bảo vệ môi trường trước khi nhà nước Việt Nam tham gia hội nhập kinh
tế
Vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam được thực sự quan tâm bắt đầu từ cuối những năm 80, đầu
những năm 90 và đặc biệt là năm 1993, Luật bảo vệ môi trường đã được ban hành. Có thể nói đây là văn
bản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Đây là lần đầu
tiên các khái niệm cơ bản có liên quan đến bảo vệ môi trường đã được định nghĩa, xác định làm cơ sở cho
việc vận dụng vào hoạt động quản lý môi trường. Trong đó, bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt
động giữ cho môi trường trong lành sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn
chặn và khắc phục hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên". Ngoài ra, các khái niệm về thành phần môi trường, chất thải,
chất gây ô nhiễm, ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường, tiêu chuẩn môi trường,
công nghệ sạch, hệ sinh thái, đa dạng sinh học, đánh giá tác động môi trường. Đồng thời, đây cũng là lần
đầu tiên quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ môi trường
được pháp luật quy định. Việc bảo vệ môi trường không những được quy định trong Luật bảo vệ môi
trường, mà còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh các hoạt động của
con người khi tác động vào thiên nhiên, ảnh hưởng đến môi trường sống. Ngoài văn bản pháp luật điều
chỉnh trực tiếp việc bảo vệ môi trường như Luật Bảo vệ môi trường, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật

Bảo vệ môi trường, xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường, Nhà nước ta cũng ban hành văn
bản pháp luật chung và văn bản pháp luật chuyên ngành khác quy định nghĩa vụ bảo vệ môi trường đối
với các cơ quan, tổ chức và cá nhân hữu quan, đã quy định chế độ pháp lý trong việc khai thác, sử dụng
các nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời các văn bản pháp luật này cũng
quy định các nguyên tắc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước với tư cách là bảo vệ sinh thái,
môi trường. Ngoài ra, còn có quy định xác định rõ bảo vệ môi trường là một bộ phận cấu thành trong hệ
thống kinh tế - xã hội và được kế hoạch hoá đồng bộ với kế hoạch hoá của các ngành kinh tế quốc dân
khác.
II. Tác động của hội nhập kinh tế đến pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật
về bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải nói riêng
Sau ba năm kể từ ngày Việt Nam chính thức gia nhập WTO (ngày 11 tháng 01 năm 2007), môi
trường pháp lý của Việt Nam đã có những thay đổi trên nhiều lĩnh vực. Nhìn một cách tổng thể thì môi
trường pháp lý Việt Nam ngày càng mở rộng về lĩnh vực xã hội được điều chỉnh.
2
1. Tác động tích cực
Báo cáo của Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Lê Xuân Bá, hội nhập kinh
tế quốc tế và đặc biệt là gia nhập WTO đã có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong ba năm qua. Theo Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ ban hành ngày
02/12/2003 về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 thì phát triển kinh tế xã hội phải được gắn liền với bảo vệ môi trường. Nhận thức được vai trò
vô cùng quan trọng của công tác bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua đã hết quan
tâm đến hoạt động bảo vệ môi trường, đặc biệt là việc xây dựng một hành lang pháp lý, làm cơ sở cho
hoạt động bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay. Các quy định về bảo vệ môi trường nói chung cũng như
các quy định về quản lý chất thải đang ngày càng được hoàn thiện, thể hiện những ưu điểm nổi bật, góp
phần quan trọng cho công cuộc bảo vệ môi trường ở nước ta gắn liền với việc phát triển kinh tế và phù
hợp với công cuộc hội nhập hiện nay.
a. Các quy định pháp luật về chất thải rắn thông thường
Thứ nhất, pháp luật đã xác định được các khái niệm làm cơ sở cho hoạt động quản lý chất thải
rắn thông thường. Hiện nay, pháp luật đã quy định rõ các khái niệm về các hoạt động với tính chất là một
bộ phận của quản lý chất thải rắn thông thường như: thu gom chất thải rắn, vận chuyển chất thải rắn, xử lý

chất thải rắn chủ nguồn thải, chủ xử lý chất thải rắn, cơ sở quản lý chất thải rắn … ( Điều 3 Nghị định 59/
NĐ – CP ngày 09/04/2007). Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng những khái niệm pháp lý liên quan đến quản
lý chât thải rắn thông thường về cơ bản đã phản ánh đúng bản chất của quá trình quản lý chất thải, tạo cơ
sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện hoạt động quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn thông thường
nói riêng, nhận thức rõ giới hạn phạm vi hoạt động của mình qua đó góp phần bảo đảm hiệu quả công tác
quản lý
Thứ hai, các quy định quản lý chất thải rắn thông thường đã kết hợp một cách hợp lý yêu cầu bảo
vệ môi trường với việc tân dụng các lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường. Bên cạnh những đặc
tính có thể gây ảnh hưởng tới môi trường thì chất thải rắn thông thường cũng chứa đựng những giá trị
kinh tế nhất định mà nếu con người biết tận dụng để tái chế, tái sử dụng một cách hợp lý thì chẳng những
vừa góp phần bảo vệ môi trường tích cực mà còn góp phần đem lại lợi ích kinh tế đáng kể cho đời sống
con người, ví dụ như việc tân dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế chất thải thành phân bón
hữu cơ phục vụ sản xuất nông nghiệp…Trong quá trình xây dựng pháp luật về quản lý chất thải rắn thông
thường, nhà làm luật đã phản ánh khá đầy đủ các yêu cầu về sự kết hợp giữa bảo vệ môi trường với tận
dụng các lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường trong quá trình quản lý chất thải này, nội dung này
được thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước khuyến khích việc tái chế, tái sử dụng chất thải. Một trong những chính sách của Nhà
nước về BVMT hiện nay là “đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải” ( Khoản 3 Điều 5 Luật
BVMT 2005 ) đồng thời khuyến khích việc “tái chế sử dụng chất thải” ( Khoảng 5 Điều 6 Luật BVMT
2005). Mặt khác, trong chính sách ưu đãi, hỗ trợ đất đai cũng như chính sách miễn giẩm thuế, phí đối với
các hoạt động BVMT thì hoạt động tái chế chất thải rắn thông thường luôn được coi là một họat động
nằm trong danh mục được ưu đãi, hỗ trợ ( Điều 117 Luật BVMT 2005 ). Chính những sự khuyến khích,
ưu đãi, hỗ trợ này của Nhà nước sẽ góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tích cực thực hiện các họat
động tái chế chất thải nhằm tận dụng tối đa lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường.
- Nhà nước cho phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất kinh doanh. Hiện nay trong
QĐ số 12 ngày 8/9/2006 Bộ trưởng Bộ tài nguyên môi trường quy định khá rõ ràng các loại phế liệu được
phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, đi kèm với quyền được nhập khẩu phế liệu để phục vụ sản xuất
thì các chủ nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện khắt khe khác như phải có đủ năng lực để xử lý chất
thải đi kèm, có hệ thống cơ sở hạ tầng phù hợp để bảo đảm quá trình nhập khẩu phế liệu không gây ô
nhiễm môi trường, phế liệu nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện nhất định về môi trường … Chính

những quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn nguyên
liệu giá rẻ để phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời phải biết kết hợp đáp ứng đúng các yêu cầu BVMT
cụ thể vì lợi ích chung của cộng đồng.
Thứ ba, các quy định về quản lý chất thải rắn thông thường đã góp phần xã hội hóa công tác quản
lý chất thải rắn thông thường. Chất thải rắn thông thường là loại chất thải phổ biến trong đời sống con
người với nguồn thải đa dạng ở nhiều nơi, mọi lúc, khối lượng nhiều nhưng có sự khác biệt lớn về mức
thải của các nguồn thải khác nhau. Bên cạnh đó đây là loại chất thải không chứa những đặc tính nguy hại
nên các chủ thể tham gia quản lý loại chất thải này có thể phong phú, không bị giớ hạn bởi các điều kiện
3
khắt khe mà vẫn có thể quản lý hiệu quả. Do vậy, việc xã hội hóa quản lý chất thải cầu khách quan, bảo
đảm cho quản lý chất thải rắn thông thường đạt hiệu quả. Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường
đã tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho các đoàn thể và các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình quản lý
chất thải rắn thông thường với các haọt động khác như:
- Tổ chức cá nhân có thể đầu tư cho công tác thu gom vận chuyển, xây dựng cơ sở quản lý chất
thải rắn bằng cách đầu tư xây dựng toàn bộ các hạng mục công trình thuộc cơ sở xử lý chất thải rắn, mua
sắm trang thiết bị vật tư phục vụ cho hoạt động xử lý chất thải rắn, thành lập các hợp tác xã, hộ kinh
doanh hoặc các hình thức khác để thực hiện việc thu gom, vân chuyển xử lý chất thải rắn ở các làng nghề,
điểm dân cư nông thôn chưa có dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn ( Điều 13 NĐ 59/NĐ – CP
09/04/2007)
- Mọi tổ chức các nhân là chủ nguồn thải chất thải rắn thông thường đều phải thực hiện các
nghĩa vụ nhất định để quản lý chất thải này ( Điều 22 Nghị định 59/ NĐ – CP ngày 09/ 05/2007)
- Các tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư có trách nhiệm giám sát quá trình thu gom, vận
chuyển chất thải rắn trên địa bàn của mình, có trách nhiệm phát hiện ngăn chặn hoặc thông báo kịp thời
cho chính quyền địa phương những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý chất thảo rắn
( Khoản 2 Điều 28, Khoản 3 Điều 38 Nghị định 59/NĐ – CP ngày 09/04/2007).
- Những quy định nói trên đã góp phần quan trọng trong lĩnh vực xã hội hóa công tác quản lý
chất thải rắn thông thường, thu hút được nhiều nguồn lực tham gia công tác quản lý loại chất thải này, qua
đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất thải nói riêng, công tác BVMT nói chung.
Thứ năm, các quy định về quản lý chất thải rắn thông thường đã tạo tiền đề thu hút các nguồn
đầu tư cho công tác quản lý chất thải rắn thông thường. Quản lý chất thải rắn thông thường đòi hỏi phải

thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và có sự đầu tư đúng mức về nguồn tìa chính cũng như các
trang thiết bị khoa học kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả của hoạt động này. Hiện nay, pháp luật về quản lý
chất thải rắn thông thường ở Việt Nam đã quy định khá rõ ràng các nội dung về đầu tư quản lý chất thải
rắn. Những nội dung này thể hiện khá rõ trong nghị định 59/2007 về quản lý chất thải rắn. Nhà nước
khuyến khích mọi hình thức đầu tư cho lĩnh quản lý chất thải rắn, hợp đồng hợp tác kinh doan ( BCC),
xây dựng – khai thác chuyển giao ( BOT), hoạt động xây dựng – chuyển giao – khai thác ( BTO), hợp
đồng xây dựng – chuyển giao ( BT), mua lại doah nghiệp, mua trai phiếu đầu tư chứng khoán và các hình
thức đầu tư khác theo Luật Đầu tư: đầu tư cho thu gom, vận chuyển, xây dựng trạm trung chuyển và cơ sở
xử lý chất thải rắn được thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng. Mặt khác, pháp luật
cũng quy định rõ các nội dung của đầu tư quản ly chất thải rắn như đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải
rắn, đầu tư cho hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải rắn; xã hội hóa việc đầu tư quản lý chất thải rắn
… Đồng thời, pháp luật cũng xác định các nguồn đầu tư và ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải
rắn… Những quy định này là hết sức quan trọng và cần thiêt, tạo điều kiện cho việc phát triển cơ sở sản
xuất – kỹ thuật để quản lý chất thải rắn, qua đó góp phần bảo đảm tính hiệu quả, tính khả thi của hoạt
động quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn thông thường nói riêng.
b. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Mục đích của pháp luật quản lý chất thải nguy hại là bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng.
Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nườ về môi trường:
quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý chất thải
nguy hại đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước
đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của các chủ
thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng
số lượng chất thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe
con người cũng như môi trường sống. Trong xu thế hội nhập hiện nay, với việc thành lập nhiều nhà máy,
xí nghiệp, pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã góp phần đáng kể hạn chế các vi phạm về môi
trường thông qua các biện pháp cụ thể..
Biện pháp kinh tế: Đó là việc sử dụng lợi ích vật chất để kích thích hoặc bắt buộc các chủ thể thực
hiện những hoạt động có lợi cho hoạt động quản lý chất thải. Biện pháp này thực hiện thông qua hình
thức thu phí chất thải đổi với các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế lượng chất thải có thể phát sinh
ngay tại nguồn. Áp dụng thuế cao đối với những sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường hoặc sức

khỏe con người ở mức độ cao. Đó còn là những biện pháp hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp
đầu tư trang thiết bị công nghệ thân thiện môi trường, ... Biện pháp kinh tế rất cần thiết và có hiệu quả
phòng ngừa cao vì nó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập, lợi nhuận của doanh nghiệp.
4
Biện pháp khoa học công nghệ: Vận dụng các thiết bị khoa học công nghệ tiên tiến vào việc quản lý
chất thải. Biện pháp này giúp hạn chế được lượng chất thải, đồng thời xử lý được khối lượng lớn và triệt
để chất thải.
Các quy định của pháp luật ngày càng rõ ràng và cụ thể đã làm cho người dân hiểu pháp luật, nâng cao ý
thức của họ. Người dân sẽ tự giác thực hiện những hành vi có ích cho môi trường.
2. Tác động tiêu cực
Pháp luật bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế. Trong khi các nước phương Tây
đã có những tiêu chuẩn môi trường cao thì Việt Nam vì mục đích thu hút đầu tư, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nhanh đã đưa ra tiêu chuẩn môi trường thấp. Điều này gây ra sự ô nhiễm môi trường trầm trọng
sau hơn 20 năm đổi mới và Việt Nam đang đứng trước nguy cơ trở thành bãi rác của thế giới. Với tiêu
chuẩn môi trường thấp thì công nghệ lạc hậu tiếp tục được nhập vào Việt Nam và đẩy chất lượng hàng
hoá Việt Nam vào thế bất lợi so với hàng hoá các nước sử dụng công nghệ hiện đại. Do đó, nâng cao chất
lượng bảo vệ môi trường cũng góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá của Việt Nam để có thể cạnh tranh
với hàng hoá thế giới.
Thứ nhất, chưa có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các quy định về phát triển kinh tế với các quy
định về bảo vệ môi trường. Yếu tố môi trường chưa thực sự được coi trọng và tính đến nhiều trong quá
trình xây dựng và ban hành luật như các vấn đề về thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế bởi những đòi
hỏi bức xúc về phát triển kinh tế. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế còn chưa tính đến
chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh. Còn thiếu vắng những công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi
trường như lệ phí môi trường, thuế môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền… làm cho công tác bảo
vệ môi trường không phát huy được sự kích thích từ góc độ kinh tế đối với những chủ thể sử dụng các
thành phần môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh
thái. Vì thế, có thể nói rằng hiện tại các chính sách, pháp luật về kinh tế chưa thực sự “thân thiện với môi
trường”.
Thứ hai, các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và
hình thức nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự

nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, các biện pháp chế tài nói chung chưa thích hợp và chưa đủ
mạnh để trừng trị và răn de những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của
các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức, các hoạt động gây ảnh
hưởng đến môi trường vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.
Thứ ba, những quy định về biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn
có những khoảng trống nên không có biện pháp xử lý thích hợp đối với chủ thể vi phạm. Vì vậy, mặc dù
Điều 183 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định về tội gây ô nhiễm nguồn nước nhưng khó có thể thực
hiện trong thực tiễn được vì chưa bị xử lý vi phạm hành chính... Vì thế, hiệu quả của việc xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp.
Thứ tư, pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn quá chung chung,
thiếu cụ thể, khó áp dụng. Mặc dù, các quy định về bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây ô nhiễm
môi trường đã được đề cập nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ chung chung. Trách nhiệm
chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lại môi trường và bồi thường thiệt hại chỉ được quy định trong văn
bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
môi trường mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung, mang tính nguyên tắc trong Luật Bảo vệ môi
trường, Bộ luật dân sự, đến nay vẫn chưa được quy định cụ thể, hướng dẫn thực hiện. Ngay trong các quy
định pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đến nay cũng chưa có quy định nào hướng
dẫn về các phương pháp xác định thiệt hại, xác định mức bồi thường.
a. Hạn chế của pháp luật bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải thông thường
Thứ nhất, các khái niệm về quản lý chất thải được sử dụng trong các văn bản không thống nhất. Luật
bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa: Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển,
giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thỉa loại chất thải (Khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi
trường năm 2005). Trong nghị định 59/2007/ NĐ- CP lại định nghĩa: “Hoạt động quản lý chất thải rắn
5

×