Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với khoa học chuyên ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.75 KB, 27 trang )

Bài tiểu luận Triết học

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................... i
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC....................................................2
1.1.

Thế giới quan duy vật biện chứng..........................................................2

1.2.

Nội dung thế giới quan duy vật biện chứng............................................6

1.2.1.

Quan niệm duy vật về thế giới............................................................6

1.2.2.

Quan điểm vật chất về xã hội..............................................................9

1.3.
Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với khoa học chuyên
ngành……….........................................................................................................11
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYÊN NGÀNH
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VỚI TRIẾT HỌC TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN NHÂN LỰC & THƯƠNG MẠI VINACONEX................15
2.1.
Giới thiệu chung về Công ty CP Nhân lực & Thương mại Vinaconex
(Vinaconex MEC).................................................................................................15


2.1.1.

Ngành nghề sản xuất kinh doanh......................................................16

2.1.2.

Nhiệm vụ...........................................................................................16

2.1.3.

Giá trị cốt lõi....................................................................................16

2.1.4.

Nguyên tắc hoạt động.......................................................................16

2.1.5.

Cơ cấu tổ chức..................................................................................17

2.2.
Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng trong thực tiễn
quản lý hoạt động xuất khẩu lao động tại Vinaconex MEC..................................17
2.2.1. Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật trong công tác khai thác
thị trường xuất khẩu lao động........................................................................17
2.2.2. Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật trong công tác tuyển chọn
và đào tạo lao động xuất khẩu.......................................................................19
2.2.3. Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật trong công tác quản lý lao
động xuất khẩu..............................................................................................20
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VẬN DỤNG HIỆU QUẢ THẾ GIỚI

QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VINACONEX MEC.......................................................21
3.1.

Tránh tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí........................................21

3.2.

Nhà quản trị phải nắm bắt được chính xác các quy luật khách quan....22

3.3.

Phải tiếp tục phát huy tính sáng tạo trong công tác quản lý..................24

Nhóm 5 – Lớp M16CQQT01-B


Bài tiểu luận Triết học
3.4.
Phát hiện kịp thời, phân tích và giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng
chỗ, đủ điều kiện...................................................................................................24

KẾT LUẬN.............................................................................................. 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................26

Nhóm 5 – Lớp M16CQQT01-B


Bài tiểu luận Triết học


Lời nói đầu

LỜI NÓI ĐẦU
Lời đầu, nhóm em xin được gửi lời cám ơn chân thành đến giảng viên bộ môn Triết
học, người đã dạy dỗ, rèn luyện và truyền đạt những kiến thức quý báu cho chúng em
trong suốt thời gian qua. Trong thời gian được học tập dưới sự dìu dắt của cô, chúng
em đã không chỉ được tiếp thu thêm nhiều kiến thức bổ ích mà còn được học tập được
tinh thần làm việc, thái độ giảng dạy nghiêm túc, hiệu quả - đây là những điều rất cần
thiết cho chúng em trong quá trình học tập và công tác sau này.
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian, tại số
một trung tâm văn hoa cổ đại của nhân loại như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp... Triết
học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của người về thế giới về vị trí và vai
trò của con người trong thế giới này. Triết học nghiên cứu, giải thích thế giới ở tầm
chung bao quát nhất hay nói cách khác chính là nghien cứu về thế giới quan. Triết học
la hạt nhân lý luận của thế giới quan. Chính điều đó đã khiến ta phải đặt ra câu hỏi:
Thế giới quan là gi? Có bao nhiêu loại thế giới quan? Thế nào là thế giới quan duy vật
biện chứng? Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng ra sao? Áp dụng thế giới
quan duy vật biện chứng vào ngành chuyên môn của bản thân như thế nào?
Trong quá trình thực hiện đề tài được giao: “Phân tích vai trò của thế giới quan duy
vật biện chứng đối với khoa học chuyên ngành. Liên hệ về quan hệ giữa ngành
chuyên môn của bản thân anh (chị) với triết học”, mặc dù nhóm đã hết sức nỗ lực
và cố gắng nhưng chắc chắn trình độ hiểu biết và kiến thức về môn học đối với chúng
em trong bước đầu tìm hiểu vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, bài tiểu luận của nhóm khó
có thể tránh khỏi đôi chỗ còn thiếu sót hay chưa chuẩn xác. Chúng em kính mong nhận
được những nhận xét và góp ý quý báu từ cô giáo để chúng em có thể hoàn thiện hơn
bài tiểu luận cũng như vững vàng hơn trong kiến thức của mình.
Chúng em xin chân thành cám ơn!


Bài tiểu luận Triết học


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC
1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Đứng trước bức tranh về thế giới (tự nhiên và xã hội) muôn hình, muôn vẻ và sinh
động, con người luôn đặt ra và giải quyết những vấn đề về mối quan hệ của mình với
thế giới, về nguồn gốc của thế giới, về vị trí của mình trong xã hội, về ý nghĩa cuộc
sống của mình và thể hiện quan điểm, tư tưởng qua các lý thuyết xã hội. Đó chính là
sự lựa chọn và định hướng cuộc sống, tức là sự thể hiện thế giới quan của mình.
Thuật ngữ "thế giới quan" xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII do nhà triết học cổ
điển Đức là Cantơ nêu ra. Từ đó, nó được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm của các
nhà triết học sau này. Đặc biệt, với sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm thế
giới quan đã phát triển lên một tầm cao mới mang tầm vóc lớn lao.
Thế giới quan nào ra đời cũng đều nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản sau:
Thế giới mà con người đang sống là gì?
Trong thế giới đó con người sống vì cái gì và sống như thế nào?
Khả năng con người tác động lại thế giới ra sao?
Trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã vạch ra được mối quan hệ giữa con người
với thế giới và xác định vị trí con người trong thế giới đó.
Thế giới quan được hình thành và phát triển trong xã hội dưới hai hình thức:
Thứ nhất: Thế giới quan là một nhân tố của ý thức cá nhân, giữ vai trò chỉ dẫn cách
thức tư duy và hành động của cá nhân, đó là thế giới quan cá nhân. Thế giới quan cá
nhân thường là sự tích lũy và thu thập kinh nghiệm sống của mọi người. Nó nằm trong
suy nghĩ và hành vi của họ mà chính họ cũng không biết rằng cái được gọi là kinh
nghiệm sống hay sự hiểu biết về bức tranh chung của thế giới đó là thế giới quan cá
nhân. Nó chính là mức độ thấp trong nhận thức thế giới. Tuy nhiên, không nên đánh
giá thấp tác dụng của nó với tính cách là một nhân tố điều chỉnh hành động của con
người. Tác động của giáo dục, ảnh hưởng của truyền thống, của các quan hệ xã hội,
các điều kiện và hoàn cảnh môi trường sống là nhân tố quan trọng hình thành các quan
điểm và nguyên tắc thế giới quan cá nhân.
Thứ hai: Thế giới quan là sự thể hiện dưới hình thức lý luận khái quát hóa các quan

điểm và hoạt động của một nhóm xã hội, một giai cấp hay toàn xã hội. Đó là thế giới
quan xã hội. Các nhà triết học, kinh tế học, xã hội học hay các nhà tư tưởng, chính trị...
luôn suy nghĩ, cân nhắc để xây dựng thế giới quan xã hội. Nhiệm vụ của họ là phải
làm thế nào để thể hiện một cách đầy đủ nhất những nguyên lý tư tưởng lý luận,
nguyên lý triết học nhằm chỉ dẫn suy nghĩ và hành động của con người, của một nhóm
xã hội, một giai cấp hay toàn xã hội.
Hai loại thế giới quan trên luôn nằm trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Mỗi
cá nhân đều luôn mong muốn làm phong phú tri thức của mình bằng cách tiếp nhận


Bài tiểu luận Triết học
những lý luận chung để làm sáng tỏ vị trí của mình trong thế giới, trong đời sống xã
hội. Ngược lại, những quan điểm thế giới quan xã hội, lý luận chung ấy trở thành một
bộ phận trong ý thức và niềm tin của các cá nhân, thẩm thấu vào ý thức cá nhân, được
hình thành một cách tự phát rồi tác động và chỉ dẫn nó.
Dù ở trình độ phát triển nào các quan điểm về thế giới quan cũng đều mang tính khái
quát. Thế giới quan là sự phản ảnh chủ quan những điều kiện sinh hoạt vật chất của
con người. Tuy nhiên, thế giới quan không chỉ dừng lại ở sự phản ánh thụ động đó, mà
nó còn là nhân tố tích cực của con người, sự thông thái về cuộc sống để chỉ dẫn cho
nhận thức lẫn hành động của con người. Bởi vì, chính hành vi và hoạt động của con
người đã đặt ra các vấn đề như: liệu nhận thức có đáp ứng những mục đích sống đã
được con người lựa chọn và con đường thực hiện những mục đích ấy có tuân theo
những quy luật phát triển của thế giới khách quan hay không? Liệu quan hệ giữa tri
thức con người với thực tiễn cải tạo thế giới khách quan, cải tạo chính bản thân mình
có tương ứng với những đòi hỏi và những khuynh hướng phát triển hợp quy luật của
hiện thực hay không? Và bằng cách nào mà tư duy và hành động của mình, con người
có thể thể hiện sự thống nhất giữa mình và thế giới, hiểu được tương lai, triển vọng
của mình? Khi trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã thể hiện chức năng, định
hướng lớn lao của mình.
Trong lịch sử tư tưởng làm người đã có nhiều định nghĩa khác nhau về thế giới quan,

chẳng hạn, G-Gertx đã cho rằng: "Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ thống nhất
định những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế giới và nguồn gốc, về ý
nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội". Hoặc trong cuốn Từ điển Tiếng
Việt, Minh Tâm đã định nghĩa: "Thế giới quan là hệ thống những quan điểm mang
tính khái quát về thế giới nói chung, về những quy trình tự nhiên và xã hội được thực
hiện trong thế giới đó, về mối quan hệ của con người đối với hiện thực xung quanh".
Chúng ta nhận thấy các định nghĩa trên đều đúng, nhưng bao quát và rõ hơn cả là theo
cách định nghĩa của Akitốp, bởi vì trong định nghĩa này, ông đã nêu nên, các yếu tố
nhận thức và giá trị, yếu tố khách quan và chủ quan thống nhất chặt chẽ với nhau, các
tri thức của khoa học về thế giới hòa với niềm tin của con người. Ông viết: "Tổng hợp
tất cả những quan niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý
nghĩa và giá trị của đời sống con người, lòng tin của con người trong hiện thực gọi là
thế giới quan".
Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu: Thế giới quan là hệ thống những quan
điểm của một chủ thể (có thể là của một người, một tập đoàn người, một giai cấp hay
toàn xã hội) về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Trên cơ sở đó,
thế giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người.
Về cấu trúc của thế giới quan bao gồm một số nhân tố cơ bản sau đây:
Tri thức:


Bài tiểu luận Triết học
Cũng giống ở mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri thức về tự nhiên, xã
hội, con người. Những tri thức mang tính khái quát về các hiện tượng tự nhiên, về mối
quan hệ nền tảng, bản chất của tự nhiên, tạo thành quan điểm về tự nhiên của thế giới
quan. Các tri thức tự nhiên đó quy định lập trường của con người trong thế giới, chỉ rõ
người theo chủ nghĩa vô thần hay duy tâm, tôn giáo; biện chứng hay siêu hình.
Những tri thức về cuộc sống của con người, về sự phát triển xã hội, về quan hệ của
con người đối với xã hội tạo thành quan điểm xã hội của thế giới quan.

Những tri thức hệ thống khái quát về bản chất của quá trình hoạt động nhận thức của
con người tạo thành quan điểm nhận thức luận của thế giới quan.
Rõ ràng, việc xác định bản chất của thế giới quan cần dựa trên phương diện bản thể
luận lẫn phương diện nhận thức luận. Tri thức là điều kiện cần thiết cơ bản cho việc
hình thành thế giới quan, nhưng không phải bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xã hội, về
con người đều là tri thức thế giới quan. Chỉ có những tri thức biểu thị quan điểm chung
về tồn tại và về nhận thức mới là những tri thức của thế giới quan.
Trong nội dung tri thức của thế giới quan, các quan điểm của triết học đóng vai trò là
nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát triển của nó vì triết học phản ánh
các quan điểm chung nhất về thế giới.
Niềm tin:
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của tri
thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người.
Niềm tin là những tư tưởng chi phối chặt chẽ tư tưởng, chỉ dẫn hành động của con
người tuân theo và ràng buộc trí tuệ, lương tâm của con người với chúng.
Nếu con người làm việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của
tư tưởng thì con người sẽ bị mất đi những rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt
tình và sự cổ vũ cần thiết đối với hiệu quả công việc. Không có tâm hồn nóng bỏng
của niềm tin vào tri thức thì sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Vì niềm tin giúp cho
con người có nghị lực phi thường vượt qua những giây phút hiểm nghèo, giám hy sinh
vì mục tiêu, lý tưởng mà mình cho là cao cả. Như thế, niềm tin là yếu tố cấu thành
quan trọng của thế giới quan. Nếu nó được xác lập trên nền tảng tri thức khoa học thì
nó sẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Lý tưởng:
Trong thế giới quan, cùng với tri thức và niềm tin thì lý tưởng là yếu tố định hướng
cực kỳ quan trọng. Lý tưởng như là hình mẫu, mục tiêu tối thượng về một cái gì đó
của một cá nhân, nhóm người, giai cấp hay toàn xã hội muốn vươn tới hiện thực.
Lý tưởng là một hình thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức và niềm tin của
một giai cấp trong toàn xã hội đặt ra nhằm định hướng hoạt động cho mọi thành viên
trong xã hội thực hiện mục đích của mình, nhằm cải tạo thế giới "đang có" thành thế

giới "phải có". Lý tưởng mang tính lịch sử về bản chất, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu


Bài tiểu luận Triết học
tùy thuộc vào hình thái của các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người
về tương lai, về lý tưởng, đó là sự tìm tòi và sẽ hình thành một hình thức tâm lý với tư
cách là niềm hi vọng. Không có niềm hy vọng như là một sự khao khát hiến dâng
mình cho tương lai thì không thể có một lập trường sống tích cực. Đó là các nhân tố cơ
bản có quan hệ chặt chẽ với nhau cấu thành thế giới quan, để thể hiện những quan
điểm của chủ thể về thế giới, về những hiện tượng tự nhiên, xã hội và các quy luật phát
triển của chúng; về bản thân con người, vai trò của con người trước thế giới.
Mối quan hệ giữa triết học với thế giới quan:
Như trên đã trình bày, thế giới quan đã chỉ ra mối quan hệ giữa con người với thế giới,
cái chủ quan và cái khách quan đã bao hàm trong mình vấn đề cơ bản của triết học,
thậm chí vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề chính trong kết cấu của thế giới quan.
Nhưng xét về mặt lịch sử, thế giới quan ra đời sớm hơn triết học. Nó ra đời trong thời
kỳ bộ tộc, trên cơ sở sự phản ánh hoang đường về thực tế. Và hình thức thế giới quan
đầu tiên ấy gọi là thế giới quan thần thoại. Còn triết học là khoa học chỉ xuất hiện khi
có sự tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay, gắn liền với sự ra đời của chế độ
chiếm hữu nô lệ. Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về
vị trí của con người trong thế giới đó. Vì vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới
quan làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các nhà khoa học đem lại. Đó là chức năng thế
giới quan của triết học.
Trong những bước chuyển biến của đời sống xã hội của thực tiễn đặt ra đã kéo theo sự
tiến hóa của thế giới triết học, mà đỉnh cao nhất nó đạt được là thế giới duy vật biện
chứng.
Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống chỉnh thể những tri thức về tự nhiên, xã
hội và con người. Nó được tạo thành trên cơ sở phê phán có chọn lọc những tư tưởng
tiến bộ của các trào lưu triết học từ sự khái quát kinh nghiệm lịch sử để có những

thành tựu của khoa học.
Nó được ra đời khi lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ do sự tác động của cuộc
cách mạng công nghiệp. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ,
thể hiện tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản xuất phong kiến. Thế giới quan
duy vật biện chứng ra đời đã kế thừa được những thành tựu lớn lao của tư tưởng nhân
loại như: triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị
học cổ điển Anh. Đặc biệt trong triết học cổ điển Đức, những nội dung cách mạng
trong phép biện chứng của Hêghen, những tư tưởng duy vật của Phoiơbắc, đã được
C.Mác - Ph.Ănghen cải tạo, phát triển thành thế giới quan duy vật biện chứng triệt để,
mở rộng vào tất cả các lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Thế giới quan duy vật
biện chứng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng do
đó nó thực sự là một khoa học triết học. Mác và Ăngghen đã cải tạo một cách biện
chứng chủ nghĩa duy vật cũ, giải thoát chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ khỏi tính hạn


Bài tiểu luận Triết học
chế siêu hình, tạo ra hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật.
Mác và Ăngghen đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của Hêghen,
giải thoát nó khỏi chủ nghĩa duy tâm bằng cách đặt nó trên cơ sở hiện thực, tạo ra hình
thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ở các giai đoạn trước
C.Mác, thế giới quan duy vật thường bị tách rời với phép biện chứng. Chẳng hạn, thế
giới quan duy vật cổ đại, mặc dù có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định
nhưng mới chỉ phỏng đoán, tự phát mà không thống nhất với chủ nghĩa duy vật; hay
thế giới quan duy vật cận đại là sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật và phép siêu hình.
Như vậy, thế giới quan duy vật biện chứng ra đời đã khắc phục được những hạn chế
của thế giới quan duy vật cổ đại, của thế giới quan duy vật siêu hình thế kỷ XVII XVIII. Đồng thời, nó còn cải tạo cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen, tạo nên sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Thế giới
quan duy vật biện chứng khẳng định: thế giới xung quanh chúng ta dù có phong phú
đa dạng đến đâu, nhưng bản chất của nó là vật chất. Các sự vật, hiện tượng cụ thể chỉ
là những dạng tồn tại khác nhau của vật chất, chúng đều tồn tại khách quan độc lập với

ý thức của con người. Tính thống nhất vật chất của thế giới còn gắn liền với sự liên hệ
tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận tạo nên sự vật dẫn đến sự vận động biến
đổi của sự vật. Tính thống nhất vật chất của thế giới phải gắn liền với vận động và phát
triển của nó. Sự khẳng định trên đây của thế giới quan duy vật biện chứng đã được sự
phát triển của khoa học hiện đại chứng minh. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo; ý thức là hình ảnh tinh
thần của thế giới khách quan hình thành trong quá trình con người tác động cải tạo nó.
Ý thức bắt nguồn từ thực tiến lịch sử - xã hội, ý thức là sản phẩm của các quan hệ xã
hội, chịu sự chi phối chủ yếu của các quy luật xã hội, các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của con người và phản ánh những quan hệ xã hội, những quy luật xã hội khách quan.
1.2. Nội dung thế giới quan duy vật biện chứng
1.2.1. Quan niệm duy vật về thế giới

Vật chất

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2.500 năm. Ngay
từ lúc mới ra đời, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không
khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Theo quan điểm
của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản
nguyên tinh thần nào đó, có thể là "ý chí của Thượng đế" là "ý niệm tuyệt đối",
v.v... Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất,
cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những
thuộc tính của chúng. Vào thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật
chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình,
cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Vật chất nói chung lúc đó được bắt


Bài tiểu luận Triết học

nguồn từ lửa theo quan điểm của Hêraclít, vật chất được cấu tạo từ nguyên tử

theo quan điểm của Đêmôcrít; vật chất còn bắt nguồn từ thế giới ý niệm. Thế
giới quan về vật chất lúc đó thật mộc mạc, đơn sơ các nhà triết học chưa thoát
khỏi quan điểm cảm tính về thế giới, không có sự nghiên cứu mà quan điểm triết
học chỉ là ý kiến chủ quan của mình. Đến thời kỳ phục hưng đặc biệt là thời kỳ
cận đại thế kỷ XVII - XVIII, khoa học tự nhiên - thực nghiệm ở châu Âu phát
triển khá mạnh. Thế giới quan duy vật đã có bước phát triển mới nhưng chưa
được chính xác và đầy đủ. Do đây là thời kì mà khoa học thời kỳ này chỉ có cơ
học cổ điển phát triển nhất, còn các ngành khoa học khác như vật lý học, hóa
học, sinh học, địa chất học... còn ở trình độ thấp. Khoa học lúc này chủ yếu còn
dừng lại ở trình độ sưu tập, mô tả. Cho nên quan điểm thống trị trong triết học
và khoa học tự nhiên thời bấy giờ là quan điểm siêu hình - máy móc đã chi phối
những hiểu biết triết học về vật chất. Mọi phân biệt về chất giữa các vật thể đều
bị quy giản về sự phân biệt về lượng; mọi sự vận động đều bị quy về sự dịch
chuyển vị trí trong không gian; mọi hiện tượng phức tạp bị quy về cái giản đơn
mà từ đó chúng được tạo thành. Do có cách nhìn siêu hình về thế giới nên đã có
quan niệm rằng con người cũng là một loại máy móc, tim chính là lò xo co giãn,
mạch máu như là dây điện nối các bộ phận lại với nhau…Chính vì quan điểm
siêu hình này mà đã làm cho thế giới quan triết học nói riêng và thế giới quan
nói chung của con người bị cứng nhắc, cách nhìn phiến diện về thế giới.
Nhưng đến những năm 40 của thế kỉ XX Lênin đã đưa ra được định nghĩa chính
xác nhất về vật chất cho đến bây giờ. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”. Định nghĩa này đã khắc phục được hạn chế của thời kì trước là đã
khẳng định được vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói
chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng
vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để
chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể,
không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất.
Đồng thời cũng đã khẳng định thuộc tính khách quan của vật chất không phụ

thuộc vào ý thức chủ quan của con người; và là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, ý thức. Vật chất có hai dạng vật chất cơ bản là chất và trường. Chất là cái
gián đoạn, được tạo ra từ các hạt, có khối lượng, có cấu trúc thứ bậc từ nguyên
tử cho đến các thiên thể cực kỳ lớn. Còn trường là môi trường vật chất liên tục,
không có khối lượng tĩnh. Trường làm cho các hạt của nguyên tử liên kết với


Bài tiểu luận Triết học

nhau, tác động với nhau và nhờ đó mà tồn tại được. Định nghĩa vật chất đã làm
sáng tỏ vì sao thế giơi này luôn biên đổi bởi thế giới này được cấu tạo từ vật chất
mà vật chất thì luôn vận động trong không gian và theo thời gian từ qua khứ đến
tương lai. Chính vì thế mà vật chất mang thuộc tính phổ biến, vật chất tồn tại ở
nhiều dang khác nhau, có mặt ở mọi nơi trên thế giới. Đó là bởi vì bản chất của
thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Mọi bộ phận của thế giới
vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là
những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc
vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách
quan phổ biến của thế giới vật chất. Chính từ kết luận này mà các nhà khoa học
nói chung và các nhà triết học nói riêng đã có một cơ sở chính xác để học tập và
nghiên cứu từ đó hình thành những thế giới quan chính xác đúng đắn.
Ý thức

Phản ánh là thuộc tính phổ biến trong mọi dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả
hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác
động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Trong quá trình tiến hóa của
thế giới vật chất. Các vật thể càng ở bậc thang cao bao nhiêu thì hình thức phản
ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu. Hình thức phản ánh đơn giản nhất là phản

ánh vật lý, hóa học (giới tự nhiên vô sinh), rồi đến phản ánh sinh học (giới tự
nhiên sống), cao hơn là tính kích thích (các cơ thể sống đơn giản nhất ). Hình
thức phản ánh tiếp theo tính cảm ứng (các động vật chưa có hệ thần kinh ), hơn
nữa là các phản xạ (các động vật có hệ thống thần kinh). Cao hơn nữa là tâm lý
(động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương). Tâm lý chỉ là câu trả lời có
tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh
học chi phối. Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. ý
thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất cùng với sự
xuất hiện con người. Ý thức là ý thức con người, nằm trong con người, không
thể tách rời con người.Sự phát triển ý thức là do hai mặt là tự nhiên và xã hội
quyết định. Nguồn gốc tự nhiên bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật
chất xung quanh) cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức. Cuộc sống con người không thể thiếu lao động và giao
tiếp, đó chính là nguồn gốc xã hội của ý thức. Nếu như con người không có lao
động thì chẳng khác gì các loài vật. Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt
động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ


Bài tiểu luận Triết học

óc người là quá trình năng động sáng tạo chính vì thế cho nên cần gắn kết con
người với thực tiễn xã hội.
1.2.2. Quan điểm vật chất về xã hội

Xã hội tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan

Xã hội loài người đã có từ rất lâu nhưng đã có rất nhiều lần thay đổi kiểu xã hội,
tại sao không chỉ có một kiểu xã hội thống nhất từ xưa đến nay. Nguyên nhân
của sự thay đổi xã hội này không phải là ý muốn chủ quan của con mỗi người.
Mà là do nguyên nhân bên trong của mỗi xã hội ở mỗi thời kì. Đặc trưng của

mỗi xã hội đó chính là do phương thức sản xuất quyết định; mà phương thức sản
xuất lại do sự thống nhất và tác động qua lại giữ lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất trình độ của lực lượng
sản xuất sẽ thúc đẩy giữ lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy xã hội phát triển;
ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất cũng như cảu toàn bộ xã hội. Chính vì thế mà xã hội muốn tồn tại và
phát triển thì cần tuân theo quy luật khách quan. Nếu phương thức sản xuất
không tuân theo quy luật khách quan nghĩa không còn thích hợp với yêu cầu
khách quan nữa thì ngay lập tức sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất
khác đồng nghĩa với một hình thái xã hội khác.
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội

Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã
hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con
người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau,
trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Sản
xuất một phần của hoạt động lao động, sản xuất chính là nguồn gốc và cơ sở của
đời sống con người; nếu không có lao động thì chúng ta chẳng khác gì loài vật.
Sản xuất là hoạt động tác động vào tự nhiên nhằm cải biến tự nhiên tạo ra của
cải vật chất để thỏa mãn đời sông của con người. Trong quá trình lao động sản
xuất chính con người cũng được cải biến, tiến bộ hơn thích nghi với cuộc sống
đang biến đổi không ngừng. Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không thỏa mãn với
những cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, mà luôn luôn tiến hành sản xuất vật chất
nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa
dạng của con người. Nhu cầu về cuộc sống con người ngày càng lớn lên đòi hỏi
con người cần phải lao động nhiều hơn tạo ra nhiều của cải để có thể làm thỏa



Bài tiểu luận Triết học

mãn nhu cầu của chính chúng ta. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho
sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các
mặt của đời sống xã hội. Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền,
đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, v.v. đều hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất
vật chất. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi
tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật
chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự
biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ
thấp đến cao.Chính vì vậy sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. V.I.Lênin khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống
vật chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người và người đã cho rằng: việc
anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh đẻ con cái và anh chế tạo ra các sản
phẩm, anh trao đổi sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan gồm
những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức xã hội của anh
và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó. Các yếu tố
chính tạo thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số... trong đó phương thức sản
xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Tồn tại xã hội tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao
gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,... của
những cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển nhất định. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn
tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm
phong phú nhau. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ý thức

xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do ba nguyên nhân chính: Một là,
tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ của những hoạt động thực tiễn của con
người, thường biến đổi với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội phản ánh không kịp
và trở nên lạc hậu. Mặt khác, về bản chất ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại
xã hội, nên nó phải có sau tồn tại xã hội và khi tồn tại xã hội đã biến đổi thì ý
thức xã hội mới biến đổi theo. Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống,
tập quán cũng như tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội. Ba
là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội. Ý thức xã hội cũng có thể vượt trước tồn
tại xã hội. ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình. Trong sự


Bài tiểu luận Triết học

phát triển của các hình thái ý thức xã hội, các hình thái ý thức luôn luôn tác động
qua lại lẫn nhau. Một biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội là ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
1.3. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với khoa học chuyên

ngành
Trong triết học Mac-Lenin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng
duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học MacLênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng
duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp pháp mà còn là lý luận về thế giới quan.
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định hướng
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành nguyên tắc xuất phát điểm của phương
pháp luận. Như vậy, trong triết học Mac- Lenin, thế giới quan và phương pháp luận
duy vật biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ
nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại". Sự phong phú do phép biện
chứng mở ra, đã đem lại khả năng bao quát được sự phong phú của thế giới tự nhiên.

Chức năng thế giới quan duy vật biện chứng đối với khoa học, được hầu hết các nhà
khoa học thừa nhận. Vấn đề ở chỗ, nếu có ai đó cho rằng, mình không cần đến một
quan điểm triết học nào, thì như thế cũng đã là có một quan điểm triết học rồi, song là
một quan điểm triết học mơ hồ. Đây cũng chính là tư tưởng của Ph.Ănghen khi ông
nói: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn
tích thông tục hóa, tồi tệ nhất của triết học”. Albert Einstein - một trong những nhà
khoa học xuất sắc nhất của thể kỷ XX không ít lần chỉ rõ các khái quát triết học cần
dựa trên các kết quả khoa học. Max Planck - nhà vật lý, cha đẻ của cơ học lượng tử đã
khẳng định rằng, thế giới quan của người nghiên cứu luôn tham gia vào việc xác định
hướng nghiên cứu của người đó.
Thế giới quan duy vật biện chứng đối với các khoa học trước hết là ở vai trò nhận thức
của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu
khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các hiện tượng ở mức độ khái quát chung và sâu
sắc hơn. Hàng loạt các phạm trù nền tảng của nhận thức được hình thành và phát triển
như là các phạm trù của triết học và các khoa học, ví dụ như các phạm trù “vật chất”,
“không gian”, “thời gian”, “vận động”, “nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,... Triết học
không đi sâu giải quyết các vấn đề khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề
thuộc về lý luận nhận thức phổ quát. Phát triển song hành cùng các khoa học cụ thể,
triết học vạch ra lôgíc của các quá trình nhận thức, trở thành phương pháp luận của
nhận thức khoa học.
Chức năng thế giới quan duy vật biện chứng đối với các khoa học là ở sự tổng kết các
thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tỏ các nguyên lý chung của chúng.


Bài tiểu luận Triết học
Tất nhiên, trong mỗi khoa học đều có sự tổng kết, khái quát các tri thức thành các
nguyên lý, các quy luật nhất định. Nhưng những tổng kết, khái quát trong mỗi khoa
học cụ thể chỉ được giới hạn trong lĩnh vực mà nó nghiên cứu. Đặc điểm của khái quát
triết học là những khái quát chung nhất, có liên quan đến các hiện tượng và các quá
trình của tự nhiên, xã hội và tinh thần.

Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển của tri thức
hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu là xu hướng
ngược lại: Xu hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một hệ thống thống
nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết
hợp của các ngành khoa học truyền thống thành các khoa học mới như lý hóa, hóa lý,
sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý..., mà còn là sự xích lại gần nhau của các
ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân văn... Chính xu hướng
liên kết này của các khoa học cho phép các nhà nghiên cứu đưa ra một bức tranh khoa
học chung về thế giới, tìm kiếm một cơ sở phương pháp luận chung thống nhất, khắc
phục tính chất phân tán manh mún của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho
sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở đây, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận
kết nối các ngành khoa học, là trung tâm phương pháp luận đem lại khả năng thâm
nhập vào các quá trình này một cách chủ động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trò ngày càng tăng của nó
trong đời sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của nó với các nhân tố, điều kiện phát triển
xã hội và con người khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định hướng giá trị của nó
trở nên cần thiết hơn. Quản lý và định hướng giá trị khoa học ở đây không phải là quản
lý sự sáng tạo khoa học, mà là quản lý các thiết chế khoa học, kế hoạch chương trình
phát triển khoa học; ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời
sống. Việc quản lý và định hướng ấy chắc chắn không thể không liên quan đến một thế
giới quan nói chung, đến những quan điểm triết học nhất định.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một quá trình phát triển lâu dài. Mối quan
hệ ấy không đơn giản, bất biến, mà phức tạp, thay đổi và trở thành một trong những
“vấn đề triết học”, nghĩa là xung quanh nó luôn tồn tại những quan điểm khác nhau.
Có thể thấy hai quan điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất, tuyệt đối hóa vai trò của triết
học, hạ thấp, coi thường vai trò của các khoa học. Quan điểm thứ hai, tuyệt đối hóa vai
trò của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết học. Cả hai quan điểm này
thực chất là cực đoan, chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một xu hướng nhất định đã
có trong lịch sử triết học và khoa học mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Có thể nói, cách
tiếp cận như vậy về mối quan hệ giữa triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy

siêu hình – lối tư duy, mà xét trong những điều kiện nhất định có thể được coi là chính
đáng, cần thiết, nhưng xét trong phạm vi phổ quát thì nó bộc lộ những hạn chế nhất
định.


Bài tiểu luận Triết học
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích cực về
mối quan hệ giữa triết học và khoa học. Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là
mối quan hệ biện chứng, thống nhất của các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ
này nằm ở chỗ, tùy từng giai đoạn phát triển cụ thể mà mặt này hay mặt kia nổi trội,
tác động của mặt này lên mặt kia không phải chỉ theo một hướng duy nhất. Các kết
luận triết học được rút ra từ khoa học có thể là tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực.
Điều đó phụ thuộc vào lý luận nhận thức của các nhà khoa học được định hướng bởi
thế giới quan triết học nào. Trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, những
phát minh mới của khoa học tự nhiên, như phát hiện ra tia X, hiện tượng phóng xạ,
điện tử,... đã làm bộc lộ những hạn chế của bức tranh cũ về thế giới vật lý, tạo nên tình
thế khủng hoảng. Phân tích “cuộc khủng hoảng của vật lý học” ấy, V.I.Lênin đã chỉ ra
rằng, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng và xuyên tạc những thành tựu có tính cách mạng
nói trên của khoa học tự nhiên; rằng, các nhà khoa học - những người xuất sắc trong
các lĩnh vực của mình, nhưng lại bộc lộ các giới hạn nhận thức trong lĩnh vực triết học.
Họ, vì không nắm vững bản chất của tư duy biện chứng, cho nên đã dao động và tìm
đến chủ nghĩa hoài nghi mà bỏ qua vai trò thực chứng trong vật lý học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. V.I.Lênin khẳng định rằng, trong trường hợp này, chỉ có nắm vững
phép biện chứng duy vật mới có thể thoát khỏi “cuộc khủng hoảng vật lý” đó.
Lý luận triết học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên
ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư
duy biện chứng thì trước những phát hiện mới, người ta dễ mất phương hướng và đi
đến những kết luận sai lầm về mặt triết học. Con đường duy nhất để khắc phục những
giáo điều, những khuôn sáo, trì trệ trong nhận thức và hành động là nắm chắc và vận
dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện chứng duy vật là phương pháp luận

chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.


Bài tiểu luận Triết học

CHƯƠNG 2:THỰC TIỄN MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYÊN NGÀNH
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VỚI TRIẾT HỌC
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN NHÂN LỰC & THƯƠNG MẠI
VINACONEX
2.1. Giới thiệu chung về Công ty CP Nhân lực & Thương mại Vinaconex

(Vinaconex MEC)
Công ty Cổ phần Nhân lực và Thương mại Vinaconex (tiền thân là Trung tâm Xuất
khẩu lao động và Thương mại Vinaconex) là đơn vị thực hiện chức năng xuất khẩu lao
động, đào tạo nghề, kinh doanh xuất nhập khẩu và du lịch thuộc Tổng công ty cổ phần
Xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam Vinaconex.
- Địa chỉ: Tầng 5, Tòa nhà 25T1 đường Trần Duy Hưng, phường Trung Hòa,
quận Cầu Giấy, Hà Nội.
- Điện thoại: +84 462511 300
- Fax: +84 462511 302
- Email:
- Website: www.vinaconexmec.vn
- Đại diện pháp lý: Nguyễn Văn Hiệp – Tổng giám đốc công ty
Vinaconex MEC là một trong những công ty hàng đầu trong hoạt động xuất khẩu lao
động: kể từ ngày thành lập, Vinaconex MEC đã đưa được hơn 80.000 lượt lao động đi
làm việc cho hơn 100 đối tác trên thế giới với nhiều nhóm nghề đa dạng và cũng là nơi
đào tạo cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho thị trường lao động trong và ngoài
nước. Tiêu chí hoạt động của Công ty là phát triển có chọn lọc thị trường và nhóm
ngành nghề, giảm thiểu lao động không có tay nghề, nâng cao chất lượng và giá trị lao
động, đào tạo nghề kết hợp với bố trí lao động tái phục vụ phát triển kinh tế nói chung.

Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Công ty Vinaconex MEC đã có Trung tâm đào
tạo nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động. Các ngành nghề đào tạo chính của Trung tâm
bao gồm: xây dựng, cơ khí kỹ thuật cao và tu nghiệp sinh. Bên cạnh đó Trung tâm còn
đào tạo ngoại ngữ và giáo dục định hướng cho người lao động về pháp luật, phong tục
tập quán, đất nước và con người nơi người lao động sẽ đến làm việc. Hoạt động của
Trung tâm đã góp phần lớn vào thành công của Công ty.
Trong suốt 20 năm xây dựng và trưởng thành, ngoài thương hiệu là một trong những
đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực cung ứng nhân lực quốc tế, Vinaconex MEC được biết
đến như một nhà cung cấp có uy tin các loại vật tư, thiết bị ngành điện, nước và môi
trường. Là nhà cung cấp của các hãng nổi tiếng trên thế giới: ABB, LS, FGWilson,
CUMIN, PAM, YONGTONG, XIN XING... tại Việt Nam.


Bài tiểu luận Triết học
2.1.1. Ngành nghề sản xuất kinh doanh

- Cung ứng công nhân Việt Nam đi lao động tại nước ngoài và đào tạo có thời
hạn;
- Đào tạo ngoại ngữ, dạy nghề và giáo dục định hướng cho người lao động;
- Nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa, sản phẩm, vật liệu;
- Thầu nhân lực cho các dự án tại Việt Nam.
2.1.2. Nhiệm vụ

Xây dựng Vinaconex MEC trở thành Công ty hàng đầu trong lĩnh vực cung cấp nguồn
nhân lực với hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững, là sự lựa chọn của các đối tác
quốc tế và địa phương
2.1.3. Giá trị cốt lõi
- Con người là tài sản có giá trị và là nguồn sức mạnh của Vinaconex MEC;
- Tinh thần làm việc theo nhóm, kỷ luật và phong cách làm việc công nghiệp tạo


nên văn hóa doanh nghiệp của Vinaconex MEC;
- Dịch vụ tốt và tốt hơn nữa mục tiêu đáp ứng yêu cầu của khách hàng;
- Khẳng định vị thế của Vinaconex MEC là thương hiệu của niềm tin.
2.1.4. Nguyên tắc hoạt động
- Vinaconex MEC phục vụ khách hàng bằng hàng hóa và dịch vụ chất lượng tốt

nhất.
- Vinaconex MEC mang đến cho công đông giá trị cổ phần cao nhất
- Vinaconex MEC đảm bảo với đối tác bằng sự tin cậy lẫn nhau và mối quan hệ

hợp tác
- Vinaconex MEC cung cấp cho nhân viên một môi trường làm việc tiêu chuẩn

về cả vật chất và tinh thần.


Bài tiểu luận Triết học
2.1.5. Cơ cấu tổ chức

2.2. Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng trong thực tiễn

quản lý hoạt động xuất khẩu lao động tại Vinaconex MEC
Trong thực tiễn quản lý hoạt động xuất khẩu lao động (XKLĐ) của Công ty Vinacinex
MEC, nhìn chung đã làm tốt công việc quản lý của mình, kịp thời nắm bắt các cơ hội
kinh doanh để tăng lợi nhuận cho Công ty. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được thì Công ty Vinaconex MEC cũng không tránh khỏi những điều còn hạn chế.
Dưới đây, do giới hạn về thời gian nghiên cứu và nội dung chỉ trọn gói trong bài báo
cáo ngắn, chúng tôi xin phép chủ yếu phân tích một số khía cạnh quản lý hoạt động
xuất khẩu lao động của Công ty Vinaconex MEC đứng trên quan điểm của phép biện
chứng duy vật của Mác để chúng ta thấy rõ ý nghĩa và giá trị của phép biện chứng duy

vật vận dụng trong thực tiễn quản lý doanh nghiệp.
2.2.1. Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật trong công tác khai thác thị

trường xuất khẩu lao động
Trong quá trình thực hiện công tác khai thác mở rộng thị trường, phát huy truyền
thống của một đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực cung cấp nhân lực uy tín trên thị trường
quốc tế, Công ty Vinaconex MEC đã tổ chức làm việc với nhiều đối tác nước ngoài
trên cơ sở thăm dò thực tiễn, tìm hiểu, phân tích đặc điểm của các thị trường để nắm
bắt nhu cầu, xây dựng định hướng phát triển, mở rộng thị trường hiệu quả. Công ty đã


Bài tiểu luận Triết học
tập trung mở rộng khai thác hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở các quốc gia
và khu vực khác nhau như: Nhật Bản, Algeria, các nước Trung Đông, Thổ Nhĩ Kỳ…
Nhờ đó, Công ty ngày càng xây dựng được thương hiệu có uy tín về lĩnh vực xuất
khẩu lao động đối với các đối tác nước ngoài.
Cụ thể hơn, Công ty Vinaconex MEC thấy rõ được vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức trong khi thực hiện công tác khai thác thị trường như doanh nghiệp tiến hành
phân tích rõ những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân doanh nghiệp, phân tích rõ
những cơ hội và nguy cơ của môi trường vĩ mô, môi trường vi mô tác động đến doanh
nghiệp như các yếu tố địa lý, văn hoá, chính sách tiếp nhận lao động, nhu cầu sử dụng
lao động tại các ngành nghề tại các quốc gia… tại các nước, nhu cầu sử dụng lao động
tại các ngành nghề cụ thể…Đồng thời, Công ty đã vận dụng được tốt quan điểm biện
chứng trong phép biện chứng duy vật của Triết học Mác đã chỉ rõ rằng các nhà quản trị
phải xem xét doanh nghiệp trong mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận động, phát
triển theo quy luật của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa để xây dựng các tốt kế hoạch, chiến lược dài hạn và công ty đã vận dụng
để xây dựng các chiến lược dài hạn về thị trường. Tại thị trường Trung Đông và Châu
Phi, đây là mảng thị trường đang được công ty chú trọng phát triển hàng đầu. Tại thị
trường Nhật Bản, Công ty nhận thấy đây là một trong những khu vực có quy mô tiếp

nhận lao động nước ngoài rất lớn, đặc biết mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực kinh
tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật giữa nước ta với khu vực này đang ở giai đoạn phát
triển tốt đẹp nên Công ty đã và đang tập trung phát triển lâu dài tại thị trường này.
Ngoài ra, các thị trường tiềm năng như: Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Cộng hòa Séc... cũng
được Công ty chú ý đẩy mạnh phát triển.
Nhờ có định hướng rõ ràng trong các hoạt động thực tiễn nghiên cứu thị trường, trong
năm 2015, Công ty đã đạt được các kết quả tốt trong hoạt động xuất khẩu lao động tại
03 thị trường quan trọng như: Thị trường Nhật Bản: Công ty đã đưa được 138 lao động
(trong khi đó số lượng theo kế hoạch là 130 lao động) đây là tín hiệu tốt cho hoạt động
xuất khẩu lao động, ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp, phù hợp với tay nghề lao
động của lao động Việt Nam với mức lương cao và ổn định; Thị trường Algeria: Công
ty đã đưa được 812 lao động (trong khi đó số lượng theo kế hoạch là 700 lao động)
ngành nghề chủ yếu là xây dựng phù hợp với tay nghề của lao động Việt nam với mức
lương cao và ổn định; Thị trường Rumani: Công ty đã đưa được 268 lao động (trong
khi đó kế hoạch là 200 lao động) ngành nghề chủ yếu là thợ hàn với mức lương cao và
ổn định.
Tuy nhiên, trong chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp lại thể hiện tư tưởng duy tâm, chủ
quan, duy ý chí vì đã có những lúc doanh nghiệp đặt ra kế hoạch quá cao, vượt xa khỏi
khả năng thực tế năng lực của doanh nghiệp, ví dụ đối với thị trường Đài Loan, năm
2015, Công ty có kế hoạch xuất khẩu 150 lao động trong khi đó Công ty chỉ đưa được
30 lao động, chính vì vậy trong cùng năm mà Công ty tiến hành giải thể Cơ sở đào tạo


Bài tiểu luận Triết học
và tuyển chọn lao động Đài Loan. Điều này cho thấy ban lãnh đạo đôi khi lại xuất phát
từ nguyện vọng chủ quan để xây dựng kế hoạch xuất khẩu lao động tại các thị trường,
họ đã coi nhẹ “sự tồn tại” của sự vật khách quan, họ đã rơi bào chủ nghĩa duy tâm.
Mác và Lê nin đã dạy chúng ta rằng, chúng ta cần phải xuất phát từ sự tồn tại khách
quan để rút ra những quy luật trong đó để hướng dẫn cho hành động của chúng ta. Do
đó các nhà quản lý cần nhìn vào tình hình thực tế để thay đổi, khắc phục.

2.2.2. Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật trong công tác tuyển chọn và

đào tạo lao động xuất khẩu
Tại Công ty Vinaconex MEC, quy luật Lượng - Chất được vận dụng triệt để qua việc
Công ty đặc biệt chú trọng và đặt nhiệm vụ nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu
lên hàng đầu. Công ty đã xây dựng và quảng bá được dịch vụ xuất khẩu lao động đến
các địa phương, thôn, xã ở tất cả các tỉnh phía Bắc. Thiết lập được hệ thống mạng lưới,
đại lý tại các địa phương để tạo nguồn lao động và phát triển nguồn nhân lực lao động
cho Công ty. Đồng thời, đã xây dựng được cơ chế khuyến khích, thưởng vật chất cho
các đại lý nhằm khuyến khích họ chủ động tìm kiếm và tuyển lao động cho Công ty.
Như vậy, trong những năm qua Công ty luôn ổn định được nguồn lao động trong nước,
đảm bảo về số lượng và chất lượng cho các đơn hàng của các đối tác nước ngoài cung
cấp, đặt hàng.
Tuy nhiên, việc tuyển mộ, tuyển chọn lao động của Công ty vẫn còn hạn chế. Quá
trình tuyển chọn nhân lực là khâu quan trọng nhằm giúp cho các nhà quản trị nhân lực
đưa ra được các quyết định tuyển chọn một cách đúng đắn nhất. Cơ sở của quá trình
tuyển chọn là các yêu cầu của công việc đã được đề ra theo bản mô tả công việc và
bản yêu cầu đối với người thực hiện công việc. Tuy nhiên, trên thực tế công tác này
vẫn gặp phải những bất cập. Việc bỏ sót hoặc tuyển chọn sai đối tượng vẫn còn, chi
phí cho công tác tuyển mộ, tuyển chọn rất lớn mà hiệu quả thì chưa đạt được yêu cầu
đặt ra,…Qua đây cho thấy nguyên tắc toàn diện trong Triết học Mác rất quan trọng, nó
giúp ta có cái nhìn mang tính hệ thống trong toàn doanh nghiệp, không vì cứ thiếu là
tuyển vào, gây lãng phí cho doanh nghiệp.
Trong công tác đào tạo, Công ty Vinaconex MEC đã xây dựng được quy trình đào tạo
khá tốt. Xuất phát từ tình hình thực tế như nhu cầu lao động của các đối tác, sự cạnh
tranh về chất lượng lao động của các đối thủ trong nước, Công ty rất chú trọng đến
công tác đạo tạo, giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu như Công ty đã đầu tư
xây dựng các Trung tâm đào tạo ngoại ngữ, đào tạo về kỹ thuật Hàn và Cơ khí, đào tạo
xây dựng… Trong năm 2015, Trung tâm đào tạo Vinaconec MEC tại xã Phú Cường,
huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội được Công ty đầu tư hơn 10 tỷ đồng đã phát huy hiệu quả

rất tốt, giúp Công ty chủ động hơn trong công tác đào tạo lao động xuất khẩu. Điều
này cho thấy Công ty Vinaconex Mec đã nhận thức rõ nguyên lý về sự phát triển của
phép biện chứng duy vật của Mác. Theo quan điểm của nguyên lý về sự phát triển thì
các nhà quản lý của Vinaconex MEC đã xem sự vận động của doanh nghiệp là theo


Bài tiểu luận Triết học
hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Cho nên các nhà lãnh đạo đã tiến hành nghiên cứu từ yêu cầu thực tế để
phát hiện ra những nhân tố tích cực, những con người còn yếu cần bổ khuyết và tổ
chức đào tạo, bổ dưỡng để đẩy nhanh sự phát triển đi lên của doanh nghiệp. Phát triển
nguồn nhân lực là vấn đề cốt lõi, là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp có thể phát huy
được nội lực và phát triển bền vững.
2.2.3. Thực trạng vận dụng thế giới quan duy vật trong công tác quản lý lao động

xuất khẩu
Các nhà quản trị Vinaconex MEC nhận thức rõ công tác quản lý lao động xuất khẩu
của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu
lao động. Công ty đã mở được các văn phòng đại diện ở các nước có lao động đến làm
việc, các văn phòng này vừa khai thác, tìm kiếm… các đơn hàng lao động cho công ty
đồng thời vừa quản lý và giải quyết các vấn đề liên quan đến người lao động khi làm
việc ở nước ngoài. Mặt khác, Công ty thường xuyên phối hợp chắt chẽ với các đối tác
sử dụng lao động và ban quản lý lao động của Việt Nam tại các thị tường để tăng
cường sự giúp đỡ của họ trong việc quản lý lao động ở nước ngoài. Điều này cho thấy
các nhà quản trị Vianconex MEC đã nhận thức rõ được nguyên tắc toàn diện trong triết
học Mác. Nguyên tắc này đòi hỏi các nhà quản trị phải xem doanh nghiệp như là một
hệ thống do đó khi tiến hành quản lý lao động thì phải đảm bảo quản lý trong và ngoài,
trước và sau quá trình xuất khẩu lao động. Nhờ đó mà Công ty đã giảm thiểu được một
phần nào những tranh chấp cũng như biến cố bất thường xảy ra cả trong nước và ngoài
nước.


2.3.


Bài tiểu luận Triết học

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VẬN DỤNG HIỆU QUẢ THẾ
GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VINACONEX MEC
Nói chung Vinaconex MEC là một đơn vị kinh doanh hiệu quả trong Tổng công ty cổ
phần Xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam Vinaconex, đã có những đóng góp rất to
lớn cho Tổng công ty nói riêng và cho ngành xuất khẩu lao động trong nước nói
chung. Tuy nhiên, để Vinaconex MEC phát triển hơn nữa, chúng tôi xin đề xuất một số
nội dung dựa trên quan điểm phép biện chứng duy vật của triết học Mác như sau:
3.1. Tránh tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí
Để quản lý doanh nghiệp hiệu quả thì đòi hỏi các nhà quản trị của Vinaconex MEC nói
riêng cũng như của Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam
Vinaconex nói chung phải hiểu rõ và vận dụng tốt quan điểm biện chứng trong phép
biện chứng duy vật của Triết học Mác, tránh tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí
trong quản lý sản xuất kinh doanh. Biểu hiện của tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý
chí trong quản lý sản xuất kinh doanh tại Vinaconex MEC ở các mặt sau đây:
Tư tưởng chỉ đạo thoát ly điều kiện hiện thực khách quan một cách nghiêm trọng. Nó
biểu hiện trong việc xác định các chỉ tiêu, đặt ra kế hoạch sản xuất kinh doanh quá
mạo hiểm, thiếu tính nhìn xa trông rộng trong việc chỉ đạo sản xuất kinh doanh. Do
vậy, cần phải xuất phát từ điều kiện và khả năng thực tế của đơn vị, xu hướng phát
triển của đơn vị, kết hợp với những tác động của môi trường như chính sách Nhà
nước, sự ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh, nhu cầu, khách hàng,... từ đó tiến hành xây
dựng hoặc giao chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp.
Tách con người ra khỏi sự vật, không thấy hết vai trò to lớn, phát huy được tính năng
động của quan của con người. Biểu hiện đó là sau khi đặt ra kế hoạch sản xuất kinh

doanh thì thiếu những biện pháp cụ thể về kỹ thuật, sản xuất, kinh doanh để tổ chức
thực hiện kế hoạch. Điều này sẽ khó đảm bảo cho việc hoàn thành và hoàn thành vượt
mức kế hoạch.
Gặp những vấn đề sản xuất kinh doanh phức tạp, không tìm ra “đầu mối” (yếu tố then
chốt), tức là không vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Do đó mà
không thể giải quyết thẳng vào vấn đề một cách nhanh chóng, không giải quyết được
mặt chủ yếu để thúc đẩy các mặt khác nhau, cũng không thể chuyển hóa nhân tố tiêu
cực thành nhân tố tích cực thúc đẩy sản xuất kinh doanh một cách nhanh chóng. Cụ
thể ở đây chính là trong việc hoạch định tác nghiệp: khi giao chỉ tiêu lao động xuất
khẩu mỗi năm tại các thị trường mà công ty đang khai thác thì cần phải tìm ra nguyên
nhân chủ yếu. Khi tìm ra được nguyên nhân chủ yếu thì chỉ cần giải quyết nguyên
nhân đó thì sẽ dẫn đến kết quả là số lượng lao động được đưa đi xuất khẩu tốt hơn, có
thể đạt và vượt kế hoạch (dĩ nhiên là với điều kiện kế hoạch được xây dựng hợp lý).


Bài tiểu luận Triết học
Tóm lại, ở bất cứ nơi nào, bất cứ người quản lý nào, nếu mắc bệnh duy tâm chủ quan,
duy ý chí thì trong chỉ đạo sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ dẫn đến sản xuất kinh doanh
đình trệ, kém hiệu quả kinh tế, nhân viên thiếu yên tâm, môi trường kinh doanh bất ổn.
V.I Lênin dạy rằng thoát ly chủ nghĩa duy vật biện chứng rất có thể ngã theo chủ nghĩa
duy tâm chủ quan, duy ý chí. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, muốn nâng cao trình độ sản
xuất kinh doanh, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh phát triển, thì cần phải khắc phục căn
bệnh tư tưởng duy tâm chủ quan của những cán bộ quản lý.
3.2. Nhà quản trị phải nắm bắt được chính xác các quy luật khách quan
Mác-Lê nin đã dạy chúng ta cần phải xuất phát từ sự vật tồn tại khách quan, rút ra
những quy luật trong đó để hướng dẫn cho hành động của chúng ta. Để đạt mục đích
đó, các nhà quản lý Vinaconex MEC phải thu thập, phân tích, xử lý một cách khoa học
những thông tin thực tế. Nếu chỉ lao vào công tác thực tế, không chú ý đến việc nghiên
cứu tình hình khách quan, khái quát thông tin lý luận, chỉ đơn thuần dựa vào nhiệt
tình, lấy ý muốn chủ quan của mình định ra chủ trương, đưa ra những quyết định công

việc là không đúng cả về lý luận và phương pháp. Nếu các nhà quản trị không chịu
trách nhiệm nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp,
không chịu tính đến điều kiện hiện thực và đề ra những chủ trương, kế hoạch tùy tiện
chủ quan để chỉ đạo và sắp đặt sản xuất thì doanh nghiệp không thể tránh khỏi sự trì
trệ, bất ổn là luôn nảy sinh vấn đề phức tạp. Do vậy, các nhà quản trị cần phải xem xét
tỉ mỉ mọi điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh (điều tra, tính toán) sau đó người
quản lý mới căn cứ vào điều kiện nào có thể tranh thủ được để xây dựng kế hoạch thực
hiện. Có kế hoạch cụ thể, thiết thực như vậy sẽ chỉ đạo công việc thuận lợi và đẩy
mạnh sản xuất kinh doanh phát triển. Đó là vấn đề căn bản của nhận thức luận duy vật
biện chứng: coi vấn đề tồn tại là tình thứ nhất, tư duy là tính thứ hai.
Trong Vinaconex MEC, nếu các nhà quản trị tiến hành phân tích bản thân doanh
nghiệp như là một hệ thống theo quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật,
bao gồm: các mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, bộ phận, thuộc tính khác nhau bên
trong doanh nghiệp trong mối liên hệ qua lại giữa môi trường bên ngoài doanh nghiệp
như các đối thủ cạnh tranh các chính sách tác động của nhà nước,.... trên cơ sở xem xét
đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ và nắm bắt đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất
quy định sự vận động, phát triển của doanh nghiệp thì chắc chắn các nhà quản trị sẽ có
thể tìm ra được quy luật để phát triển của doanh nghiệp tốt nhất. Ví dụ như phần thực
trạng đã phân tích thì sau khi tiến hành phân tích doanh nghiệp thì ắt hẳn các nhà quản
trị sẽ tìm ra được điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh
tranh, phát hiện ra được các cơ hội và nguy cơ đe dọa đối với doanh nghiệp. Từ đó sẽ
giúp các nhà quản trị hiểu rõ hơn về bản thân doanh nghiệp tương lai. Trên cơ sở đó sẽ
giúp doanh nghiệp sẽ dễ dàng xây dựng được các chính sách, kế hoạch hoạt động, kế
hoạch tác nghiệp tiếp theo một cách hiệu quả cho doanh nghiệp. Tiếp theo doanh


Bài tiểu luận Triết học
nghiệp sẽ dễ dàng xây dựng được các chính sách, kế hoạch hoạt động, kế hoạch tác
nghiệp tiếp theo một cách hiệu quả cho doanh nghiệp.
Sự phát triển của sản xuất kinh doanh cũng như sự phát triển của bất cứ sự vật nào

khác đều có tính quy luật khách quan. Do đó, người quản lý cần phải cố gắng phân
tích cụ thể tất cả mọi sự vật cụ thể nhận thức được những quy luật khách quan vốn có
của bản thân những sự vật đó. Nắm chắc được tính quy luật của những sự vật ấy, đưa
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với quy luật của những sự
vật ấy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Do vậy cơ cấu hiện tại đứng trên
quan điểm biện chứng và nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật thì
cơ cấu này không còn phù hợp nữa. Cho nên các nhà quản trị phải vận dụng quan điểm
toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, kết hợp với quy luật phủ định của phủ định trong
phép viện chứng duy vật để nghiên cứu và tìm ra cơ cấu mới phù hợp để thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển hơn nếu không muốn doanh nghiệp bị trì trệ, chậm phát triển.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và
phải nắm được đâu là mối liên hệ, bản chất quy định sự vận động, phát triển của doanh
nghiệp. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi các nhà quản trị phải nghiên cứu cơ cấu
trong suốt quá trình hình thành và phát triển gắn với không gian, thời gian, điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau của nó; quy định mang tính kế thừa, cái mới nhất
định sẽ thay thể cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu, nhưng cái mới
ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Một ví dụ khác là việc
xem xét chuyển 20% nhân viên văn phòng thành nhân viên kinh doanh thì rõ ràng nếu
ta đứng trên quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật thì ta sẽ hiểu được
nhứng mối quan hệ với vấn đề này, đâu là những mối liên hệ chủ yếu, tùy tình hình đòi
hỏi thực tế tại đơn vị từ đó ta sẽ có được biện pháp giải quyết phù hợp thúc đẩy doanh
nghiệp phát triển tốt hơn.
Nên xem xét vận dụng rộng rãi hơn nữa quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập trong quản lý doanh nghiệp vì đây là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật.
Tuy nhiên lưu ý trong doanh nghiệp và giải quyết mâu thuẫn cần phải quan điểm lịch
sự - cụ thể, tức là biết phân tích và phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn
trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định, những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra
phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
Nhận thức được quy luật tính khách quan của các sự vật, hiện tượng là điều kiện tiên
quyết nắm đúng được bản chất của sự vật, hiện tượng là điều kiện tiên quyết nắm đúng

được bản chất của sự vật, hướng hoạt động của sự vật theo mục tiêu và lợi ích của con
người. Để làm được điều đó, các nhà quản trị phải tác động trực tiếp, nghiên cứu kỹ
lưỡng các yếu tố sản xuất kinh doanh lặp đi, lặp lại nhiều lần để cho quy luật được bộc
lộ mà nhận thức nó. Chỉ có thể có được những khái quát lý luận chính xác một khi
tổng kết những bài học kinh nghiệm phong phú, kịp thời (tất nhiên có cả những kinh


Bài tiểu luận Triết học
nghiệm thành công và những kinh nghiệm không thành công, kể cả những sai lầm, thất
bại).
3.3. Phải tiếp tục phát huy tính sáng tạo trong công tác quản lý
Là người quản lý doanh nghiệp, đòi hỏi phải có cách nhìn bao quát mọi hoạt động, lực
lượng, yếu tố khách quan cũng như chủ quan của đơn vị. Phải có đánh giá hết sức xác
đáng tình trạng hiện tại và xu hướng tương lai của đơn vị, cả thế mạnh và hạn chế, cả
cái tích cực và cái tiêu cực của từng bộ phận, phòng ban, thậm chí từng con người
trong tổ chức. Chỉ có thể làm tốt được điều đó một khi có cách nhìn, đánh giá doanh
nghiệp trong quá trình vận động, biến đổi chứ không tĩnh lại. Những người quản lý
doanh nghiệp mà quá “coi trọng quá khứ, xem nhẹ hiện đại”, đó là sự biểu hiện của
chủ nghĩa kinh nghiệm, hẹp hòi, biểu hiện của sự mê tín truyền thống. Tất nhiên theo
quy luật phủ định biện chứng là phủ định chứa đựng tính kế thừa, giữ lại những nội
dung tích cực của cái bị phủ định. Cần phá bỏ triệt để tư tưởng ngụy biện bám lấy
truyền thống cũ mà rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm. Phải mạnh dạn phá bỏ cái cũ trì
trệ, xây dựng cái mới, phê phán triệt để đối với cơ cấu cũ, những quy trình kỹ thuật cũ,
quy chế cũ lạc hậu để cho cơ cấu mới, những quy trình sáng tạo mới phát triển, đẩy
mạnh được lực lượng sản xuất và năng suất lao động của nhân viên.
3.4. Phát hiện kịp thời, phân tích và giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng

chỗ, đủ điều kiện
Phép biện chứng duy vật của Mác cho rằng, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập là quy luật cơ bản, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển vũ trụ. Quy

luật đó dù ở trong giới tự nhiên, xã hội loài người hay trong tư tưởng con người thì nó
đều tồn tại phổ biến. Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất, vừa đấu tranh, do
đó nó không ngừng thúc đẩy sự vận động và phát triển của sự vật. Mâu thuẫn là quy
luật phổ biến của vũ trụ nên trong linh vực sản xuất kinh doanh luôn tồn tại mâu thuẫn.
Khắc phục những mâu thuẫn trong sản xuất kinh doanh tức là thúc đẩy được quá trình
sản xuất kinh doanh phát triển hơn một bước.
Cải cách cơ cấu quản lý doanh nghiệp, cải cách quy chế là một trong những điều kiện
để giải phóng sức sản xuất, giải phóng tính năng động, sáng tạo, tính tích cực sản xuất
của quần chúng. Xã hội phát triển không ngừng đòi hỏi phải có quan điểm thống nhất,
toàn diện, khách quan, thực tiễn; phải tính đến tất cả các mặt, các yếu tố trong điều
kiện cụ thể, tình hình cụ thể, không thể coi nhẹ hoặc lược bỏ đi mặt nào được.


×