Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Vấn đề giải thoát trong triết học Ấn Độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.69 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN 1:
VẤN ĐỀ GIẢI THOÁT TRONG TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
MỞ BÀI
Ấn Độ là một trong những trung tâm văn hóa và tư tưởng lớn của Phương
Đông cổ đại. Là một vương quốc của tâm linh, nên Triết học Ấn Độ chịu ảnh hưởng
của những tư tưởng tôn giáo. Chính vì vậy, giữa triết học và tôn giáo rất khó phân
biệt. Tư tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh
Veda, Upanishad. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng ”hướng nội”
chứ không phải “hướng ngoại” như tôn giáo phương Tây. Vì vậy, xu hướng trội của
các hệ thống triết học - tôn giáo Ấn Độ đều tập trung lý giải và thực hành những vấn
đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” tức là
đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ. Có thể nói rằng tư tưởng
giải thoát trong hệ thống triết học là một đặc điểm nổi trội và có giá trị trong xã hội
lúc bấy giờ.
Tư tưởng giải thoát là tư tưởng chủ đạo và xuyên suốt trong tiến trình lịch sử
hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại. Các trường phái triết học Ấn độ
nói chung tuy muôn màu muôn vẻ với những khuynh hướng khác nhau, nhưng hầu
như đều tập trung vào lý giải một vấn đề then chốt nhất, đó là vấn đề bản chất, ý
nghĩa của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ đau của con người và con đường, cách thức
giải thoát cho con người khỏi bể trầm luân của cuộc đời. Hướng đến việc giải thoát
luôn là mục đích, nhiệm vụ tối cao của các trường phái triết học tôn giáo Ấn độ.
Trong điều kiện hiện nay việc tìm hiểu những giá trị trong quá khứ sẽ là cần
thiết nhằm phát huy giá trị tích cực, tạo nền tảng để xây dựng cuộc sống hiện tại.
Những giá trị tích cực đó sẽ giúp chúng ta giải quyết những vấn đề bất cập, thoát ly
được khổ đau, xóa vô minh và nhìn nhận lại bản ngã của chính mình để xây dựng
cuộc sống hiện tại hạnh phúc và tốt đẹp. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng giải thoát
trong hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó chúng ta hiểu
1


rõ hơn, sâu sắc hơn về tư tưởng giải thoát, từ đó có cách nhìn, cách đánh giá đúng đắn


khách quan nhằm tìm kiếm các giải pháp thích hợp, hạn chế giá trị tiêu cực, phát huy
các giá trị tích cực của nó.
NỘI DUNG
1. Sự hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại
Là hình thái ý thức xã hội, quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng triết
học Ấn Độ cổ đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện vật chất và sinh hoạt động xã
hội Ấn Độ cổ đại. Có thể nói một cách khái quát, Ấn Độ là một đất nước có điều kiện
tự nhiên, địa lý hết sức đa dạng nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt. Đó là một bán đảo
mênh mông, vừa có núi cao, đại dương, vừa có đồng bằng, những cao nguyên và cả
sa mạc. Chính sự mạnh mẽ và khắc nghiệt của thiên nhiên đã tác động lâu dài đến
sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần, đến phong tục tập quán, đặc biệt là tư duy
độc đáo vừa trìu tượng vừa vừa cao siêu của người Ấn Độ. Bên cạnh đó, tư tưởng
triết học Ấn Độ cổ đại cũng chịu sự chi phối sâu sắc của của chế độ xã hội nô lệ mang
đậm tính chất gia trưởng và chế độ công xã nông thôn – không chỉ là một đơn vị kinh
tế độc lập mà còn là đơn vị hành chính có quyền tự trị rất lớn, nhà nước hầu như
không can thiệp được vào nội bộ của công xã. Bên cạnh công xã nông thôn, Ân Độ có
sư phân chia đẳng cấp hết sức nghiệt ngã, trở thành gánh nặng đè nặng lên vai tất cả
người dân Ấn Độ cổ đại, khiến cuộc sống của họ vô cùng vất vả. Đó không chỉ góp
phần quy định cơ cấu, trật tự xã hội Ấn Độ mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung
và tính chất các quan điểm triết học Ấn Độ cổ đại. Bên cạnh những xung đột ngầm
trong xã hội bị kìm giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần của nhà nước – tôn giáo,
nhân dân Ấn Độ vẫn đạt được những thành tựu văn hóa tinh thần khá rực rỡ.
Về văn hóa, chữ viết đã được người Ấn Độ sáng tạo từ thời văn hóa Haráppa,
sau đó chữ Kharosthi (thế kỷ V-TCN) ra đời; chữ Brami được dùng rộng rãi vào thời
vua Axôca, sau cùng, nó được cách tân thành chữ Đêvanagari để viết tiếng Sanscrit.
Thành tựu nổi bật nhất của văn học gồm có các bộ sử thi như Veda, Mahabarata,
Ramayana… Nghệ thuật tạo hình như kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các
2



cung điện, đền chùa, tháp, lăng tẩm, trụ đá, các tượng phật và tượng thần… đã tạo ra
một nền điêu khắc và kiến trúc độc đáo và đặc biệt là luôn gắn với những tư tưởng
triết lý Ấn Độ cổ đại.
Về khoa học tự nhiên, người Ấn Độ đã làm ra lịch pháp, phân biệt được 5 hành
tinh và một số chòm sao; đã phát hiện ra chữ số thập phân, số , xây dựng môn đại số
học; đã biết cách tính diện tích các hình đơn giản và xác định được quan hệ giữa các
cạnh của một tam giác vuông; đã đưa ra giả thuyết nguyên tử… Người An Độ cũng
có nhiều thành tựu trong y dược học.
Về tôn giáo. Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất
là đạo Bàlamôn (về sau là đạo Hinđu) và đạo Phật; ngoài ra còn có các tôn giáo khác
như đạo Jaina, đạo Xích…
Tất cả những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội cùng sự
phát triển rực rỡ của nền văn hóa và khoa học Ấn Độ cổ đại thực sự là nhưng tiền đề
quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại.
Theo cách chia truyền thống từ thời trung cổ của người Ấn Độ, có thể chia quá
trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại thành 2 thời kỳ:
- Thời kỳ Veda – Sử thi (TK XV-TCN đến TK VII-TCN)
- Thời kỳ Phật giáo – Balamon giáo
2. Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ
2.1. Tư tưởng giải thoát thời kỳ Veda
Ở thời kỳ này, toàn bộ sinh hoạt xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân Ấn Độ đều được thể hiện và phản ánh tập trung trong các bộ kinh Veda và
sau đó là các bộ sử thi anh hùng ca như Ramayana, Mahabrata… Kinh Veda của thời
kỳ này mặc dù được coi là nặng về tôn giáo, nhẹ về triết lý nhưng kinh nhưng lại
được coi là khởi nguyên của tất cả các hệ thống tư tưởng tư tưởng và tôn giáo chính
thống của Ấn Độ cổ đại.
Tư tưởng giải thoát trong kinh Veda. Thực ra, Veda không do một nhân vật
nào sáng tác, mà đó là một bộ sách bao gồm nhiều câu da cao, bài thơ phú nói về sự
3



giàu đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên Ấn Độ, những tập tục, nghi lễ và các bài thánh ca
cầu nguyện các đấng thần linh… của người Arya. Với những hiện tượng tự nhiên và
xã hội ẩn dấu những điều bí ẩn, tuy là cái nôi sinh trưởng của con người nhưng lại
luôn gây ra cho họ những tai họa, bất trắc khôn lường. Do vậy người Ấn Độ cổ đại đã
tạo nên một thế giới các vị thần có tính chất tự nhiên nhằm giải thích các hiện tượng
tự nhiên phong phú, phức tạp của hiện thực. Các vị thần đầu tiên xuất hiện trong các
kinh Veda đều tượng trưng cho sức mạnh của các lực lượng, các sự vật tự nhiên mà
người Ấn Độ thờ phụng như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, lửa, nước, gió mưa, rạng
đông… Về sau, người Ấn Độ lại tạo ra nhiều biểu tượng các vị thần mới để lý giải
các hiện tượng trong lĩnh vực đạo đức, luân lý xã hội như thần ác, thần thiện, pháp
thần, thần công lý. Họ say mê gửi gắm tâm hồn, cuộc sống tự nhiên của mình vào thế
giới các vị thần linh. Họ rất sùng thượng, tín ngưỡng, cầu nguyện và hiến tế để cầu
xin sự trợ giúp của các thần linh mong cầu sự giải thoát khỏi biển khổ trầm luân của
cuộc đời trong kiếp nhân sinh. Nghĩa là cách thức và con đường giải thoát được đề ra
trong kinh Veda là thông qua việc tế tự, tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của các đấng
thần linh biểu tượng cho sức mạnh của tự nhiên và xã hội.
Tư tưởng giải thoát trong kinh Upanishad. Là một trong những kinh quan
trọng nhất của bộ kinh Veda, kinh Upanishad xuất hiện và phát triển vào khoảng thế
kỷ VIII-TCN đến TK V-TCN, là tập hợp những lời bình chú tôn giáo triết học về các
lẽ thiết yếu và ý nghĩa triết lý sâu xa của các bài kinh cũng như thần thoại Veda. Sự
xuất hiện của Upanishad đánh dấu bước chuyển quan trọng từ thế giới quan thần
thoại tôn giáo sang tư tưởng duy triết học, từ tôn giáo đa thần sang nhất thần trong
buổi đầu hình thành tư tưởng triết lý Ấn Độ. Nếu như các kinh Veda thiên về các con
đường thờ phụng cầu xin sự phù hộ và ban ơn của các đấng thần linh thì kinh
Upanishad lại nhằm mục đích lý giải vấn đề bản thể vũ trụ, thực chất bản tính con
người và mối quan hệ giữa đời sống tinh thần của con người với sự sống bất diệt của
vũ trụ, từ đó chỉ ra con đường, cách thức giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của
thế giới sự vật. Theo Upanishad, giải thoát có các đặc tính: giải thoát là sự vươn ra
4



ngoài sự chi phối của thời gian; giải thoát vượt qua mọi ảo tưởng, nhận thức được bản
thể vũ trụ tuyệt đối tối cao và chân bản tính của con người; giải thoát thoát là trạng
thái tự do tuyệt đối, vượt qua quan niệm sống chết, còn mất, tha ngã, thoát khỏi sự chi
phối của nghiệp báo luân hồi. Giải thoát chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là
việc đi tìm giải thoát, nhưng giải thoát phải tìm ở tự nơi mình, không phải là tìm ở
bên ngoài, cho nên nhân của giải thoát là tự giác, nhân của luân hồi là bất giác; Giai
đoạn thứ hai, muốn thoát luân hồi cần phải an trụ cái bản tính, và bồi dưỡng phần trí
tuệ; Giai đoạn thứ ba, phải noi theo phương pháp tu trì để mong phát minh trực quán
trí, tức là phép tu Yoga. Theo thứ tự như thế mà tu, dần dần chân ngã sẽ toàn hiện, tới
lúc chân ngã toàn hiện, thì Atman (hơi thở, linh hồn, bản thể chính yếu trong con
người) trở thành Brahman (thực tại có trước nhất và là thực tại duy nhất, tuyệt đối, tối
cao vĩnh viễn…, là bản chất của tất cả, xâm nhập và bao hàm tất cả, ở ngoài giới hạn
của không gian và thời gian), tức là giải thoát, chấm dứt luân hồi. Để nhận thức được
bản thể tuyệt đối tối cao của vũ trụ, Upanishad đã phân chia sự nhận thức của con
người thành hai trình độ hiểu biết khác nhau: trình độ nhận thức ở bậc hạ trí (sự phản
ánh thế giới sự vật hiện tượng cụ thể, hữu hình) và bậc thượng trí (“cái biết mà nhờ
đó người ta biết được cái gì chưa biết mà cũng như học rồi, chưa nghĩ mà cũng như
đã nghĩ rồi, chưa từng hiểu mà như cũng đã hiểu rồi”). Khi hiểu biết được thực tại
tuyệt đối tối cao, nhận thức được thực tướng của vạn vật và bản tính của mình, con
nguồi có thế đạt tới giác ngộ và giải thoát. Trả lời cho câu hỏi: “Cái gì là thực tại đầu
tiên tối cao duy nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ
biết cả vũ trụ, và có thể giải thoát được linh hồn con người khói nỗi khổ của cuộc
đời”, Upanishad giải đáp rằng: đó là “tinh thần vũ trụ tối cao” Bradman. Bradman
cũng chính là Atman. Atman không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi,
Atman nhỏ hơn cái nhỏ nhất, lớn hơn cái lớn nhất, là cái tiềm ẩn trong lòng tất cả mọi
chúng sinh. Vì Atman là đồng nhất với Bradman nên về bản chất linh hồn tồn tại vĩnh
viễn. Nhưng do linh hồn tồn tại trong thể xác con người nên con người ta cứ lầm
tưởng cho rằng linh hồn là cái tách biệt với tinh thần vũ trụ tối cao, là cái của con

5


người, do con người. Vì vậy, mọi hành động suy nghĩ lời nói… đều nhằm thỏa mãn
mọi ham muốn của con người trong đời sống trần tục đã che lấp đi bản tính chân thực
của con người đó, gây nên những hậu quả, giam hãm và rằng buộc linh hồn bất tử đầu
thai vào hết thân xác này đến thân xác khác, từ kiếp này sang kiếp khác, gọi là luân
hồi (samsara). Kinh Upanishad cho rằng muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng
nghiệp báo luôn hồi cần đưa linh hồn cá biệt vốn là cái thể hiện của linh hồn tối cao
trở về đồng nhất với linh hồn tối cao, tức là con người phải toàn tâm toàn ý, dốc lòng
tu luyện đọa đức và trí tuệ, nhận ra chính bản tính của mình và thực tại của vũ trị vạn
vật, đạt tới mức giác ngộ và giải thoát. Tu luyện đạo đức là hành động theo đúng bổn
phận tự nhiên, không tính toán vụ lợi, diệt mọi dục vọng, vượt ra khỏi sự ràng buộc
của thế giới đẩy rẫy những dục vọng vô thường này. Tu luyện trí tuệ là quá trình dầy
công thiền định, dốc lòng suy tư chiêm nghiệm nội tâm, bằng tri giác trực tiếp, trực
cảm, linh cảm mới đạt được chân lý tối thượng, hòa nhập vào bản thể vũ trụ tuyệt đối,
tối cao, an lạc và thanh tịnh. Các phương pháp như karma-yoga và jana-yoga đều là
những phương pháp nhận thức để đạt tới sự giác ngộ và giải thoát.
2.2. Tư tưởng giải thoát thời kỳ Phật giáo - Balamon
a. Tư tưởng giải thoát trong các trường phái triết học chính thống
Trường phái triết học Samkhya do nhà thông thái Kapila sáng lập vào khoảng
thế kỷ thứ VII-TCN là trường phái nhị nguyên luận, tức là thừa nhận sự tồn tại của
vật chất lẫn sự tồn tại của linh hồn. Phái Samkhya cho rằng, chính sự khác biệt về
linh hồn trong mỗi cá thể nên dẫn đến mỗi người có ý nghĩ và hành động cũng như lời
nói khác nhau dẫn đến nghiệp - Karman khác nhau. Vì vậy, muốn giải thoát thân-linh
hồn khỏi luân hồi sanh tử thì con người phải dốc lòng, quyết tâm tẩy sạch hết dơ bẩn,
tức là đoạn trừ tất cả nghiệp để tinh thần trở nên trong sạch, trở về với tự tính bất
sinh, bất diệt, trường tồn và bất biến. Nhưng muốn đắc quả giải thoát, theo Kapila thì
con người phải: Hiểu được hai mươi lăm thực thể thì được giải thoát mà được giải
thoát là biết được cái trí duy nhất chân chính. Cái trí duy nhất chân chính ấy là trí nội

tại, là phần anh minh của tinh thần thuần túy chứ không phải là trí thức thông thường.
6


Và khi giải phóng linh hồn khỏi thể xác thì lúc đó tất cả chỉ là tinh thần, là trí thông
minh trong sáng và tuyệt vời, trong sáng và tuyệt vời đến mức không còn khái niệm
cá thể nữa, tức là biết được rằng không có “ta”, không có cái gì thuộc về ta cả”.
Bên cạnh việc hiểu được hai mươi lăm thực thể thì Yoga là phương pháp hổ trợ
cho trí nội tại hoàn thành sứ mạng giải thoát cho vi tế thân. Đó là phương pháp mà
những người theo phái Sankhya cần phải thực hành nếu muốn giải thoát.
Trường phái triết học Yoga do đạo sĩ Patanjali sáng lập vào khoảng năm 150TCN. Yoga theo nghĩa đen là “sự đoàn kết” có nghĩa là sự đoàn kết tinh thần của linh
hồn riêng biệt với linh hồn vũ trụ, hay “hợp nhất tâm thể về một mối”. Do vậy, cơ thể
là nguồn gốc của vô minh đau khổ, do vậy phải giải thoát thoát linh hồn khỏi ảnh
hưởng của mọi giác quan, mọi rẳng buộc với cơ thể, đạt được sự giác ngộ tối cao và
vĩnh cửu bằng cách trong kiếp này gột rửa hết mọi tội lỗi của linh hồn trong các kiếp
trước. Để đạt được như vậy, con người phải kiên trì rèn luyện, khổ tu, thực hành kỷ
luật thể xác và trí tuệ dần từng bước, theo từng giai đoạn bằng 8 phương pháp tu
luyện gọi là:
Chế giới hay diệt dục (Yama) là những giới căn bản giúp chế ngự những điều
ác trong hành động, lời nói và cả trong ý thức. Bao gồm những giới: không sát sanh,
không nói dối, không trộm cắp, không có của riêng và không dâm dục, gọi là ngũ
chế. Đây là bước đầu tu luyện về đạo đức.
Nội chế (Niyama - văn hóa của bản thân) bao gồm sự thanh khiết bên ngoài và
bên trong, sự nghiên cứu học tập, dấn thân vào khổ hạnh mà tu luyện, gạt bỏ mọi việc
thế tục, không tham cầu danh lợi, tư tưởng chỉ hướng đến thần tối cao.
Tọa pháp (Asana) bao gồm những quy định, những phương pháp, những
nguyên tắc trong lúc tĩnh tọa. Ví dụ, khi ngồi không được cúi về trước, không được
ngã về sau, đỉnh đầu phải thẳng với đốt xương cùng, hay trong tư thế kiết già thì bàn
chân phải đặt lên đùi chân trái, bàn chân trái đặt lên đùi chân phải, tay phải đặt lên tay
trái, hai đầu ngón cái chạm vào nhau, toàn thân không được cử động trong suốt thời

gian thiền tọa, hoặc giả hai tay đặt lên hai đầu gối…
7


Điều tức pháp (Pranayama), tức là phương pháp kiểm soát và điều hòa hơi thở.
Trước tiên phải hít thật sâu bằng mũi thở ra bằng miệng một cách nhẹ nhàng. Phải thở
khoan thai để không ảnh hưởng đến sự tập trung của tinh thần. Khi đó, con người có
thể quên tất cả, trong tâm trí khong còn một ý niệm nào nữa mà trở nên trống rỗng,
thanh tĩnh.
Chế cảm pháp (Pratyahara) là phương pháp kiềm chế, kiểm soát các cảm giác
và chủ yếu là việc loại trừ cảm giác ra khỏi khách thể, làm chủ các giác quan, không
cho các sự vật, hiện tượng xung quanh tác động khiến các giác quan chạy theo ngoại
cảnh. Vì vậy, các hành giả thường sử dụng phương pháp “tự kỷ ám thị”- “duy lý tác
ý” để hướng các giác quan vào bên trong. Năm giai đoạn đầu được gọi là những giúp
đỡ bên ngoài đối với Yoga, và ba cấp còn lại được gọi là những giúp đõ bên trong.
Tổng trì pháp, đó là sự thu nhiếp, cột chặt tâm thần mình với một đối tượng.
Đối tượng đó có thể là đầu mũi, điểm giữa của hai chân mày, rốn hoặc trái tim hay
hình ảnh các vị thần. Đối tượng này không bắc buộc phải chọn giống nhau, miễn sao
có thể giúp giữ tâm ý kiên định trong suốt thời gian tĩnh tọa là được.
Thiền định hay Tĩnh lự pháp (Dhyana), giai đoạn này là giai đoạn tập trung tư
tưởng cao độ vào một đối tượng duy nhất trong suốt thời gian thực tập thiền định. Đó
là sự tư duy vững vàng không bị gián đoạn.
Tuệ hay Tam muội pháp (samadhi) đây là bước cuối cùng của Yoga, ở giai
đoạn này trí óc hoàn toàn hấp thụ được đối tượng của thiền định. Trong Dhyana
(bước thứ bảy) hành động của việc thiền định và đối tượng của thiền định vẫn là hai,
vẫn tách rời nhau, nhưng ở đây chúng trở thành một. Đây là trạng thái hoàn toàn làm
chủ được tâm trí, đạt đến chỗ uyên thâm, khi thành công ở giai đoạn này cũng có
nghĩa là đạt được giải thoát.
Năm giai đoạn đầu được gọi là những giúp đỡ bên ngoài đối với Yoga, và ba
cấp còn lại được gọi là những giúp đỡ bên trong.

Trường phái triết học Mimansa do triết gia Jaimini sáng lập vào khoảng thế
kỷ thứ II-TCN. Trường phái này bàn về hành động, cùng với các nghi thức và sự hiến
8


tế của phần đầu kinh Veda. Đây là trường phái nhị nguyên luận, vì nó thừa nhận sự
tồn tại của bản nguyên tinh thần tức Brahman và bản nguyên của vũ trụ. Trường phái
Mimansa cho rằng linh hồn trong mỗi cá nhân chỉ là hiện thân của Brahman-tinh thần
vũ trụ tối cao, tuyệt đối và bất diệt. Mục đích của phái Mimansa là cung cấp những
quy tắc, theo đó các đoạn văn của Veda phải được giải thích một cách rõ ràng về mặt
triết lý cho các quan điểm có ở phần đầu của kinh Veda. Mimansa được xem như là
một trường phái là vì nó ước muốn cung cấp sự thanh tịnh về mặt triết học, về các
quan điểm của Veda, thay thế ý kiến trước đây về việc lên thiên đường bằng lý tưởng
đạt được sự giải thoát. Hay nói một cách khác là dùng nghi lễ làm phương tiện để
thoát khỏi luân hồi sinh tử. Trường phái này quan niệm linh hồn cá thể bị trói buộc,
đọa lạc là do ham muốn nhục dục của thể xác. Cho nên linh hồn bị mê mờ, mất đi sự
thanh tịnh. Và một khi linh hồn không còn sáng suốt thanh tịnh thì không thể đạt đến
sự giải thoát bằng con đường tri thức hay tư duy trừu tượng, mà chỉ có thể giải toát
bằng sự gìn giữ nghiêm ngặt và thực hiện cho đúng mọi luật lệ, quy tắc, nghi thức
được quy định trong kinh Veda.
Cho nên con đường giải thoát chỉ có thể thực hiện được bằng sự “kính cẩn giữ
truyền thống, cứ khúm núm theo đúng các nghi lễ trong các kinh sách”.
Trường phái triết học Nyaya ra đời vào khoảng thế kỷ thứ III-TCN do nhà
hiền triết Gautama sáng lập. Nyaya là trường phái nhị nguyên luận, tức là thức nhận
sự tồn tại của vật chất và linh hồn trong vũ trụ. Trường phái này cho rằng trong bản
thân các sự vật, hiện tượng và kể cả con người đều có bốn hành chất: đất, nước, lửa
và không khí. Các hành chất này được tạo bởi những hạt rất nhỏ - các nguyên tử được
gọi là Anu. Những nguyên tử -Anu là vĩnh cửu bất biến, còn vạn vật do các nguyên tử
tạo thành thì lại nhất thời, thay đổi và biến hóa. Nếu Anu được xem là các nguyên tử
các thực thể vật chất thì Ya được xem là những thực thể tinh thần tồn tại vĩnh viễn và

không thể bị tiêu diệt. Những linh hồn có thể tồn tại tự do hoặc có thể gắn liền với các
nguyên tử vật chất. Còn ý thức là thuộc tính của thực thể Ya.
9


Với họ nguyên nhân của những nỗi khổ trong cuộc sống con người là do những
linh hồn bất tử luôn bị trói buộc bởi những nguyên tử, cùng với những ham muốn vật
chất. Chính vì để thỏa mãn những ham muốn mà con người tạo ra nghiệp, từ đó linh
hồn cứ gắn kết với thể xác và bị giam hãm trong vòng luân hồi, không thể trở về với
bản tinh thanh tịnh bất sinh bất diệt được.Nếu muốn giải thoát, theo Gautama thì phải
triệt để tuân theo giới luật, thực tập thiền tọa, tạo ra nghiệp thiện, diệt mọi dục vọng,
xóa bỏ vô tri, mê muội bằng cách tư duy mạch lạc, sáng sủa hợp logic hay nhận thức
đúng đắn để đạt đến chân lý, tức là đạt tới cảnh giới thanh tịnh, an vui và giải thoát.
Trường phái triết học Vaisesika do Kanada nghĩa là “Người ăn nguyên tử” có
biệt danh là Uluka sống vào khoảng thế kỷ II-TCN sáng lập. Đến thế kỷ V-SCN học
thuyết này được phát triển phong phú trong tác phẩm Prasastapat. Theo Kanada linh
hồn có hai loại: linh hồn cá biệt và linh hồn tối cao. Linh hồn tối cao là Thượng đế,
chỉ có một và là đấng toàn minh, là nguyên nhân sáng tạo ra vũ trụ, chỉ huy các thế
giới nguyên tử và thế giới linh hồn cá biệt. Còn những linh hồn cá biệt, về bản chất
chỉ là sự biển hiện của linh hồn tối cao trong cơ thể mỗi người mà thôi.
Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi
mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào vòng
ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không giữ được bản
lai thanh tịnh của mình. Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái,
tích lũy khổ hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương
pháp đưa đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải
thấu triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá
biệt mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn.
Trường phái triết học Vedanta ra đời từ việc tổng thuật, bàn luận, giải thích
kinh Veda và Upanishad. Trường hái này chia thành hai môn phái chính: Môn phái

thứ nhất ra đời vào khoảng năm 700-750 do Shankara sáng lập, có tên Advaita nghĩa
là tuyệt đối, không nhị nguyên; môn phái thứ hai do Ramanuja (1010-1091) sáng lập
có tên Visista Advaita, nghĩa là không nhị nguyên có phân biệt.
10


Theo Shankara, trên thế giới này không có gì tồn tại vĩnh viễn tuyệt đối ngoài
Brahman. Tất cả cá sự vật, hiện tượng và kể cà Atman đều do Brahman tạo ra. Tất cả
chỉ là sự thể hiện dưới các dạng khác nhau của một thực thể tuyệt đối, duy nhất, tối
cao, bất biến - Brahman mà thôi. Shankara cho rằng có hai cái ngã: Brahman (đại
ngã) và Atman (tiểu ngã) nhưng chỉ là một. Vì Atman bị che lấy bởi thế giới vật dục,
thế giới hiện tượng biến ảo, vô thường nên mới bị trầm luân sanh tử.
Theo Shankara, con người không thể dùng nhận thức cảm giác hoặc tri năng và
quá trình logic để hòa nhập Atman với Brahman. Chỉ có thể tìm đến sự giải thoát
bằng con đường nhận thức trực giác, phép nội tỉnh và “thực nghiệm tâm linh”.
Một khi nhận thức được bản chất của Atman và Brahman thì con người sẽ trút
bỏ được mọi sự ràng buộc, mê hoặc của thế giới vật chất hữu hình, hữu hạn này. Con
người sẽ không còn lòng tham vị kỷ tư lợi, chấm dứt mọi ham muốn nhục dục, vật
chất; vượt lên mọi quan niệm thiện và ác, sống và chết, sống hòa hợp, thanh thản, vô
dục, an lạc và tự tại. Đó chính là sự giải thoát. Còn môn phái Visista Advaita cho rằng
trong vũ trụ có ba thực thể tồn tại đó là: vật chất, linh hồn cá biệt và linh hồn tối cao
Brahman. Ba thực thể tồn tại này có sự liên hệ và quy định lẫn nhau. Linh hồn cá biệt
bắt thể xác phải phục tùng nó. Còn linh tồn tối cao Brahman thống trị cả thể xác lẫn
linh hồn cá biệt. Theo môn phái này, để đạt đến sự đồng nhất giữa linh hồn cá thể và
linh hồn tối cao - giải thoát chỉ có thể thực hiện được bằng sự tu luyện, chiêm nghiệm
nội tâm, bằng tính năng động của tinh thần cộng với sự hiểu biết và lòng kính yêu
Thượng đế Brahman, ngoài cách này ra không còn cách nào khác.
Nhìn chung sáu trường phái triết học chính thống Bàlamôn giáo tuy mỗi trường
phái có quan niệm khác nhau về thế giới vật chất cũng như vai trò của đấng tối cao Thượng đế và có những đường lối tu tập riêng biệt, nhưng tất cả những trường phái
này đều lấy sự giải thoát làm mục đích cuối cùng, lấy sự tu luyện tri thức, trao dồi đạo

đức, lánh xa trần tục, tìm nơi thanh vắng để tĩnh tâm, thiền định, “thực nghiệm tâm
linh” và diệt dục làm phương châm hầu đạt đến giác ngộ và giải thoát cho mình. Tuy
tất cả các trường phái đều vạch ra con đường giải thoát nhưng con đường ấy chỉ dành
cho giai cấp thượng đẳng, chứ không phải dành cho tất cả mọi tầng lớp trong xã hội.
11


Đây là điểm hạn chế lớn nhất mà sáu trường phái chính thống vấp phải. Hạn chế này
chỉ được khắc phục khi Đạo Phật ra đời. Đức Thích Ca mâu Ni tuyên bố: không có
đẳng cấp trong giọt máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Chính vì lời tuyên bố này
mà Ngài bị chống đối kịch liệt vì đã làm đảo lộn trật tự phân biệt đẳng cấp trong xã
hội Ấn Độ thời bấy giờ. Nhưng lại được các vua quan triều đình, các trưởng giả giàu
sang, đặc biệt là những đẳng cấp dưới ủng hộ một cách chân thành nhiệt tình. Và
Ngài cho rằng: “tất cả chúng sinh đều có Phật tính”; “Ta là Phật đã thành, các ngươi
là Phật sẽ thành”. Cho nên, Ngài thu nhận tất cả những ai muốn vào giáo đoàn và
bình đẳng hướng dẫn để mọi người đều tiến đến giải thoát như nhau.
b. Tư tưởng giải thoát trong các trường phái triết học phi chính thống của
ấn độ cổ đại.
Trường phái Lokayata. Đông Ấn là vùng đồng bằng sông Hằng với điều kiện
tự nhiên, khí hậu điều hòa, đất đai phì nhiêu, màu mỡ thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp, chăn nuôi, công, thương mại và kỹ nghệ tạo nên những khu đô thị, những
trung tâm kinh tế, buôn bán sầm uất trong nước cũng như giao lưu với bên ngoài,
hình thành những tầng lớp điền chủ, đại công thương làm chủ về kinh tế, về tư tưởng
và sinh hoạt xã hội. Trên cơ sở đó đã nảy sinh những tư tưởng triết học mới với
những trường phái triết học duy vật, vô thần. Họ cố gắng giải thích thế giới bằng các
sự vật, hiện tượng của tự nhiên như nước, lửa, không khí, đất..., phủ nhận linh hồn bất
tử và đưa ra các khái niệm, phạm trù của triết học. Đặc biệt trong các trào lưu duy
vật, vô thần, hoài nghi tôn giáo và thần linh ấy là trường phái triết học duy vật
Lokayata.
Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều do bốn

nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành. Chúng có khả năng tự tồn tại, tự vận
động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng với bốn
nguyên tố là bốn nguyên tử đất, nước, lửa và không khí tồn tại ngay từ đầu, không
thay đổi và không thể tiêu diệt được.

12


Họ phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cách
kiềm chế mọi ham muốn, dục vọng và hy vọng cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia
sau khi chết. Họ chủ trương hãy để cho mọi người sống, hoạt động, hưởng thụ tất cả
mọi thứ trong cuộc đời nên đạo đức học của họ được gọi là “chủ nghĩa khoái lạc”.
Về con đường giải thoát, Lokayata là trường phái duy vật triệt để và vô thần,
khá xa lạ với tinh thần truyền thống tôn giáo của Ấn Độ nên họ đã phủ nhận thuyết
“luân hồi” và “nghiệp”, chế giễu “sự giải thoát”. Lokayata khởi xác đi từ niềm tin
rằng bên kia cõi chết chẳng có gì sống sót, Lokayata chủ trương ta nên hưởng thụ
khoái lạc tới mức cao nhất có thể được.
Trường phái Jaina. Theo dòng thời gian tư tưởng triết học của người Ấn được
phân chia theo: 1.500 tr.CN là giai đoạn thống trị của Veda và sau đó 1000 năm là
thời kỳ phán giáo của các hệ thống triết học phi chính thống nổi bật là đạo Jaina, đạo
Phật, và học thuyết Bhagavad Gita được phát triển cho đến ngày nay.
Jaina giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù
trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở
thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.
Về con đường giải thoát, phái Jaina quan niệm rằng khi linh hồn được giải
thoát, ở đó chỉ còn lại niềm tin, tri thức, đức hạnh và mọi trạng thái chân chính hoàn
hảo. Khi hết thảy các nghiệp báo ràng buộc đều bị loại bỏ, linh hồn vút lên tới bến bờ
không gian vũ trụ.
Jaina giáo mang tính vô thần chủ nghĩa. Hoàn toàn khác với Ấn giáo, Kỳ Na
giáo không có những cái tuyệt đối, không có sự hiệp nhất sau cùng của Tiểu ngã

Atman vào Ðại ngã Brahman hằng cửu.
Thay vào đó, Kỳ Na giáo cho rằng giải thoát sau cùng là sự thừa nhận rằng tinh
thần của ta mới là một thực tại tối hậu. Chính nghiệp báo chèo lái vũ trụ, chứ chẳng
phải một thần linh nào cả. Thế giới không có khởi đầu nhưng được xem là đang
chuyển động qua các thời kỳ tiến hóa và thoái hóa.
13


Quan niệm của Jaina về nghiệp quả cũng khác biệt với những truyền thống Ấn
Độ khác. Đối với đạo Jaina nghiệp quả, cũng như Phật giáo và Ấn Độ giáo, là định
luật nhân quả của vũ trụ. Nghiệp quả là một sự trói buộc về vật chất cũng nhiều như
một tiến trình tinh thần. Khi đã đạt được giải thoát (moksha) rồi, nó hiểu như là một
sự giải phóng khỏi vật chất, thoát ra khỏi sự ràng buộc của nghiệp quả đã đè nặng
linh hồn và đưa linh hồn vào cạm bẫy bằng những sự bận tâm về vật chất.
Triết lý giải thoát của đạo Jaina là trừ bỏ dục vọng, để linh hồn không còn hút
thêm karma nữa, đồng thời thực hành nếp sống khổ hạnh để giảm bớt tiến tới tiêu diệt
karma hiện hữu
Giải thoát là nội dung cốt lõi của triết học Phật giáo. Phật giáo là một trào
lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào cuối TK VI-TCN với tư cách là một hệ thống triết
lý đạo đức nhân sinh, nhằm mang lại một cuộc sống hòa bình, an lạc, hạnh phúc cho
mỗi chúng sinh trên cuộc đời, giúp con người đoạn trừ những khổ đau và tìm ra con
đường giải thoát khỏi tất cả những khổ đau của cuộc đời.
Sinh thời, Đức Phật chỉ có một mong muốn tối cao là giải thoát chúng sinh
khỏi khổ não của cuộc đời. Chúng ta có thể thâu tóm nội dung cơ bản của tư tưởng
giải thoát trong triết học Phật giáo trên các phương diện: Nhu cầu của sự giải thoát,
cội nguồn của sự giải thoát, thực chất của sự giải thoát, con đường biện pháp đưa tới
sự giải thoát, lực lượng và đối tượng của sự giải thoát. Khi nói về cuộc đời, Phật giáo
cho rằng thực tại nhân sinh là khổ, đời là bể khổ “nước mắt chúng sinh nhiều
như nước biển”. Trong Phật giáo, để đạt được giải thoát con người không cần phải
cầu cứu, cầu nguyện ở đâu hết mà trái lại con người phải tu tâm ngay bây giờ ngay ở

chính mình và tại thế giới này Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của
Kinh Upanishad. Phật giáo cho rằng, nỗi khổ của con người nhiều vô kể, nhưng có
thể phân ra làm ba thứ khổ gọi là “tam khổ” hoặc tám thứ khổ gọi là “bát khổ”.
Phật giáo không chỉ đưa ra quan niệm về nhân sinh, về nỗi khổ, về đích giải
thoát rồi để đấy, mà Phật giáo còn đi tìm lời giải cho câu hỏi: giải thoát bằng cách
nào? Làm thế nào để con người có thể giải thoát? Đó chính là quan niệm của Phật
14


giáo về con đường giải thoát. Phật giáo khẳng định cuộc đời con người là khổ song
đồng thời lại cũng khẳng định sự khổ ấy có thể loại bỏ được để đi đến Niết bàn. Con
đường mà Phật dạy để đạt đến Niết bàn nằm trong Đạo đế. Trong Đạo đế, Phật đưa ra
con đường giải thoát, diệt khổ, thực chất là tiêu diệt vô minh. Con đường dẫn đến sự
diệt khổ nhằm giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ cuộc đời bằng Tứ diệu đế và Bát
chính đạo. Cùng với Thập nhị nhân duyên, đây là tư tưởng triết lý đạo đức nhân sinh
căn bản của Phật giáo. Tứ diệu đế là 4 chân lý cao thượng, chắc chắn, hiển nhiên,
gồm:
Khổ đế: Nhân sinh quan và thế giới quan Phật giáo cho rằng cuộc đời là bể
khổ, là thung lũng nước mắt: sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, tử khổ, ái biệt
ly khổ (yêu nhau mà phải xa nhau là khổ), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải
chung sống với nhau là khổ), sở cầu bất đắc khổ (cầu mà không được là khổ) và ngũ
uẩn thịnh khổ.
Tập đế: Lý giải về nguyên nhân dẫn đến những nỗi khổ đau phiền não trong
đời người. Theo triết lý Phật giáo, nguyên nhân của những nỗi khổ đau đó là do con
người ta có lòng tham lam, sân hận, si mê và tham dục, khát ái. Dục vọng của con
người lại có nguyên nhân sâu xa từ sự vô minh, không hiểu được do nhân duyên chi
phối khiến vạn vật vạn pháp đều không thường hằng, biến ảo khôn lường mà cứ bám
víu, chấp ngã, nên ra sức hành động để chiếm đoạt cái mà chính tâm trí con người
phóng chiếu lên trên bức màn vô minh, từ đó sinh ra khổ não muôn kiếp không dứt.
Diệt đế: Phương pháp diệt trừ nỗi khổ, giải thoát con người khỏi nghiệp

chướng, luân hồi. Phật giáo cho rằng chỉ có tận diệt ái dục, xóa bỏ vô minh mới mong
thoát khỏi khổ đau, mới mong đạt tới tình trạng Niết bàn. Nhưng Niết bàn, theo Phật
giáo, không phải là cõi riêng biệt tồn tại độc lập khách quan với con người, mà nằm
chính trong tâm trí con người, ngay trên thế gian này và nhờ vào sự nỗ lực tu luyện
nghiêm túc. Trong kinh Pháp cú, Đức Phật dạy: ”Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta
làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gột rửa cho ta. Trong sạch
hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể làm người khác trở nên trong sạch”.
15


Đạo đế: Là cách thức, con đường để được giải thoát khỏi nỗi khổ. Đây là con
đường “trung đạo”, không phải là cách tu luyện khổ hạnh ép xác, cũng không phải là
chìm đắm trong dục lạc, thấp hèn, thô bỉ. Con đường để tận diệt vô minh, giải thoát,
theo Đức Phật là con đường ở giữa hai thái cực kia, là con đường tu luyện đạo đức
theo giới luật, là con đường tu luyện tri thức, trí tuệ bằng “thực nghiệm tâm linh”,
“trực giác”.
Và đó là Bát chính đạo, gồm: Chính kiến: Nhận thức đúng, nhìn nhận rõ phải
trái, không để những điều sai trái che lấp sự sáng suốt của mình; Chính tư duy: Suy
nghĩ đúng đắn để đạt tới chân lý và giác ngộ; Chính nghiệp: Hành động làm việc
đúng đắn, không làm điều gian ác, tàn bạo giả dối; Chính ngữ: Nói những điều đúng
đắn, điều phải, điều tốt, không được nói những điều gian dối, điều ác, điều xấu;
Chính mệnh: Sống đúng đắn, trung thực, nhân nghĩa, không tham lam, gian tà, vụ lợi;
Chính tinh tiến: Nỗ lực, sáng suốt, nâng lên một cách đúng đắn; Chính niệm: Phải
luôn tâm niệm và suy nghĩ đến đạo lý chân chính, đến điều tốt, không được nghĩ đến
điều xấu xa, bạo ngược; Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng tâm trí vào con
đường, đạo lý chân chính, không để bất cứ điều gì làm lay chuyển tâm trí, đạt tới giác
ngộ.
Phật giáo khái quát ba phương pháp tu tập đó gọi là “Tam học” gồm: giới, định
và tuệ. Cùng với Bát chính đạo,Phật giáo còn đưa ra phép tu tổng quát cho tất cả các
hạng phật tử, đó là Ngũ giới, tức là 5 điều răn, gồm: cấm sát sinh; cấm làm điều ác,

xấu xa, gian dối, phi nghĩa; cấm tà dâm; cấm nói dối, bịa đặt; cấm uống rượu; Và Lục
độ, tức là 6 phép tu, gồm: bố thí, tự đem công sức tài trí của cải của mình ra cứu

người; trì giới, giữ nghiêm giới luật; nhẫn nhục, sự kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu
đựng trong hành động, lời nói, không phục thù…; tinh tiến, sự cố gắng, nỗ lực vươn
lên, học tập tu luyện đạo pháp ngày một tốt hơn; thiền định, sự tập trung cao độ tâm
trí vào một chỗ để tâm được an trí; bát nhã là trí tuệ do thiền định phát sinh mà hiểu
rõ được thực tướng vạn pháp. Về sau những phương pháp tu luyện của Phật giáo còn
được bổ sung khá phong phú, song phương pháp chủ yếu vẫn là Bát chính đạo, Ngũ
16


giới và Lục độ. Trong đó Ngũ giới là phép tu bước đầu của người xuất gia tu hành;
Lục độ là phép tu của các bậc tu hành đắc đạo.
KẾT LUẬN
Được biểu hiện dưới nhiều hình thức ở khắp nơi trên thế giới, nhưng Ấn Độ
chính là cội nguồn và đỉnh cao của tư tưởng giải thoát. Đối với các trường phái triết
học và tôn giáo Ấn Độ, mục đích tối cao của đời sống con người là phải vượt qua sự
mê ngộ, vô minh, nhận ra bản tính của mình và vạn vật, hoà nhập với bản thể vũ trụ
tuyệt đối, chân thực, bằng nhận thức trực giác, “thực nghiệm tâm linh” hay là sự
chiêm nghiệm, vén mở chính thế giới nội tâm con người. Đó chính là sự giải thoát.
Tuy cùng một mục đích chung là đi tìm lẽ sống, đạo sống của con người, nhưng các
trường phái triết học Ấn Độ cổ đại lại phát triển theo nhiều khuynh hướng mang tính
chất khác nhau, khác trong quan niệm về thế giới cũng như quan niệm về nhân sinh,
dẫn đến sự khác nhau trong việc đi tìm con đường giải thoát.
Hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại cũng được xem là một thành tựu to lớn của
văn hóa thế giới, có ý nghĩa sâu sắc đối với tư tưởng nhân loại. Nếu xét trên khía
cạnh tôn giáo thì trong các trường phái của hệ thống triết học thì Phật giáo là một
trong những tôn giáo lớn nhất thế giới, phát triển rất mạnh mẽ, có ảnh hưởng đến một
số lượng dân đông đảo trên toàn thế giới.

Với những ảnh hưởng sâu rộng mà triết học và văn hoá Ấn Độ nói chung và
triết học Ấn Độ cổ đại nói riêng lan toả hàng ngàn năm qua ở Đông Nam Á, triết học
Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề của triết học, thể hiện
tính biện chứng và tầm khái quát khá sâu sắc, đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào
kho tàng di sản triết học của nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phó Doãn Chính, 1999, Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ, Nxb. Thanh
Niên, Hà Nội.
2. Doãn Chính – Trương Văn Chung – Vũ Tình, 2003, Đại cương lịch sử triết học
phương Đông cổ đại, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.
17


3. Phó Doãn Chính, 2010, Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

TIỂU LUẬN 2:
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘIỞ VIỆT NAM
Xã hội không là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên giữa các yếu tố với nhau theo
ý muốn chủ quan của con người, mà là một hệ thống trong đó các yếu tố thống nhất
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác động với tự nhiên, làm biến
đổi tự nhiên. Trên cơ sở phân tích các mặt trong đời sống xã hội và các mối quan hệ
lẫn nhau giữa chúng. Các Mác đã đi đến khái quát xã hội bằng phạm trù hình thái
kinh tế - xã hội và coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch
sử tự nhiên.
Trong triết học có đề cập đến chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản
nhất, vạch ra xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc của các
cá nhân, mà là một hệ thống vận động phát triển theo các quy luật khách quan. Lý

luận hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân
tích các hiện tượng trong đời sống xã hội. Ngày nay, mặc dầu nhân loại đã và đang có
nhiều thay đổi nhưng lý luận đó vẫn nguyên giá trị. Lý luận đó cũng luôn luôn được
Đảng ta vận dụng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
NỘI DUNG
18


1. Hình thái kinh tế - xã hội sự phát triển của quá trình lịch sử tự nhiên
1.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Xã hội không là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên giữa các yếu tố với nhau theo
ý muốn chủ quan của con người, mà là một hệ thống trong đó các yếu tố thống nhất
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác động với tự nhiên, làm biến
đổi tự nhiên. Trên cơ sở phân tích các mặt trong đời sống xã hội và các mối quan hệ
lẫn nhau giữa chúng. Các Mác đã đi đến khái quát xã hội bằng phạm trù hình thái
kinh tế - xã hội và coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch
sử tự nhiên.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp, C.Mác đã vạch ra quan hệ
sản xuất là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hệ khác, nó quy
định tính độc đáo riêng của từng xã hội trong lịch sử. Trong tác phẩm của mình, Mác
đã viết “tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là
những quan hệ xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển
lịch sử nhất định, một xã hội có tính độc đáo riêng biệt. Xã hội thời cổ, xã hội phong
kiến, xã hội tư bản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó
đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại.
Căn cứ vào các tư tưởng của Mác và Lênin, các nhà triết học macxit đã nêu ra
các định nghĩa về hình thái kinh tế - xã hội.
Theo G.E Glê-dec-man, hình thái kinh tế - xã hội là một giai đoạn lịch sử nhất
định trong sự phát triển của xã hội mà cơ sở của nó là một phương thức sản xuất đặc
trưng chỉ riêng cho nó. Đó không phải là xã hội chung chung mà là xã hội thuộc một

kiểu nhất định, hoặc là phong kiến hoặc là tư bản chủ nghĩa hoặc là cộng sản chủ
nghĩa.
Trong cuốn từ điển triết học, hình thái kinh tế - xã hội là kiểu xã hội có tính
lịch sử dựa trên cơ sở một phương thức sản xuất nhất định và biểu hiện từ chế độ
nguyên thuỷ qua chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản đến hình thái cộng sản.
19


Trong giáo trình dùng cho các trường cao đẳng, đại học Hình thái kinh tế - xã
hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Như vậy hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh có cấu
trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động
qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong đó lực lượng sản xuất là nền tảng vật
chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau
có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất
quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi
quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã
hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng,
nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia
đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với
quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
1.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá
trình lịch sử tự nhiên

Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội,
C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã
20


hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy
luật xã hội khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái
kinh tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm
thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến
trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay
thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một
cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. V.I.Lênin viết: “Chỉ có đem
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ
sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ
sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên”.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội
phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy
luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền
thống văn hóa, về điều kiện quốc tế, v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân
loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử
phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội

từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh
tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong
những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
21


Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự
ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương
pháp nghiên cứu thực sự khoa học.
Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương
thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát
từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng
trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Học thuyết đó cũng chỉ ra: xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống
nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan
hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân
tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa
chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một
cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách
quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.
Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu
nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội. V.I.Lênin viết: “Xã hội là một
cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết
thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội

như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích
một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất
định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã
hội đó”.
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài
người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó
22


vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã
hội. Đương nhiên, học thuyết đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà
chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp... “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.
Các mặt cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội không ngừng tác động qua lại
lẫn nhau, làm cho các hình thái kinh tế - xã hội không ngừng vận động và phát triển.
Theo Mác, xã hội vận động và phát triển theo các quy luật khách quan chứ không
phải theo ý muốn chủ quan của con người. Theo Lênin, sự vận động của xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên chịu sự chi phối của những quy luật không những không
phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí,
ý thức và ý định của con người. Sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy
luật đặc thù. Quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là các quy luật chi phối sự vận động, phát triển của mọi hình thái kinh tế - xã
hội. Đó là quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật phổ
biến khác. Bên cạnh các quy luật phổ biến, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn bị chi
phối bởi các quy luật đặc thù, các quy luật riêng có của từng hình thái kinh tế - xã hội.
Các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế
- xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Quá trình đó diễn ra một cách
khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Gần đây, có những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội và cho rằng phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân
chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp,

văn minh hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). Thực chất đây là
phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa vào trình độ khoa học và công
nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và các quy
luật vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
23


Việc nắm vững các quy luật vận động, phát triển phổ biến của xã hội là hết sức
cần thiết nhưng chưa đủ. Vì mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có những quy luật đặc
thù chi phối nên đòi hỏi phải làm sáng tỏ những quy luật lịch sử riêng biệt đang chi
phối sự phát sinh, tồn tại, phát triển và sự diệt vong của một cơ thể xã hội nhất định
và sự thay thế cơ thể xã hội đó bằng một cơ chế xã hội khác cao hơn. Sự tác động của
các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau
từ thấp lên cao - đó là con đường phát triển chung của nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đem lại cho khoa học xã hội một
phương pháp thực sự khoa học. Học thuyết đã chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên
không thế xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cầm quyền để giải thích các
hiện tượng trong đời sống xã hội. Học thuyết cũng chỉ ra xã họi không phải là sự kết
hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh
động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan
hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Học thuyết còn chỉ ra sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý
muốn chủ quan. Cho nên muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu
các quy luật vận động phát triển của đời sống xã hội.
Hiện nay loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt. Tuy
nhiên học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị, nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học

để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội.
2. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm rất thấp, đó là một nước
nông nghiệp lạc hậu trải qua liên tiếp chiến tranh. Vì vậy, Đảng ta đã lựa chọn con
đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự lựa chọn này
đã được Đảng ta xác định ngay trong Cương lĩnh chính trị tháng 10 năm 1930 do đồng
24


chí Trần Phú soạn thảo, đã ghi rõ: Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ
tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa.
Sự lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện thực tiễn của
Việt Nam. Từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới (năm 1986), cùng với quá trình
đổi mới nền kinh tế Đảng ta đổi mới tư duy lý luận kinh tế và nhận thức được rằng,
chúng ta bỏ qua tư bản chủ nghĩa chỉ là bỏ qua tư bản chủ nghĩa với ý nghĩa là một
phương thức sản xuất đẻ ra quan hệ bóc lột và những bất công, chỉ bỏ qua các quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa với ý nghĩa nó là một quan hệ thống trị nền kinh tế, chỉ bỏ
qua tính chát hiếu chiến và thủ đoạn bóc lột lao động làm thuê của giai cấp tư sản.
Nhưng chúng ta không bỏ qua nền kinh tế hàng hoá và những quan hệ kinh tế vốn có
của nó; không bỏ qua những thành quả về mặt khoa học kỹ thuật; trình độ tổ chức
quản lý của nền sản xuất lớn tiên tiến của tư bản chủ nghĩa; không bỏ qua những kinh
nghiệm những lý thuyết kinh tế mà tư bản chủ nghĩa đã bỏ qua nhiều thế kỷ để hình
thành và tạo lập cho nhân loại; không bỏ qua những quy luật kinh tế khách quan,
những cơ chế kinh tế tạo ra sức mạnh động lực thúc đẩy nền kinh tế.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay.

Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nó là kết quả của
sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân
công lao động xã hội, của đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữa
vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
25


×