Tải bản đầy đủ (.ppt) (19 trang)

nghề truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.29 KB, 19 trang )



Những mùa Trung Thu gần đây, nắng Sài Gòn không lung linh sắc màu
vì vắng bóng những chiếc lồng đèn tre giấy kiếng. Thế nhưng, sâu
trong lòng thành phố vẫn có một nơi mà đến mấy đời người dân vẫn
“chung thủy” với nghề làm lồng đèn: “Xóm lồng đèn”...
Gọi là “xóm” nhưng những nhà làm lồng đèn nằm rải rác từng cụm nhỏ
trong nhiều conhẻm ở 2 khu giáo xứ Phú Bình và Tân Phú Hòa
(P.Phú Trung – Q.Tân Phú và P.5 - Q.11, TP.HCM). Nơi đây còn có
tên là “khu Phú Bình” với nghề làm lồng đèn có nguồn gốc từ người
dân nhập cư từ làng Báo Đáp (xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định). Anh Quyền ngày ngày chạy xe ôm, đến độ thu về thì cùng
gia đình gồm 3 cặp anh chị em nhà vợ lao vào sản xuất lồng đèn. Mùa
thu là mùa kiếm tiền cũng là “mùa sum vầy”, cả nhà quây quần vừa
làm vừa kể chuyện tiếu lâm rôm rả. Không khí náo nhiệt khác hẳn
ngày thường mỗi người đi làm mỗi nơi. Hai vợ chồng tâm sự: “Có
theo nghề mới hiểu được những đêm phải thức trắng để làm lồng đèn
cho kịp giao, ngồi lâu tê cứng mình mẩy, bẻ kẽm sưng vù cả tay” .
XÓM LỒNG ĐÈN

Ít nhà làm những chiếc lồng đèn đặc sắc vì tốn nhiều thời gian,
công sức, nhất là ngưng trệ việc sản xuất lồng đèn loại thường
để bỏ mối. Lồng đèn to nên kẽm dùng làm khung phải to và
cứng, đòi hỏi nhiều sức để uốn nắn. Ít người đặt hàng nên lồng
đèn không có khuôn khung sẵn mà người thợ phải tự canh bẻ
khung rất khó khăn. Ở tiệm lồng đèn Thu Hà (P.Phú Trung,
Q.Tân Phú), lồng đèn rồng cao 1,2 – 1,7m có giá đến hơn 1 triệu
đồng/cặp vì mỗi chi tiết của “rồng” đều được làm tỉ mỉ. Từng
chiếc vảy được sơn kim tuyến óng ánh, mang rồng được trang
trí bằng lông thỏ bay phất phơ... Còn lồng đèn nàng tiên cá, tuy
khung là tổng thể vòng ngoài nhưng người thợ phải làm khuôn


che để phun màu mịn từng chi tiết của cơ thể “nàng tiên” rồi mới
vẽ nét thêm lên. Lồng đèn tiên cá không dùng giấy kiếng lợp
khung mà dùng giấy can để “da thịt nàng tiên” không trong suốt
như giấy kiếng. Làm lồng đèn còn khó ở khung tre: tre non mềm
nhưng hay gẫy còn tre già uốn dẻo tốt nhưng thớ tre dễ tưa
trông xấu xí.Tre dùng làm lồng đèn phải là loại lồ ô, đốt dài. Chẻ
tre cũng phức tạp: tre non chẻ dầy, tre già chẻ mỏng, thanh tre
phải đều tăm tắp...
Nhưng nghề đang mai một !

Gốm cổ Thăng Long danh bất
hư truyền
Thành cổ Hà Nội lung linh hơn
trong nắng tháng tám và cũng
trầm mặc, quyến rũ hơn bởi du
khách tới đây được thưởng
thức nét tinh tế, thanh thoát,
đậm chất dân gian của hàng
trăm hiện vật gốm Thăng Long
được chọn lọc suốt 900 năm
qua, thể hiện sự tài hoa, khéo
léo của những nghệ nhân, thợ
thủ công vùng đất Bát Tràng -
một làng khoa bảng, làng văn
hiến của đất kinh kỳ xưa, đến
nay vẫn giữ được nghề, thậm
chí trở thành mặt hàng xuất
khẩu khá uy tín.



Từ tháp đất nung đến những chóe, đỉnh, lư hương, long đình, đài sen,
chân đèn, bình vôi, chum, hũ, âu, thạp, hộp phấn, lọ hoa, đĩa kiểu gốm
của thế kỷ XI, XII đẹp cả về kiểu dáng, hình trang trí đắp nổi, từng
được chốn cung đình xưa chọn làm đồ dùng, làm quà bang giao với
Trung Quốc; đến với gian gốm sành xốp, hoa nâu thời Lý - Trần, có
thể thấy một bước tiến xa hơn cả về hình dáng đồ vật, hoa văn trang
trí và chất men trắng ngà, hoa nâu, men ngọc. Bước sang thời Lê sơ,
dòng gốm hoa lam lại cực thịnh, nhiều chủ đề sinh hoạt văn hóa tinh
thần, sản xuất của người xưa đã trở thành đề tài cho các nghệ nhân
sáng tác trên nền gốm.

Làng gốm Bát Tràng - Hà Nội cho tới nay mới có 15 người được
phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân làm gốm” và tại cuộc triển lãm
“Gốm Thăng Long” nhân dịp Quốc khánh 2-9 năm nay, nghệ nhân
Trần Độ đã gây ấn tượng sâu đậm cho du khách khi “thổi hồn” vào
những chiếc đỉnh uy nghi, tác phẩm “Rùa hóa long” sinh động, ấm 3
chân theo mẫu thời Mạc rất lãng mạn, trữ tình; nghệ nhân Vũ Đức
Thắng tinh tế trong từng nét đắp, vẽ trang trí; thợ giỏi Trần Văn Hợp
tạo nên một bộ sưu tập hoành tráng với những sản phẩm gốm óng
ánh men túy hồng, men da báo, huyết dụ, hột xoài, men kết tinh, rất
trang nhã, sang trọng, phù hợp với cuộc sống đương đại; gốm Bảo
Quang lại thiên về những sản phẩm mang tính điêu khắc, gợi nhiều
suy tưởng... Bàn tay, khối óc sáng tạo của người thợ thủ công thêm
lần nữa được tôn vinh, một nét đẹp thanh lịch trong di sản văn hóa
của người Tràng An được minh chứng.


Lưu Hoàng: Nghề sơn mài truyền thống

Xã Lưu Hoàng (Ứng Hòa) có nghề làm tranh

sơn mài truyền thống lâu đời, nhưng đã có
một thời gian dài, sản phẩm làng nghề không
tìm được thị trường tiêu thụ nên bị mai một
dần.

Những năm gần đây, nghề làm tranh sơn mài
Lưu Hoàng lại dần có bước phát triển trở lại,
hứa hẹn sức bật mới không chỉ cho nghề
truyền thống mà còn cho quá trình vươn lên
phát triển kinh tế của địa phương.


Xã Lưu Hoàng có diện tích tự nhiên 396,6ha với 5.200 nhân
khẩu; dân số tập trung tại 4 thôn Nội Lưu, Cáp Hoàng, Ngoại
Hoàng, và Thanh Bồ. Nằm xa trung tâm của tỉnh và huyện, vị trí
địa lý không thuận lợi nên đến nay, cả xã mới chỉ có duy nhất
một công ty đặt cơ sở sản xuất tại địa phương. Công nghiệp hầu
như không có, ngành nghề phụ kém phát triển nên kinh tế của
Lưu Hoàng gặp rất nhiều khó khăn. Đời sống nhân dân chủ yếu
dựa vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, xã lại thuộc vùng
chiêm trũng, mưa nắng thất thường khiến cấy trồng chẳng dễ
dàng gì. Chính vì vậy, người lao động thiếu việc làm, cả xã
thường xuyên có tới 700-800 lao động phải rời quê ra các vùng
đô thị làm thuê hoặc đi buôn bán nhỏ nhưng cuộc sống cũng
không cải thiện được là bao. Theo con số thống kê mới nhất, cả
xã hiện còn tới 159 hộ thuộc diện hộ nghèo, chiếm 14,6% dân
số, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt gần 3,5 triệu
đồng/năm. Trăn trở đi tìm lời giải cho bài toán thoát nghèo, xã
Lưu Hoàng đã đề ra chủ trương đẩy mạnh phát triển CN, TTCN,
trong đó đặc biệt quan tâm đến khôi phục lại những ngành nghề

truyền thống của địa phương.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×