Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

CƠ sở lý LUẬN VA PHƯƠNG PHÁP NGHIEN cứu về PHÁT TRIỂN NGUỒN vốn của NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.08 KB, 40 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VA PHƯƠNG
PHÁP NGHIEN CỨU VỀ PHÁT
TRIỂN NGUỒN VỐN CỦA
NGÂN HÀNG


Cơ sở lý luận
- Ngân hàng Chính sách
Ngân hàng chính sách cũng giống như các Ngân hàng thương mại là tổ
chức tài chính và trung gian tài chính nhận tiền gửi và định kênh những khoản
tiền gửi đó vào các hoạt động cho vay.
Mặc dù vậy Ngân hàng Chính sách có những điểm khác biệt so với Ngân
hàng thương mại.
Về mục tiêu hoạt động: Ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận. Ngân hàng chính sách thực hiện các chương trình tín dụng chính
sách vì mục tiêu xã hội.
Về đối tượng phục vụ: Đối tượng phục vụ của các ngân hàng chính sách
được quy định trong các văn bản pháp luật cụ thể tùy thuộc vào các đối tượng
mà các chương trình tín dụng chính sách hướng tới.
Về nguồn vốn: Nguồn vốn hoạt động ban đầu của các Ngân hàng chính
sách đều có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Trong quá trình hoạt động nguồn
vốn của ngân hàng chính sách được bổ sung từ các nguồn khác nhau như vốn
huy động, vốn vay. Sự khác biệt về nguồn vốn giữa ngân hàng chính sách và
ngân hàng thương mại sẽ được trình bầy trong những phần tiếp theo của luận
văn.
- Khái niệm và vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của ngân hàng
- Khái niệm về nguồn vốn
“Nguồn vốn của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập
hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác.” (Học viện Ngân hàng, “Giáo trình Ngân hàng thương mại”, 2014,
tr26). Ngân hàng thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức




tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi
hoat động kinh tế phát triển. Vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định
đối với việc thực hiện các chức năng cuả ngân hàng.
Vốn của ngân hàng bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay,
vốn khác. Mỗi loại vốn đề có tính chất, vai trò riêng và đều có những tác động
nhất định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đối với ngân hàng chính sách cơ cấu nguồn vốn cũng bao gồm các thành
phần cơ bản như ngân hàng thương mại nhưng đối với một số thành phần thì có
những điểm khác biệt.
Vốn chủ sở hữu (vốn tự có)
Vốn chủ sở hữu là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc
sở hữu của ngân hàng. Vốn của sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn hoạt động nhưng lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi ngân hàng ra
đời. Do tính chất thường xuyên ổn định nên ngân hàng có thể chủ động sử dụng
vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định
phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay, đầu tư góp vốn liên doanh… Mặt
khác, với chức năng bảo vệ, vốn chủ sở hữu được coi như tài sản bảo đảm lòng
tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán cho khách hàng trong trường
hợp ngân hàng hoạt động thua lỗ. Hơn nữa, Vốn chủ sở hữu còn là một căn cứ
quyết định đối với quy mô và khối lượng vốn huy động cũng như hoạt động cho
vay và bảo lãnh của ngân hàng. Quy mô tăng trưởng vốn chủ sở hữu quyết định
năng lực phát triển của ngân hàng. Khi đánh giá về quy mô của một ngân hàng,
tiêu chí đầu tiên được đề cập là vốn thuộc sở hữu của ngân hàng đó. Vốn chủ sở
hữu của ngân hàng được hình thành bởi vốn tự có cơ bản và vốn tự bổ sung:
Vốn tự có cơ bản: hay còn gọi là vốn điều lệ là vốn hình thành lúc ban
đầu khi mới thành lập ngân hàng. Tùy thuộc vào các loại hình ngân hàng mà các
loại vốn này được hình thành từ các nguồn khác nhau. Ví dụ: ngân hàng cổ phần
vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các cổ đông thông qua việc mua các



cổ phiếu, ngân hàng nước ngoài vốn điều lệ được hình thành từ 100% vốn nước
ngoài... Riêng đối với ngân hàng chính sách vốn điều lệ được hình thành từ ngân
sách nhà nước cấp.
Vốn tự bổ sung: hình thành từ lợi nhuận.Trong quá trình hoạt động, lợi
nhuận chưa chia của ngân hàng được chia thành nhiều quỹ như: Quỹ dự trữ bổ
sung vốn điều lệ; Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng; Quỹ phúc lợi, khen thưởng; Lợi
nhuận chưa chia…. Các quỹ này thuộc toàn quyền sử dụng của ngân hàng và
mỗi quỹ có một mục đích sử dụng riêng.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng chính sách hình thành do ngân sách nhà
nước cấp ban đầu khi có quyết định thành lập và tăng lên tùy theo chính sách
phát triển của từng thời kỳ. Trong quá trình hoạt động các ngân hàng chính sách
cũng có các quỹ được hình thành từ lợi nhuận.
Vốn huy động
Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, ngoài nguồn vốn thuộc chủ sở hữu
thì tất cả các nguồn vốn còn lại được coi là nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy
động của các ngân hàng thường chiếm tỷ trọng tới hơn 90% tổng nguồn vốn. Vì
vậy, các hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng tồn tại và phát triển được là nhờ
nguồn vốn huy động.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các
tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng
làm vốn để kinh doanh. Đối với vốn huy động, ngân hàng chỉ được quyền sử
dụng mà không có quyền sở hữu và phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn (cả
gốc và lãi) cho người sở hữu nguồn vốn đó. Vốn huy động là bộ phấn lớn nhất
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Ngân hàng có thể huy động vốn từ dân cư,
các tổ chức kinh tế - xã hội… với nhiều hình thức khác nhau như: tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.



Đối với ngân hàng chính sách tại Việt Nam nguồn vốn huy động không đa
dạng như với các ngân hàng thương mại, các loại hình huy động thường được
quy định rõ trong các văn bản pháp luật thành lập ngân hàng chính sách.
Vốn đi vay
Tiền gửi mà ngân hàng nhận được là nguồn vốn mà ngân hàng có được
một cách thụ động. Trong hoạt động của mình, nếu thiếu vốn thì ngân hàng phải
chủ động tìm kiếm vốn để thực hiện các hoạt động của mình. Nguồn vốn mà
ngân hàng chủ động tạo nên đó là nguồn vốn vay.
Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa ngân hàng với Ngân hàng Trung ương
hoặc giữa các ngân hàng với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Thực tế
cho thấy hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn không đồng đều giữa các ngân
hàng, ở những thời điểm có những ngân hàng thiếu vốn nhưng lại có những
ngân hàng tạm thời đang thừa vốn thì các ngân hàng này có thể vay mượn lẫn
nhau vì mục đích của cả đôi bên. Việc các ngân hàng vay mượn vốn lẫn nhau
thường diễn ra trên thị trường liên ngân hàng, kênh huy động vốn này giúp cho
các ngân hàng có thể hỗ trợ thanh khoản lẫn nhau giảm áp lực tăng lãi suất huy
động vốn để thu hút vốn tức thời. Trong những trường hợp cấp bách mà ngân
hàng không thể vay được ở các ngân hàng khác thì có thể vay ở Ngân hàng
Trung ương vì Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng đối với các
Ngân hàng thương mại. Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn
vay Ngân hàng Trung ương được chia thành các loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung,
vay để thanh toán và vay tái cấp vốn:
Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thức các ngân hàng vay vốn để bổ sung
vốn ngắn hạn của mình. Các ngân hàng chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng
và trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
Vốn để thanh toán: các ngân hàng vay Ngân hàng Trung ương để thực
hiện công tác thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời
trong thanh toán.



Tái cấp vốn: Ngân hàng Trung ương cho ngân hàng vay trên cơ sở chứng
từ có giá. Các chứng từ này phải có chất lượng, hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an
toàn. Tái cấp vốn có hai hình thức: cho vay tái chiết khấu và cho vay có bảo
đảm.
Nguồn vốn đi vay của ngân hàng chính sách là nguồn vốn vay theo chỉ
định của chính phủ trong từng thời kỳ tại ngân hàng nhà nước hoặc kho bạc nhà
nước.
Nguồn vốn khác
Nguồn vốn điều chuyển trong hệ thống
Ngày nay, các ngân hàng thường được tổ chức theo mô hình Tổng công
ty, trong đó có ngân hàng mẹ và các chi nhánh trực thuộc. Do tình hình hoạt
động của các chi nhánh tại các địa bàn khác nhau là khác nhau cho nên có những
chi nhánh sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động, ngược lại có những chi
nhánh khả năng huy động vốn vượt quá nhu cầu sử dụng nên sẽ điều chuyển một
lượng vốn về Ngân hàng mẹ để được hưởng lãi suất điều hòa. Ngân hàng mẹ
chịu trách nhiệm điều chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh
trong cùng hệ thống. Chi phí nhận nguồn vốn điều hòa thường thấp hơn chi phí
nguồn vốn huy động trên thị trường.
Nguồn vốn ủy thác đầu tư
Một số ngân hàng thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó trong
nguồn vốn của ngân hàng còn có thêm khoản mục vốn ủy thác đầu tư. Nguồn
vốn này được hình thành chủ yếu là do các tổ chức tài chính trong nước hoặc
nước ngoài ủy thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng thực hiện cho
vay đối với các dự án, cũng có thể là các khoản vay theo chỉ định của Chính
phủ.


Đối với các ngân hàng chính sách nguồn vốn ủy thác đầu tư thường là
nguồn vốn ODA, vốn của các tổ chức phi chính phủ, vốn của các hội đoàn thể

trong nước, vốn từ ngân sách địa phương.
- Vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động của ngân hàng
Ngân hàng chính sách cũng như mọi loại hình ngân hàng thương mại khác
muốn hoạt động được cần phải có vốn. Nguồn vốn giữ vai trò quyết định trong
sự tồn tại và hoạt động của Ngân hàng.
Thứ nhất, vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh. Đối
với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn,
vì vốn phản ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự có, vốn huy
động, vốn đi vay của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong việc
thành lập thì sau khi đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới quy mô đầu
tư, cho vay nên sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng.
Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh
doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương
tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực tế, ngân
hàng nào có khối lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thế mạnh cạnh tranh
trong kinh doanh.
Thứ hai, vốn quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn khả
dụng của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng, hoạt động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ hay trong hoạt động thanh toán.
Một ngân hàng có nguồn vốn hạn hẹp chắc chắn không thể mở rộng thị trường,
do không đủ nguồn lực để đầu tư. Hơn nữa, nếu nguồn vốn hạn hẹp ngân hàng
cũng khó có khả năng phản ứng nhạy bén với sự biến động về lãi suất, gây ảnh
hưởng đến khả năng thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh
tế. Nếu khả năng vốn của ngân hàng lớn thì ngân hàng có thể mở rộng quy mô


tín dụng, có thể tài trợ cho các dự án lớn và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách
hàng về các dịch vụ của ngân hàng.
Thứ ba, vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và có khả năng mở

rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín trên thị trường. Uy
tín đó được khẳng định trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách
hàng ở mọi thời điểm. Khả năng thanh toán, nói khác là khả năng thanh khoản
của ngân hàng cao chứng tỏ vốn khả dụng của ngân hàng lớn. Loại trừ các nhân
tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng
nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Vì vậy, với tiềm năng vốn
lớn, ngân hàng có thể hoạt động với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các
hoạt động cạnh tranh hiệu quả có thể giữ vững uy tín nâng cao vị thế trên thị
trường.
Thứ tư, vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Để có thể
chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc phải có chiến lược cạnh tranh hợp lý thì
khả năng tài chính luôn giữ vai trò quyết định. Nếu ngân hàng có nguồn vốn khả
dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh
tế cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay,
thậm chí cả trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Đây
cũng là điều kiện để ngân hàng bổ sung thêm vốn tự có, tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật và quy mô hoạt động trên mọi lĩnh vực. Ngoài ra, với khả năng
vốn lớn, ngân hàng có điều kiện thuận lợi để kinh doanh đa năng trên thị trường,
không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng nhiều dịch vụ mới, tham gia
vào nhiều các hoạt động đầu tư liên doanh liên kết, đầu tư trên thị trường vốn,
cho thuê tài chính, mua bán nợ… và các dịch vụ ngân hàng khác. Bằng chính
những hoạt động thường xuyên góp phần phân tán rủi ro, thu hút được nhiều
khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh… Từ đó nâng cao
hiệu quả hoạt động.


Với vai trò hết sức quan trọng của nguồn vốn, các ngân hàng nói chung và
ngân hàng chính sách nói riêng luôn phải tìm cách hoạch định, đưa ra chiến lược
huy động vốn và những chính sách quản lý nguồn vốn một cách hiệu quả nhằm
tạo lập được nguồn vốn ổn định và không ngừng tăng trưởng để phục vụ cho

hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, các nhà quản trị ngân hàng cũng luôn tìm
cách để đổi mới, hoàn thiện nguồn vốn cho phù hợp với tình hình chung của nền
kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết đưa ngân hàng đến thành
công.
- Nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng
- Nguyên tắc, mục tiêu nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng
- Nguyên tắc tạo vốn
Ngân hàng chính sách cũng như các loại hình ngân hàng khác trong quá
trình tạo nguồn vốn đều phải tuân thủ theo các nguyên tắc chung:
Việc huy động vốn phải trên cơ sở nhu cầu cho vay. Ngân hàng phải tính
toán nhu cầu cho vay để xác định số vốn cần huy động. Phải đảm bảo cân đối
giữa huy động vốn và sử dụng vốn về quy mô, thời hạn để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đầy
đủ, đúng hạn cả vốn và lãi theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng không được phát hành trái phiếu mà việc phát hành trái phiếu
đó tạo ra cho các chủ sở hữu giành được quyền quản lý trực tiếp và gián tiếp đối
với ngân hàng.
Ngoài các nguyên tắc chung nói trên, ngân hàng chính sách còn phải tuân
thủ theo các nguyên tắc riêng được quy định trong các văn bản pháp quy của
từng ngân hàng.
- Mục tiêu hoạt động tạo vốn


Nguồn vốn của ngân hàng khá đa dạng, bao gồm nhiều thành phần. Một
số thành phần không ổn định nhưng có khả năng giao dịch cao và lãi suất thấp.
Ngược lại, một số thành phần hạn chế khả năng phát hành, có tính ổn định cao
nhưng lãi suất cao. Do đó chi phí vốn, cơ cấu vốn, tính chất ổn định, thời hạn
của nguồn vốn là nhân tố quan trọng đánh giá chất lượng nguồn vốn và là mục
tiêu mà các ngân hàng hướng tới. Đây là những yếu tố quan trọng trong việc

thực hiện mục tiêu vừa đảm bảo an toàn vừa có lợi nhuận cao. Trong hoạt động
tạo vốn ngân hàng chính sách cũng hướng tới các mục tiêu này. Một số mục tiêu
cơ bản là:
Một là tìm kiếm nguồn vốn rẻ.
Chi phí trả lãi được coi là chi phí lớn nhất trong các chi phí của ngân
hàng. Trong đó lớn nhất là chi phí trả lãi đầu vào cho tiền gửi có kỳ hạn và trả
lãi trái phiếu, kỳ phiếu… Thông thường có ba cách trả lãi: trả lãi trước, trả lãi
khi đến hạn và trả lãi nhiều lần theo định kỳ. Mỗi cách trả lãi khác nhau sẽ ảnh
hưởng đến chi phí khác nhau. Quản lý chi phí trả lãi là hoạt động thường xuyên
và quan trọng của các ngân hàng. Mỗi sự thay đổi về lãi suất hay cơ cấu nguồn
vốn đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của
ngân hàng. Việc tính chi phí của từng nguồn vốn cụ thể cho phép xác định
nguồn vốn nào rẻ hơn, có nên thay đổi lãi suất hay không, thu nhập từ tài sản
tăng lên có đủ bù đắp chi phí của nguồn vốn tăng thêm hay không. Về nguyên
tắc, những nguồn vốn có thời hạn càng ngắn và tính ổn định thấp thì chi phí
nguồn vốn cũng phải thấp tương ứng. Tuy nhiên, nguồn rẻ đồng nghĩa với giảm
tính cạnh tranh của ngân hàng. Tính chi phí một cách chính xác cho phép ngân
hàng chủ động lựa chọn những nguồn vốn khác nhau và đảm bảo doanh thu đủ
bù đắp chi phí và đem lại tỷ lệ thu nhập mong đợi.
Hai là, tạo ra nguồn vốn ổn định và cơ cấu phù hợp.
Cơ cấu vốn cần đa dạng thể hiện ở việc duy trì một tỷ lệ giữa vốn huy
động ngắn hạn và dài hạn, giữa vốn nội tệ và ngoại tệ. Một ngân hàng có chất


lượng huy động vốn cao sẽ có nguồn vốn dồi dào và cơ cấu vốn cân đối, tránh
cho ngân hàng rơi vào tình trạng căng thẳng về tài chính trong điều kiện môi
trường kinh doanh thường xuyên thay đổi.
Hơn nữa, ngân hàng phải dự đoán xu hướng biến đổi cơ cấu nguồn vốn
huy động. Yếu tố này cũng rất quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch sử dụng
vốn của ngân hàng. Mỗi loại nguồn vốn có điểm mạnh, điểm yếu riêng biệt

trong việc huy động và khai thác. Do đó, sự biến động về cơ cấu vốn sẽ kéo theo
sự biến đổi trong cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh… và kéo theo sự thay đổi lợi
nhuận, rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Sự biến đổi cơ cấu vốn huy động phụ
thuộc một phần vào kế hoạch điều chỉnh của ngân hàng và những nhân tố bên
ngoài ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu và tiếp cận
thị trường.
Ba là, xây dựng quy mô và sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định.
Ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cần có quy mô vốn tương đối lớn,
trong đó vốn huy động là một bộ phận quan trọng. Không thể nói đến chất lượng
vốn động vốn nếu không đáp ứng nhu cầu về khối lượng vốn kinh doanh. Khối
lượng vốn phải đạt tới quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng.
Tuy nhiên, không phải cứ có nguồn vốn lớn đã là tốt, nguồn vốn cần
phải phù hợp với quy mô hoạt động của ngân hàng, mức vốn tự có, khả năng
cho vay đầu tư của ngân hàng… Hơn nữa, việc mở rộng hoạt động chỉ thực sự
an toàn khi nguồn vốn huy động luôn có tốc độ tăng trưởng ổn định. Nếu quy
mô vốn hiện tại lớn nhưng ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu
hướng của các dòng tiền gửi vào và rút ra trong giai đoạn tiếp theo thì sẽ rất
khó khăn trong việc cho vay, đầu tư và mất đi sự chủ động của mình.
Bốn là, điều hành tốt nguồn vốn phục vụ kinh doanh.
Trong hoạt động ngân hàng thường xuyên xảy ra tình trạng không cân đối
về vốn giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống, giữa các ngân hàng. Nếu công


tác quản lý huy động vốn hợp lý thì ngân hàng sẽ linh hoạt hơn trong việc giải
quyết tình trạng thừa thiếu tạm thời này. Một số biện pháp thường sử dụng như
điều chuyển vốn giữa các chi nhánh (trong trường hợp mất cân đối nội bộ), vay
các ngân hàng khác, vay Ngân hàng Trung ương… Chất lượng huy động ở đây
thể hiện ở việc đưa ra quyết định lựa chọn đúng đắn, có lợi nhất đối với ngân
hàng, đảm bảo sự chủ động trong kinh doanh.
Đối với ngân hàng chính sách mục tiêu của huy động vốn còn bao gồm

huy động đủ vốn để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi và giảm gánh nặng cho
ngân sách nhà nước.
- Các nghiệp vụ tạo vốn
Công cụ tạo vốn huy động
Ngân hàng chính sách cũng sử dụng các công cụ tạo vốn như các ngân
hàng thương mại, tuy nhiên tùy từng loại hình ngân hàng chính sách mà việc sử
dụng các công cụ này được thay đổi linh hoạt.
Các công cụ huy động tiền gửi
Tài khoản tiền gửi giao dịch không trả lãi
Tiền gửi giao dịch là loại tiền gửi nằm trong các tài khoản mà ngân hàng
mở cho khách hàng khi họ gửi tiền vào ngân hàng để phục vụ các nhu cầu giao
dịch. Khách hàng có quyền phát hành séc để chi trả cho bên thứ 3 hoặc rút tiền
mặt ở bất kỳ thời điểm nào. Phần lớn tiền gửi giao dịch không hưởng lãi do các
hãng kinh doanh nắm giữ. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều khách hàng đang có xu
hướng chuyển sang hình thức tiền gửi phát hành séc có hưởng lãi. Đặc điểm của
loại tiền gửi này là có mức độ biến động cao và ngân hàng khó có thể dự báo về
quy mô tiền gửi giao dịch có thể huy động. Đồng thời kỳ hạn tiềm năng của kỳ
hạn giao dịch là ngắn nhất do khách hàng có thể rút tiền không cần báo trước.
Hơn nữa mức độ giao dịch của khách hàng trên tài khoản lớn.
Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn có trả lãi


Đây là loại tài khoản giao dịch được hưởng lãi, loại tài khoản này cho
phép ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Tuy
nhiên trên thực tế ít ngân hàng sử dụng quyền đòi hỏi này. Loại tài khoản này
thường được nắm giữ bởi các cá nhân và tổ chức phi lợi nhuận.
Tiền gửi có kỳ hạn: loại tiền gửi này thường kèm theo quy định về kỳ hạn
cố định với một mức lãi suất được xác định trước hoặc theo thỏa thuận và không
có giới hạn về số tiền gửi tối thiểu.
Tiền gửi tiết kiệm: Tài khoản tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút tiền

nhàn rỗi của những người muốn dành riêng một khoản cho những mục tiêu hay
một nhu cầu về tài chính được dự tính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại
tiền gửi này thường cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch.
Các công cụ tạo vốn huy động khác
+ Chứng chỉ tiền gửi mệnh giá lớn có thể chuyển nhượng: đây là một
khoản tiền gửi nhưng bản chất thì chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng chỉ
là một hình thức giấy nợ được phát hành nhằm thu hút vốn tạm thời dư thừa của
các tổ chức, cá nhân.
+ Trái phiếu: các ngân hàng có thể huy động nguồn vốn dài hạn thông qua
việc phát hành trái phiếu. Do tính ổn định cao của nguồn vốn này nên một bộ
phận của nó có thể được coi như vốn tự có bổ sung cho ngân hàng.
Biện pháp tạo vốn huy động
Biện pháp kinh tế
Xác định chính sách lãi suất phù hợp, linh hoạt, có tác đụng đòn bẩy tác
động đến lợi ích kinh tế của khách hàng.
Vốn huy động có vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng. Vì vậy,
xác định lãi suất các dịch vụ có liên quan đến nguồn vốn huy động có vị trí đặc
biệt quan trọng trong xác định chi phí vốn. Trong hoạt động xác định chi phí
vốn, ngân hàng luôn phải giải quyết mâu thuẫn. Một mặt ngân hàng phải trả lãi


đủ cao để thu hút khách hàng. Mặt khác, phải tránh trả lãi quá cao làm ảnh
hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng do sử dụng nguồn tiền gửi đó. Trong
môi trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường chính là người có khả năng định giá.
Lúc này ngân hàng cần xác định tăng trưởng, phát triển hay lợi nhuận để xác
định lãi suất huy động.
Trong điều kiện kinh doanh bình thường, việc xác định lãi suất huy động
thường được thực hiện trên quá trình phân tích chi phí/thu nhập. Để tối đa hóa lợi
nhuận, ngân hàng cần lựa chọn quy mô hoạt động, tại đó tối thiểu hóa chi phí và
tối đa hóa lợi nhuận. Muốn vậy chi phí cận biên phải bằng doanh thu cận biên.

Việc xác định lãi suất được thực hiện theo các phương pháp:
+ Xác định lãi suất phù hợp với thời hạn huy động. Thời hạn của khoản
tiền gửi càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại.
+ Xác định lãi suất theo phương pháp thâm nhập thị trường. Theo đó ngân
hàng trả cho khách hàng mức lãi suất tiền gửi cao hơn mức lãi suất thị trường
hoặc tính mức phí thấp cho các dịch vụ liên quan đến tiền gửi nhằm thu hút
thêm nhiều khách hàng mới. Với cách làm này, ngân hàng kỳ vọng nhanh chóng
tăng doanh số hoạt động để bù đắp mức sinh lời giảm do tăng lãi suất huy động.
+ Xác định lãi bằng việc thiết lập biểu phí. Theo đó, ngân hàng dựa vào
thực tế khách hàng sử dụng tài khoản để quy định mức phí. Mức phí có thể thay
đổi do các yếu tố: số giao dịch qua tài khoản, số dư tối thiểu trong một thời gian
nhất định, đáo hạn tiền gửi. Biểu phí có thể được phân thành 3 nhóm: phí cố
định, miễn phí và sử dụng tài khoản tiền gửi miễn phí nhưng có những điều kiện
nhất định nhằm thu hút những khoản tiền lớn dưới hình thức sẽ được miễn phí
dịch vụ nếu đạt được một mức tối thiểu nào đó.
+ Phương pháp định giá tiền gửi dựa trên toàn bộ mối quan hệ giữa ngân
hàng và khách hàng. Phương pháp này căn cứ vào số lượng các dịch vụ ngân
hàng mà khách hàng sử dụng để xác định mức lãi tiền gửi trả cho khách hàng.
Khách hàng sử dụng càng nhiều dịch vụ thì mức phí ấn định cho dịch vụ họ sử


dụng thấp, thậm chí miễn phí. Phương pháp này xuất phát từ việc nếu ngân hàng
cung cấp được nhiều dịch vụ cho khách hàng sẽ làm tăng sự phụ thuộc của họ
vào ngân hàng, họ khó có khả năng chuyển sang giao dịch ở một ngân hàng
khác.
Triển khai các chiến lược marketing nhằm thu hút tiền gửi của khách
hàng. Các ngân hàng hiện nay đã từng bước học tập và ứng dụng nghệ thuật
thông tin quảng cáo, các hình thức khuyến mãi… Tuy việc đầu tư cho công tác
này còn hạn chế, nhưng có thể nói đây cũng là mặt mạnh của ngành ngân hàng
trong việc cạnh tranh để huy động tiền gửi. Thông tin quảng cáo, tiếp thị khuyến

mại, các dịch vụ hậu mãi rõ ràng sẽ phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị trường.
Và tuỳ vào sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp để các nhà quản trị ngân
hàng chọn thời điểm, thời gian sử dụng, chiến lược quảng cáo khuyến mãi cũng
như hậu mãi phù hợp.
Các biện pháp kỹ thuật
Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là sản phẩm huy động
vốn. Thông thường các ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng hơn thường
có lợi thế so với những ngân hàng có dịch vụ giới hạn.
Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, cải tiến quy trình giao dịch sẽ góp
phần nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, rút ngắn thời gian và chi phí giao
dịch của khách hàng. Điều này có tác động tích cực đến các nhu cầu về sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng của khách hàng và giúp ngân hàng có điều kiện thuận
lợi để mở rộng quan hệ khách hàng và thu hút tiền gửi.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chất lượng hoạt động ngân hàng và
tổ chức tốt mạng lưới thu hút vốn. Việc tổ chức tốt các kênh phân phối thiết lập
được mạng lưới, các địa điểm giao dịch phù hợp, thuận tiện cho giao dịch của số
đông khách hàng sẽ giúp ngân hàng tăng cường khả năng thu hút tiền nhàn rỗi
trong dân chúng, tạo cho ngân hàng có được nguồn vốn ổn định.
Các biện pháp thuộc về tâm lý


Củng cố, duy trì uy tín ngân hàng. Uy tín của ngân hàng thường được
xem là yếu tố hàng đầu, quyết định lựa chọn ngân hàng để giao dịch của khách
hàng gửi tiền, đặc biệt đối với những khách hàng lớn. Mối quan tâm lớn nhất
của khách hàng là sự an toàn về tài sản khi họ gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy,
để đảm bảo uy tín với khách hàng, các ngân hàng cần thường xuyên duy trì khả
năng thanh toán, chi trả đối với khách hàng. Uy tín của ngân hàng còn được
quyết định bởi nhiều yếu tốt khác như uy tín của người đứng đầu ngân hàng, thái
độ phục vụ, phong cách giao tiếp của nhân viên ngân hàng, cơ sở vật chất kỹ
thuật, chính sách kinh doanh của ngân hàng…

Tìm hiểu, nắm bắt tâm lý khách hàng để xây dựng chính sách phù hợp để
thỏa mãn yêu cầu của họ. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quyết định của khách
hàng trong việc lựa chọn ngân hàng giao dịch. Để có thể đưa ra những sản phẩm
dịch vụ phù hớp với khách hàng nhằm khuyến khích họ gửi tiền vào ngân hàng
thì một trong những việc làm quan trọng là phải tìm hiểu được sở thích, mong
muốn và nhu cầu của từng đối tượng khách hàng khi giao dịch với ngân hàng.
Trên thực tế, khách hàng cá nhân, hộ gia đình gửi tiền tiết kiệm là những khách
hàng quan tâm nhiều nhất đến mức lãi suất tiền gửi để quyết định lựa chọn ngân
hàng. Với khách hàng có nhu cầu sử dụng tài khoản thanh toán thì yếu tốt quan
tâm lại là địa điểm giao dịch thuận lợi, an toàn. Đối với khách hàng doanh
nghiệp, họ lại đặc biệt quan tâm đến tình trạng tài chính và khả năng cung ứng
tín dụng của ngân hàng để quyết định lựa chọn nơi thiết lập giao dịch.
Lựa chọn khách hàng mục tiêu
Không một ngân hàng nào có thể đáp ứng được nhu cầu của tất cả khách
hàng vì vậy ngân hàng nào cũng phải hướng tới một đối tượng khách hàng được
xác định trước, phù hợp với chiến lược kinh doanh. Đối với ngân hàng chính
sách, khách hàng mà ngân hàng thường hướng tới là các đối tượng người nghèo
và các đối tượng được hỗ trợ tín dụng chính sách. Khi các ngân hàng xác định


được đối tượng phù hợp với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì sẽ xây
dựng các kế hoạch huy động vốn phù hợp với ngân hàng.
Biện pháp tạo vốn đi vay
Vay vốn từ Ngân hàng Trung ương
Được áp dụng trong trường hợp ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng,
đã đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình nhưng vẫn không đủ vốn
hoạt động, nói khác là tạm thiếu vốn khả dụng thì sẽ vay vốn Ngân hàng Trung
ương. Vốn vay Ngân hàng Trung ương được chia thành vốn vay ngắn hạn bổ
sung (vay vốn bổ sung vốn ngắn hạn trong điều kiện còn hạn mức tín dụng và
trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận), vay để thanh toán (nhằm bù đắp thiếu

hụt tạm thời trong thanh toán), vay tái cấp vốn.
Vay vốn từ tổ chức tín dụng khác
Khi ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng nhằm mục đích bổ sung vốn
hoạt động, đảm bảo khả năng thanh toán thì sẽ được thực hiện vay vốn từ các tổ
chức tín dụng khác. Riêng đối với ngân hàng chính sách thì không được kinh
doanh vốn trên thị trường liên ngân hàng mà chỉ có thể gửi và nhận gửi vốn.
- Phát triển nguồn vốn của ngân hàng
- Quan điểm về phát triển nguồn vốn của ngân hàng
Để hiểu rõ phát triển nguồn vốn của ngân hàng là gì cần dựa trên khái
niệm về phát triển và khái niệm về nguồn vốn.
Theo Từ điển tiếng Việt, phát triển có nghĩa là quá trình vận động tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
về mọi mặt.
Theo giáo trình Ngân hàng thương mại - Học viện Ngân hàng, 2014 “Vốn
của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy
động được dùng để đầu tư, cho vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh


khác.” Nguồn vốn của Ngân hàng bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn
đi vay và các loại vốn khác.
Như vậy theo quan điểm của tác giả phát triển nguồn vốn của ngân hàng
là quá trình hoàn thiện hoạt động huy động vốn của ngân hàng nhằm tạo ra sự
tiến bộ, sự tăng trưởng về quy mô nguồn vốn, sự ổn định của nguồn vốn để có
thể thực hiện hiệu quả hoạt động đầu tư, cho vay và các dịch vụ kinh doanh khác
của ngân hàng.
Theo quan điểm như vậy có thể đánh giá sự phát triển nguồn vốn của
ngân hàng theo bằng các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng.
- Tiêu chí đánh giá sự phát triển nguồn vốn của ngân hàng
- Tiêu chí định tính
Có thể đánh giá sự phát triển nguồn vốn thông qua các chỉ tiêu định tính

như mức độ đa dạng của các hình thức huy động vốn
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút
nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng
nhiều. Vì vậy độ đa dạng của các hình thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để
đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn ở các ngân hàng.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng
các công cụ ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh
doanh, mỗi ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số lượng
các công cụ huy động càng nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút
được vốn, tuy nhiên số lượng các công cụ huy động vốn lại bị hạn chế bởi khả
năng quản lý của ngân hàng. Một ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy động
vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn của ngân hàng
đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực
sự thích hợp với ngân hàng. Cụ thể đối với các ngân hàng có hoạt động kinh


doanh đa dạng, đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng có trình độ cao thì
ngân hàng nên đa dạng hoá các loại công cụ huy động vốn.
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ, mà ngân hàng phải đa dạng
về kỳ hạn huy động, loại tiền sử dụng nữa. Đó là khả năng huy động vốn với các
kỳ hạn khác nhau trong đó có cả nội tệ, ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt
tương ứng sao cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý. Do vậy,
để công tác huy động vốn của ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, ngân
hàng cần phải tính toán, nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở
năng lực bản thân đưa ra các hình thức huy động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền.
Nếu những ngân hàng có quan hệ quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng
ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược sử dụng vốn để cho vay dài hạn thì cần
tăng cường huy động vốn trung và dài hạn.
b, Mức độ hài lòng của khách hàng
Chỉ tiêu này được đánh giá trên các yếu tố bao trùm toàn bộ hoạt động

của ngân hàng như: qua các quy trình làm việc của ngân hàng, khi khách hàng
tiếp xúc với ngân hàng để giao dịch và sử dụng các dịch vụ kèm theo của ngân
hàng... Trong các yếu tố này có yếu tố thể hiện trình độ chuyên môn của nhân
viên ngân hàng, có yếu tố phụ thuộc vào kỹ năng, thái độ phục vụ cũng như tác
phong lịch sự của người cung cấp dịch vụ, nhưng cũng có nhiều yếu tố không
liên quan đến con người như cách bài trí nơi giao dịch, công nghệ ngân hàng sử
dụng và bản thân sản phẩm khách hàng sử dụng. Việc đáp ứng được các kỳ vọng
của các khách hàng sẽ khiến khách hàng muốn đến giao dịch hơn với ngân hàng,
qua đó hoạt động huy động vốn từ khách hàng sẽ tốt hơn.
- Tiêu chí định lượng


Tiêu chí định lượng đánh giá sự phát triển nguồn vốn của ngân hàng là:
quy mô nguồn vốn, tỷ trọng các nguồn vốn trong cơ cấu nguồn vốn phù hợp, chi
phí vốn hợp lí.
+ Chỉ tiêu: quy mô nguồn vốn : là chỉ tiêu đánh giá nguồn vốn về mặt
khối lượng. Có thể đánh giá sự phát triển của quy mô nguồn vốn bằng phương
pháp so sánh toán học.
So sánh tuyệt đối: thể hiện mức độ thay đổi tổng nguồn vốn thông qua
chênh lệch nguồn vốn của kỳ so sánh và kỳ gốc.
∆ nguồn vốn = ∑nguồn vốn kỳ so sánh - ∑ nguồn vốn kỳ gốc
Khi ∆ nguồn vốn dương nghĩa là nguồn vốn kỳ so sánh lớn hơn nguồn
vốn của kỳ gốc hay là nguồn vốn kỳ so sánh đã có sự tăng trưởng về mặt quy
mô so với nguồn vốn tại kỳ gốc.
Khi ∆ nguồn vốn âm nghĩa là nguồn vốn kỳ so sánh nhỏ hơn nguồn vốn
của kỳ gốc hay là nguồn vốn kỳ so sánh đã bị giảm về mặt quy mô so với nguồn
vốn tại kỳ gốc.
Khi ∆ nguồn vốn = 0 nghĩa là nguồn vốn kỳ so sánh bằng nguồn vốn của
kỳ gốc hay là nguồn vốn đã không có sự thay đổi qua các kỳ.
+ So sánh tương đối: đơn vị của so sánh tương đối là (%), mục đích của

so sánh tương đối là xác động thái của chỉ tiêu so sánh.
Số tương đối = ∑nguồn vốn kỳ so sánh/∑nguồn vốn kỳ gốc * 100%
Khi kết quả số tương đối thái lớn hơn 100% nghĩa là nguồn vốn kỳ so
sánh đã có sự tăng trưởng và mức độ tăng trưởng là giá trị của số tương đối.


Khi số tương đối nhỏ hơn 100% nghĩa là nguồn vốn kỳ so sánh đã bị suy
giảm và mức độ suy giảm = 100% - giá trị của số tương đối.
Khi số tương đối động thái bằng 100% nghĩa là nguồn vốn không có sự
thay đổi nào.
Như vậy một nguồn vốn có sự phát triển là một nguồn vốn có ∆ nguồn
vốn > 0 và số tương đối lớn hơn 100%.
Sự tăng trưởng quy mô nguồn vốn là sự tăng về khối lượng tổng nguồn
vốn của ngân hàng và sự tăng trưởng này đòi hỏi sự tăng trưởng của các loại vốn
thành phần : vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại vốn khác. Sự
tăng lên của các thành phần vốn này có thể xác định cũng bằng phương pháp
toán học so sánh đã nêu ở trên. Sự tăng trưởng của vốn thành phần góp phần làm
tăng trưởng quy mô nguồn vốn nói chung đồng thời cũng làm thay đổi tỷ trọng
của loại hình vốn đó trong tổng nguồn, và làm thay đổi cơ cấu của nguồn vốn.
+ Chỉ tiêu: Tỷ trọng các nguồn vốn trong cơ cấu nguồn vốn
Tỷ trọng nguồn vốn thành phần = Vốn thành phần/tổng nguồn vốn.
Sự thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng
ảnh hưởng đến sự phát triển của nguồn vốn. Đối với từng loại vốn khác nhau sẽ
có tính chất khác nhau về nguồn gốc hình thành, thời hạn duy trì, chi phí vốn.
Tùy thuộc vào từng tính chất này sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn vốn
của ngân hàng. Đối với ngân hàng chính sách khi đánh giá cơ cấu nguồn vốn
cần xem xét đến tỉ trọng vốn chủ sở hữu, vốn đi vay, vốn ủy thác, vốn huy động
và vốn khác. Để qua đó có thể đánh giá xem cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng đã
phù hợp hay chưa và việc xem xét các chỉ tiêu này có thể tìm ra thế mạnh của
ngân hàng trong quá trình tạo lập nguồn vốn và qua đó cũng có thể đánh giá

xem cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng như thế đã ổn định và phù hợp chưa.


Đối với hệ thống ngân hàng chính sách cơ cấu nguồn vốn hợp lí là cơ cấu
nguồn vốn mà trong đó nguồn vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước giảm.
Hay nói cách khác là ngân hàng có khả năng tự chủ về tài chính khi thực thi các
chương trình tín dụng chính sách. Ngoài ra, cơ cấu phải ổn định thể hiện ở các
thành phần vốn huy động có thời hạn dài và lãi suất thấp.
+ Chỉ tiêu: chi phí vốn
Chi phí vốn là toàn bộ chi phí ngân hàng bỏ ra trong quá trình huy động
vốn. Chi phí vốn bao gồm 2 phần: chi phí trả lãi (trả lãi suất huy động) và chi
phí phi lãi.
Chi trả lãi chiếm phần lớn trong chi phí huy động, ngoài ra là các chi phí
phi lãi như: Chi phí lương công nhân viên, chi phí quảng cáo marketing, chi phí
máy móc địa điểm, cơ sở hạ tầng, …
Khoản chi phí chính mà các ngân hàng quan tâm là chi phí trả lãi. Mức lãi
suất huy động thường được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường, khi
các ngân hàng đã thừa vốn, trong khi khách hàng vẫn gửi tiền thì lãi suất huy
động sẽ giảm xuống. Ngược lại trong thời kì kinh tế suy giảm, hoặc Chính phủ
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, sự thiếu hụt vốn khả dụng của ngân hàng
sẽ đẩy lãi suất huy động của ngân hàng lên cao. Ngoài ra tùy theo chiến lược
cạnh tranh của mỗi ngân hàng mà ngân hàng có thể đặt mức lãi suất cao hay
thấp hơn mức lãi suất thị trường
Khi đánh giá phát triển nguồn vốn của ngân hàng trên phương diện chi
phí vốn thì ngân hàng phải đạt được những tiêu chí sau:
Thứ nhất: tìm kiếm các nguồn chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu cho
vay và đầu tư trong khi vẫn thỏa mãn yêu cầu phù hợp về mặt quy mô, thời hạn
và cơ cấu.



Thứ hai: Tăng lợi nhuận cho ngân hàng mà không phải chấp nhận rủi ro
cao vì sức ép tăng chi phí vốn. Về cơ bản, lợi nhuận ngân hàng được tính bằng
tổng thu nhập trừ đi tổng chi phí, mà phần lớn ở đây là chi phí trả lãi, do vậy để
tối đa lợi nhuận, ngân hàng phải tối thiểu hóa chi phí hoạt động. Nguồn ngắn
hạn thường có chi phí thấp, kém ổn định và ngược lại, nguồn có thời hạn càng
dài thì chi phí càng cao nhưng ổn định hơn. Do vậy để hoạch định chiến lược
kinh doanh cho mỗi giai đoạn, căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành, căn cứ
trả lãi, ngân hàng sẽ đưa ra các chính sách huy động vốn phù hợp. Tùy theo đặc
điểm từng nguồn vốn, ngân hàng sẽ đưa ra mức lãi suất danh nghĩa khác nhau.
Để cạnh tranh mở rộng nguồn tiền, các ngân hàng đều cố gắng tạo ra ưu thế
riêng của mình trong đó có ưu thế về cạnh tranh lãi suất
Các ngân hàng thường xác định chi phí vốn thông qua hai chỉ tiêu: chi phí
trả lãi bình quân và tỷ lệ chi phí lãi thu được từ hoạt động tín dụng/chi phí lãi
huy động.
Chi phí trả lãi bình quân = (Chi phí trả lãi)/(Tổng NVHĐ)
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền ngân hàng phải bỏ ra cho một đồng vốn huy
động được. Chi phí trả lãi bình quân giảm qua các năm, kèm theo sự tăng trưởng
về quy mô nguồn vốn, chứng tỏ công tác huy động vốn của ngân hàng đã được
tổ chức một cách hiệu quả, nguồn vốn phát triển tốt.
Tỷ lệ chi phí lãi thu được từ hoạt động tín dụng/chi phí lãi huy động.
Tỷ lệ này phản ánh mức chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động và thu lãi
cho vay. Tỷ lệ lớn hơn 1 và càng cao chứng tỏ mức chênh lệch lớn ngân hàng có
thể thu được lợi nhuận tốt.
Tuy nhiên, đối với các ngân hàng chính sách thì không thể sử dụng chỉ
tiêu này để đánh giá vì tín dụng chính sách thường được quy định mức lãi suất


thấp hơn lãi suất thị trường và thường thấp hơn lãi suất huy động. Do đó thay vì
chỉ tiêu này việc đánh giá chi phí vốn của ngân hàng chính sách sẽ sử dụng chỉ
tiêu về mức cấp bù chênh lệch lãi suất. Chi tiết cụ thể về những quy định liên

quan đến mức cấp bù chênh lệch lãi suất được quy định cụ thể trong quy chế
quản lí tài chính của từng ngân hàng chính sách. Trong điều kiện quy mô nguồn
vốn không đổi mức cấp bù chênh lệch lãi suất giảm tức là hoạt động huy động
vốn hiệu quả và nguồn vốn phát triển tốt.
Có thể đánh giá mức cấp bù chênh lệch lãi suất hàng năm bằng phương
pháp so sánh toán học, tương tự như cách đánh giá quy mô nguồn vốn đã nói
trên.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn vốn
-Nhân tố khách quan
a, Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng chịu sự điều chỉnh rất lớn của
môi trường pháp lý. Có những văn bản quy phạm pháp luật tác động trực tiếp
như: Luật các tổ chức tín dụng (2010), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(2010), các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam… Những văn bản này
có thể quy định tỷ lệ huy động vốn của ngân hàng so với vốn tự có, quy định
việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, quy định mức cho vay đối với khách hàng…
Chính sách tiền tệ quốc gia cũng có ảnh hưởng lớn tới nghiệp vụ tạo vốn
của ngân hàng, thể hiện trên các khía cạnh cụ thể như:
Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Mục tiêu của chính sách tiền tệ gồm: kiểm soát lạm phát, bình ổn giá cả,
ổn định sức mua của đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. Tùy
thuộc vào việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ mà sự ảnh hưởng của
nó đến nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng sẽ khác nhau. Ví dụ, khi lạm phát tăng


cao, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để
thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó ngân hàng huy động dễ dàng hơn. Hoặc Nhà
nước với chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì ngân hàng khó
huy động hơn do nguồn tiền nhãn rỗi được sử dụng phần nhiều cho đầu tư sản
xuất. Hoặc Nhà nước có chính sách khuyến khích thanh toán không sử dụng tiền

mặt, người dân mở tài khoản tại ngân hàng nhiều, tạo điều kiện để ngân hàng
thu hút nguồn vốn.
Việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ
Trong quá trình vận hành các công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương, mỗi một công cụ đều tác động đến nghiệp vụ tạo vốn
của ngân hàng cụ thể:
+ Lãi suất chiết khấu: Ngân hàng Trung ương thực hiện tái cấp vốn để
cung ứng tiền ra lưu thông bằng biện pháp tái chiết khấu. Nếu chính sách tiền tệ
nhằm chống lạm phát thì Ngân hàng Trung ương cung ứng tiền ra lưu thông với
lãi suất tái chiết khấu cao. Theo đó, hạn chế việc ngân hàng vay Ngân hàng
Trung ương. Để mở rộng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ, Ngân hàng Trung ương
áp dụng một lãi suất tái chiết khấu để khích lệ hay hạn chế các ngân hàng
thương mại trong việc đi vay vốn Ngân hàng Trung ương.
+ Dự trữ bắt buộc khi tăng - giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tức là Ngân hàng
Trung ương cho hoặc không cho các Ngân hàng Thương mại sử dụng khối
lượng tiền trung ương bị coi là thiếu hay dư thừa, tức là thắt chặt hoặc nới lỏng
khả năng tạo tiền của các Ngân hàng Thương mại.
Chính sách đầu tư của nhà nước
Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp lý hay không hợp lý đều ảnh hưởng
đến chính sách huy động vốn của ngân hàng. Trên thực tế, những chính sách này
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường kinh doanh không chỉ đối với khách hàng
mà ngay cả đối với ngân hàng. Vì vậy, để khuyến khích sản xuất, đầu tư, Nhà


×