Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích các công cụ thuộc chính sách tiền tệ mà chính phủ VN sử dụng nhằm kiềm chế lạm phá trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.76 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
o_______________________________________o
THẢO LUẬN NHÓM MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
Đề tài: Phân tích các công cụ thuộc chính sách tiền tệ mà chính phủ
VN sử dụng nhằm kiềm chế lạm phá trong những năm gần đây

IChính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường :
1, Khái niệm :
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân hàng Trung ương sử
dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế
nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng trường kinh tế và
duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.
2, Vị trí của chính sách tiền tệ :
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước thì chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách vĩ mô quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu
thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
như : chính sách tài khóa, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là hoạt động
cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được
thực hiện có hiệu quả hơn.
3, Phân loại chính sách tiền tệ :
Chính sách tiền tệ gồm hai loại :
Thứ nhất : chính sách mở rộng tiền tệ còn gọi là chính sách nới lỏng tiền tệ,loại chính
sách này được áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bi suy thoái nạnthất nghiệp gia tăng.
Trong trường hợp này việc nới lỏng làm cho lượng tiềncung ứng cho nền kinh tế tăng sẽ


tạo được công ăn việc làm cho người lao độngthúc đây mở rộng đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh. Chính sách mở rộng tiền tệ đồng nghĩa chính sách tiền tệ chống suy thoái.
Thứ hai : chính sách mở rông thắt chặt tiền tệ còn gọi là chính sách” đóng băng” tiền tệ,
loại chính sách này được áp dụng khi trong nền kinh tế đã có sựphát triển thái quá,đồng


thời lạm phát ngày càng gia tăng . Chính sách thắt chặt tiền tệ đồng nghĩa với chính sách
tiền tệ chống lạm phát
4, Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
4.1, Ổn định giá trị đồng tiền :
Ngân hàng trung ương thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến sự tăng hay giảm
giá trị đồng tiền của nước mình. Gía trị ổn định của đồng tiền được xem xét trên hai mặt :
Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước ) và sức
mua đối ngoại ( tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy chính sách tiền
tệ hướng đến ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỉ lệ lạm phát bằng không vì như
vậy nền kinh tế sẽ không phát triển được. Để tỉ lệ lạm phát giảm thì phải chấp nhận một tỉ
lệ thất nghiệp ăng lên.
4.2, Tăng công ăn việc làm
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỉ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỉ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỉ lệ lạm
phát tăng lên.
4.3, Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách
kinh tế vĩ mô của mình để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định. Đặc biệt ổn định giá
trị đồng bản tệ là rất quan trọng vì nó thể hiện lòng tịn của dân chúng đối với chính phủ.
Mục tiêu này chỉ đạt được khi hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hòa.

II.Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
1.Các công cụ của chính sách tiền tệ.
1.1.Công cụ tái cấp vốn
Khi người gửi tiền đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thiếu
vốn dẫn tới khả năng thiếu chi trả.


Lúc này ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua

nhiều hình thức, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức là chiết khấu và tái
chiết khấu các thương phiếu.Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu là ngân
hàng trung ương đã làm tăng khối lượng tiền lưu thông.
Bên cạnh đó, việc cho vay này luôn gắn liền luôn gắn liền với yêu cầu của nền
kinh tế do sự tác động trực tiếp của quy luật cung cầu.
Việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền tệ được thông qua
lãi suất tái chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích giảm hoặc tăng
mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế đồng thời
giảm hoặc tăng mức cung tiền.
 Khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW sẽ nâng lãi suất chiết

khấu lên. Khi đó các NHTM sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế những
cơ hội cho vay và ngược lại.
 Nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, NHTW hạ thấp lãi suất chiết
khấu, NHTM trong trường hợp này đi vay rẻ nên có khuynh hướng hạ thấp
lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay gia tăng.
Tái cấp vốn cho các NHTM là công cụ đắc lực trong định hướng phát triển kinh
tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, NHTW sẽ ưu tiên tái chiết khấu các
thương phiếu xuất khẩu.
Khi chấp nhận tái chiết khấu là NHTW đã chấp nhận tăng khối lượng tiền cung
ứng. Chính vì tầm quan trọng đó nên NHTW chỉ có thể tái chiết khấu theo điều
kiện:
 Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức ấp tín dụng cho nền

kinh tế còn được phép cung ứng thêm.
 Bản thân các NHTM đem hối phiếu để tái xuất khẩu phải là những hối phiếu
tốt.
Ưu điểm và nhược điểm của tái chiết khấu:
-Ưu điểm: Các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo bằng giấy tờ có giá
do nó có khả năng tự thanh toán đồng thời công cụ tái chiết khấu có tính chất chủ

động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay hạn chế.


-Nhược điểm: NHTW thụ động trong việc vay hay không vay đều phụ thuộc vào
NHTM.
1.2.Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc hay tỉ lệ dự trữ bắt buộc là tỉ lệ phần trăm tính trên tổng tiền huy
động được mà các NHTM không được sử dụng để kinh doanh.
Mục đích của việc thực hiện dự trữ bắt buộc là nhằm:
 Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian

hoặc trong những trường hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng
đồng loạt rút gửi tiền của công chúng tránh được tình trạng khủng hoảng
ngân hàng.
 Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh được trường
hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức có
thể làm hại đến quyền lợi của người kí gửi tiền ở ngân hàng, tức là đảm bảo
an toàn tiền gửi của khách hàng.
 Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ở NHTW là một phương
tiện để NHTW có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ
thuộc của các ngân hàng trung gian với NHTW.
 Khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, NHTW muốn khuyến
khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ. Điều này sẽ
kích thích được các hoạt động kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn
tài chính giữa các doanh nghiệp thể hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”.
 Khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, NHTW muốn giới hạn khả năng cho vay
của ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ thắt chặt. Điều này
tác động đến khả năng thu lợi của ngân hàng trung gian.
Để ngân hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với NHTW trong việc thực thi
chính sách tiền tệ, NHTW có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư nào đó của ngân

hàng trung gian, kèm theo một lãi suất thích hợp. Thêm vào đó NHTW có thể
thêm một mức dự trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn, bằng cách phân biệt
nhiều mức dự trữ bắt buộc.
Tóm lại, biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng.
Muốn có hiệu quả cần đi kèm với các biện pháp khác. Việc điều chỉnh dự trữ bắt
buộc thay đổi tùy theo mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau.
1.3.Nghiệp vụ thị trường mở rộng


Nghiệp vụ thị trường mở rộng là việc NHTW tham gia mua hoặc bán giấy tờ có
giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các NHTM với các mục đích tác động đến
thị trương tiền tệ, điều hòa cung và cầu về các giấy tờ có giá trị, gây ảnh hưởng đến
khối dự trữ của các NHTM tại NHTW, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín
dụng của các ngân hàng này.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1920. Nó là
công cụ tác động nhanh, linh hoạt và chủ động. Nó có thể hạn chế những khiếm
khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ này linh hoạt là ở chỗ dễ đảo ngược
được tình huống khi phát hiện tiền lưu thông thừa hay thiếu bằng cách bán hay
mua giấy tờ có giá trị.
Tuy nhiên, hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền
trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng. Ở Việt Nam công cụ thị trường
mở được thực hiện bằng việc phát hành tín phiếu NHNN và tổ chức đấu thầu Tín
phiếu Kho bạc Nhà nước.
Thị trường mở được xem là một trong những cửa ngõ để NHTW phát hành tiền
vào lưu thông hoặc rút bớt khối lượng tiền lưu thông. Nếu như chính sách chiết
khấu, tái chiết khấu có tác động tổng hợp và có những hạn chế tạm thời, thị nghiệp
vụ thị trường mở là công cụ nhanh và linh hoạt.
1.4.Công cụ tỷ giá hối đoái
NHTW can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối đoái bằng cách
mua hoặc bán một lượng ngoại tệ.

 Khi tỷ giá giảm mạnh thì NHTW đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, dẫn đến giá

trị ngoại tệ lên cao, đồng bản tệ giảm giá trị làm cho tỷ giá được cải thiện,
nhưng sẽ làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông.
 Khi tỷ giá hối đoái tăng thì NHTW đưa ngoại tệ ra bán dẫn đến giá trị ngoại
tệ giảm làm cho tỷ giá được cải thiện nhưng sẽ làm giảm lượng tiền trong
lưu thông.
Kết quả của sự cản thiệp của NHTW vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá
hối đoái để giữ vững sức mua đối ngoại của đồng tiền bản tệ sẽ làm cho tiền lưu
thông tăng lên hoặc giảm đi.
1.5. Công cụ lãi suất


Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được hàng năm so với tổng số tiền
cho vay.
Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng NHTW thường điều chỉnh hạ lãi suất để
kích thích NHTM và tổ chức tín dụng sư dụng tiền vay của NHTW để tăng cường
tín dụng cho nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất để hạn
chế quy mô tín dụng của các NHTM cho nền kinh tế.
Đây là công cụ linh hoạt và được NHTW sử dụng để điều chỉnh chính sách tiền
tệ quốc gia. Như vậy để thực hiện chính sách tiền tệ như đã xây dựng NHTW của
các nước sử dụng các công cụ trên để điều hành tiền tệ quốc gia nhằm thực hiện
các mục tiêu của chính sách kinh tế đã định.
Ở Việt Nam hiện nay, Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất tái cấp vốn và quy định lãi suất cơ bản, làm cho các NHTM xác
định mức lãi suất cho vay, từ lãi suất này sẽ điều chỉnh lãi suất cho vay, lãi suất
chiết khấu, lãi suất tiền gửi của các NHTM.
2. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Chính sách tiền tệ của NHNN là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng

tiền và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế.
Chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu chính sách tiền tệ ở Việt Nam 2 năm 2008-2009.
Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội nước ta trong hai năm 2008 - 2009 được
thực hiện trong bối cảnh kinh tế có nhiều biến động khó lường. Sự lên xuống thất
thường của giá dầu thô, diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu cùng với thiên tai dịch bệnh đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội
của nước ta trong năm qua. Nhờ sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, thống nhất của
Đảng và nhà nước cùng sự đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân, cán bộ
ngành, các tập đoàn kinh tế…nền kinh tế nước ta đã từng bước vượt qua kho khăn
thách thức, kiềm chế va đẩy lùi được lạm phát, an sinh xã hội được đảm bảo, nhiều
vấn đề bức xúc xã hội được giải quyết. Trong giai đoạn này mục tiêu của chính
sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh


tế. Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính trong giai đoạn này, mục tiêu kinh
tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn so với mục tiêu kiểm soát, ổn định kinh tế, tốc độ
tăng trưởng đụngf đều trong các năm , tỷ lệ lạm phát giao động không quá mạnh.
Cố gắng đạt cán cân thanh toán quốc tế từ thiếu hụt tới cân bằng và tiến tới thặng
dư. Đảm bảo trạng thái cân bằng ngân sách, tăng thu giảm chi nhõts là các khoản
chi điều hành để tập trung cho đầu tư công cộng. Một số nội dung chính trong điều
hành các công cụ chính sách tiền tệ trong hai năm 2008-2009:
- Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của
thời kỳ đổi mới hiệu quả của nú đã thể hiện rõ rểttong việc chống lạm phát.
Tuy nhiên từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò
của nú trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán vì lạm phát
có xu hướng giảm và thấp dần; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tếngày càng
tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Do
đó trong quý 2 năm 2008, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ
thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù có thể coi nú như một giải

pháp tình thế khi càn thiết). Công cụ này sẽ được xoá hoàn toàn khi thị trường tiên
tệ ổn định, thị trường vốn phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
Hạn mức tín dụng 30% năm 2008 đã góp phần tăng thêm sự méo mó của việc
phân bổ nguồn lực, khiến cho dòng vốn không lưu chuyển một cách thông suốt đến
những nơi cần vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
với nền kinh tế, kể cả việc cho vay đối với các dự án đầu tư theo chương trình kích
cầu của chính phủ.
Năm 2008 do phải thực hiện các chính sách tiền tệ nhằm vùa chống lạm phát
vừa ngăn đà suy giảm kinh tế nên các ngân hàng thương mại gặp khó khăn và ngân
hàng nhà nước đã hỗ trợ bằng cách trả lãI cao hơn cho dự trữ bắt buộc bằng VND.


Tuy nhiên trong năm 2009 tình hình đã khả quan hơn cho phép ngân hàng giảm lãI
suất.
- Tái cấp vốn :
Ngày 3/ 11/ 2008 NHNN đã quyết định số 2561/ QĐ-NHNN về lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suõt cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN
Việt Nam đối với các ngân hàng, theo đó lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14% năm
xuống 13% năm ; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12% xuống 11% năm ; lãi suất cho
vay qua đêm xuống từ 14% xuống 13% năm. Mục đích của việc thực hiện các giải
pháp nêu trên là nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng
huy động vốn và thanh toán, hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả, giảm lãi suất
cho vay tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và các hộ sản xuất tiếp cận
nguồn vốn vay ngân hàng, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển.

Tuy nhiên hiện nay hiệu lực can thiệp của công cụ này đến thị trường tiền tệ chưa
cao và mối liên hệ giữa công cụ tái cấp vốn và tổng phương tiện thanh toán chưa rõ
ràng.
Thời gian hoàn thành một đề nghị cho vay cầm cố một giấy tờ cấp vốn (GTCG)

của NHNN còn dài. Đối với đề nghị vay vốn của các ngân hàng có trụ sở chính tại Hà
Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá 2
ngày làm việc, nhưng đối với các ngân hàng không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời
gian này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc. Đây là một trong những
hạn chế cơ banr của công cụ này, làm giảm tính chất hỗ trợ khẩn cấp của công cụ tái
cấp vốn để bổ sung hỗ trợ cho ngân hàng.
Bảng 1:Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 12/ 2005 - đến
tháng 6/ 2008


Lãi suất

Quyết định

Ngày thực
hiện

14%/
năm

1317/ QĐ-NHNN
ngày 10/ 6/ 2008

11/ 06/
2008

12%/
năm

1099/ QĐ-NHNN

ngày 16/ 5/ 2008

19/ 05/
2008

8.
75%/năm

305/ QĐ-NHNN
ngày 30/ 1/ 2008

01/ 02/
2008

8,

1746/ QĐ-NHNN

01/ 12/

25%/năm

ngày 1/ 12/ 2005

2005

Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ
chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết
lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà n ước cho th ấy đ ược
chính kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ th ống ngân hàng trong vi ệc

kiềm chế lạm phát. Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đ ầu có d ấu hi ệu ch ững
lại sau một loạt các quyết định của Ngân hàng nhà n ước trong vi ệc s ử d ụng
các công cụ của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản giảm xuống t ừ 14%/ năm
còn 8,5%/năm. (Xem bảng 2). Bảng 2: Diễn biến Lãi suất cơ bản năm
2008
Lãi suất
CB

Quyết định

Ngày thực
hiện

8,5%

3161/ QĐ-NHNN ngày
19/ 12/ 2008

22/ 12/
2008

10%

2948/ QĐ-NHNN ngày
03/ 12/ 2008

05/ 12/
2008

11%/ năm


2808/ QĐ--NHNN ngày
20/

21/ 11/
2008


- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được điều chỉnh linh hoạt hơn, phối hợp đồng bộ
với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường
mở.
 Đối với công cụ tái cấp vốn.
Công cụ tái cấp vốn cần được hoàn thiện theo hướng thực hiện vai trò là công
cụ cấp tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng nhà nước cung ứng
phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và thực hiện vai trò là người
cho vay cuối cùng. Quy chế tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ
từng hình thức tái cấp vốn: tái chiết khấu, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá
ngắn hạn… Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cần được điều chỉnh linh
hoạt hơn trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ.
 Đối với công cụ hỗ trợ như lãi suất, tỷ giá.
Đứng trước xu hướng hội nhập quốc tế, việc điều hành lãi suất, tỷ giá cần được
thực hiện linh hoạt theo hướng tiến tới mục tiêu tự do hoá. Việc điều hành lãi suất
cần tiếp tục gắn liền với điều hành tỷ giá. Riêng đối với tỷ giá, thay cho việc gắn
đồng Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính thức gắn với rổ tiền tệ (gồm USD và
các đồng tiền khác như Nhật, NEI, khối EU và các nước trong khu vực). Hơn nữa,
Ngân hàng trung ương cần có các biện pháp tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định.



Tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và các chính sách khác

trong hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô.
Như chúng ta đã biết, chính sách tiền tệ là một bộ phận quan trọng của chính
sách kinh tế tài chính của nhà nước, nhằm kiểm soát khối lượng tiền cung ứng,
đảm bảo ổn định hệ thống tiền tệ trong nền kinh tế. Nhưng chính vì là một chính


sách kinh tế vĩ mô, chính sách điều tiết khối lượng tiền, trong quá trình thực thi
chính sách này, có thể dẫn đến mâu thuẫn với các chính sách kinh tế

khác. Do vậy, cần có sự kết hợp giữa chính sách tiền tệ với các chính sách
kinh tế khác, nhằm tránh những tổn thất cho nền kinh tế. Khi chính sách tiền tệ
hoạt động không hiệu quả, sẽ ảnh hưởng đến các chính sách khác.


Điều hành chính sách tiền tệ phải có những đổi mới.

Thứ nhất phải làm đồng bộ những chính sách đã có, kể cả những chính sách
mới bổ sung (khuyến khích xuất khẩu, tiêu dùng, đầu tư, chống suy giảm kinh
tế…) từ đó cần phải nới chính sách tiền tệ, tăng vốn vào những nơi, dự án tạo ra
xuất khẩu, việc làm, hàng tiêu dùng, thậm chí cả tín dụng cho tiêu dùng. Tiếp tục
tính đến bài toán giảm lãi suất, đơn giản thủ tục hành chính để doanh nghiệp tiếp
cận được vốn và sử dụng vốn này.


Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành linh hoạt.

Chính sách tiền tệ linh hoạt là chính sách thực hiện đồng bộ các công cụ chính sách

tiền tệ, kết hợp hài hòa, linh hoạt .

III. Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
Để hoàn thiên chính sách tiền tệ chúng ta phải biết hoàn thiện các công cụ của chính
sách tiền tệ cũng như phối hợp điều hành các công cụ đó.
1. Dự trữ bắt buộc.
Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm lớn trong việc kiểm soát cung tiền tệ là nó có
thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung
ứng tiền tệ. Tuy vậy, khi mà dự trữ bắt buộc không được trả lãi, chúng tương đương với
một khoản thuế và có thể dẫn tới tình trạng phi trung gian hoá hơn nữa, dự trữ bắt buộc
thiếu tính mềm dẻo, hoặc những thay đổi lớn và thường xuyên ở mức dự trữ cũng sẽ gây


nên hỗn loạn và tổn thất cho các NHTM. Nhưng trước tình trạng lạm phát thấp như hiện
nay theo tôi cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Bởi vì nhu cầu vốn của nền kinh tế khá lớn,
nhưng khả năng huy động vốn hạn chế, cho nên việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong giai
đoạn này sẽ hỗ trợ thêm nguồn vốn cho các tổ chức tín dụng cho vay nền kinh tế. Mặt
khác sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức kiểm soát được, và tỷ lệ lạm phát
cũng có thể kiểm soát được sao cho phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế. Do vậy hạ thấp tỉ
lệ dự trữ bắt buộc có thể chấp nhận và phù hợp trong thời kỳ này.
Một mặt khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần chú ý tới quy mô hoạt động của các
tổ chức tín dụng hiện nay sao cho hợp lý. Còn về đối tượng thi hành quy chế dự trữ bắt
buộc cần bổ sung thêm ngân hàng HTX quỹ tín dụng nhân dân và HTX tín dụng để phù
hợp với quy định nội dung luật NHNN. Trong giai đoạn hiện nay, các NHTM gặp khó
khăn trong việc huy động vốn đối với loại tiền gửi từ 12 tháng trở lên (chiếm 15% so với
tổng nguồn vốn huy động). Chính vì vậy nếu muốn huy động được loại tiền gửi này các
NHTM phải nâng mức lãi suất tiền gửi (huy động vốn) lên cao sát lãi suất tiền cho vay.
Do đó nếu quy định loại tiền gửi này cũng phải chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ gây khó
khăn cho các NHTM trong hoạt động kinh doanh cũng như không khuyến khích được
huy động vốn trung và dài hạn để cho vay và đầu tư phát triển . Vì vậy trong giai đoạn

hiện nay chưa nên quy định dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở
lên mà chỉ tạm thời quy định dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi huy động dưới 12 tháng.
Việc quy định trên sẽ khuyến khích các NHTM bằng các nghiệp vụ của mình (phát hành
trái phiếu NHTM phát hành kỳ phiếu...v.v) thu hút nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư và
phát triển .
Nhưng để đảm bảo khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng, cần xử lý kỷ luật
việc thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng. Do đó ngoài việc phạt nặng các
tổ chức tín dụng bằng hình thức lãi suất, ban thanh tra NHNN và các vụ liên quan ở
NHTW cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện chế độ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác.

2. Tái chiết khấu.


Để thực hiện được công cụ tái chiết khấu có hiệu quả đòi hỏi phải có các công cụ
truyền thống của nó là kỳ phiếu và thương phiếu. Thương phiếu là giấy chứng minh cho
hành vi mua chịu bán chịu hàng hoá , hành vi này gọi là tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ kinh doanh của
mình, tăng vòng quay của vốn. Do đó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng
trưởng kinh tế cao. Vì vậy muốn áp dụng công cụ tái chiết khấu như là một công cụ hữu
hiệu của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát đòi hỏi phải có nền tảng vững
chắc cho sự ra đời của tín dụng thương mại.
Lãi suất tái chiết khấu có mối quan hệ chặt chẽ với lãi suất chiết khấu của NHTM.
Vì vậy để hoàn thiện công cụ tái chiết khấu cần hoàn thiện việc chiết khấu kỳ phiếu do
Ngân hàng thương mại phát hành cụ thể ở đây là chứng từ có giá. Hiện nay các ngân
hàng thường dùng hình thức nhận cầm cố để cho vay hơn là nhận chiết khấu các chứng từ
có giá. Nhưng theo tôi hình thức nhận cầm cố cho vay có nhiều nhược điểm hơn so với
hình thức chiết khấu. Thứ nhất đó là thủ tục phức tạp hơn, thứ hai là nhu cầu về vốn được
thoả mãn ít hơn. Vì vậy bản thân cho rằng các ngân hàng nên mở rộng các hình thức chiết
khấu chứng từ có giá để tạo thuận lợi hơn và bảo đảm lợi ích cho khách hàng.

- Nên xác định mức chiết khấu bằng với lãi suất cho vay được tính bằng phí ngân
hàng cộng với lãi suất sinh lợi của các chứng từ có giá, nhưng tối đa không vượt quá mức
tiền của lãi suất cho vay ngắn hạn.
Mặt khác ngân hàng trung ương cần định rõ hơn việc vận dụng chính sách và công
cụ tái chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu: có như vậy mức kích thích việc xuất hiện các loại
thương phiếu, kỳ phiếu và chính chúng là cơ sở cho phép ngân hàng nhà nước trung ương
vận dụng công cụ tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu hữu hiệu để thực thi chính sách
tiền tệ.
3. Hoạt động thị trường mở:
Về mặt lý luận cũng như trong thực tế thị trường mở là một công cụ quan trọng điều
tiết linh hoạt khối lượng tiền tệ trong lưu thông và liên quan trực tiếp đối với cơ chế phát
hành tiền của ngân hàng trung ương. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay cần đưa công cụ
thị trường mở vào hoạt động và tăng cường sử dụng công cụ này. Tuy nhiên đến nay cho
thấy các điều kiện để đưa thị trường mở vào hoạt động còn chưa chín muồi. Vì vậy cần
có các giải pháp hoàn thiện công cụ này để mau chóng đưa công cụ này vào hoạt động.
Trước hết việc vận dụng công cụ thị trường mở đòi hỏi trước mắt không chỉ đối với tín


phiếu kho bạc mà ngay cả với trái phiếu kho bạc và các chứng chỉ đầu tư của nhà nước
(trái phiếu công trình), cần phải phát hành theo phương thức đấu thầu thông qua hoạt
động của NHNNTW và án NHTM trong đó tăng cường vai trò của NHNNTW trong việc
phát hành tiền để mua trái phiếu chính phủ và sau đó thực hiện mua bán lại trái phiếu
chính phủ với các NHTM, với các tổ chức kinh tế theo tín hiệu thị trường .
Một mặt :
- Cần ban hành chính thức các quy chế hoạt động thị trường mở phù hợp với luật.
- Thành lập ban chỉ đạo thị trường mở để tiến hành mua bán thử
- Làm việc với bộ tài chính phát hành các tín phiếu kho bạc có kỳ hạn dưới 12 tháng
để tạo công cụ cho thị trường mở. Đồng thời làm việc với Bộ tài chính để chuyển số nợ
hiện nay của Bộ tài chính vay NHNN thành các trái phiếu chính phủ để NHNN sử dụng
công cụ này cho hoạt động thị trường mở.

- NHNN phát hành tín phiếu NHNN thường xuyên, định kỳ với thời hạn ngắn.
- Hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ để các ngân hàng tiến hành các giao dịch
ngắn, phát triển nghiệp vụ vay mượn thúc đẩy thị trường liên ngân hàng phát triển là cơ
sở để phát triển nghiệp vụ thị trường mở.
Song để nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả vốn có của nó trong việc điều
hành chính sách tiền tệ, thì bên cạnh việc khẩn trương tạo ra các điều kiện như trên cho
thị trường mở có thể hoạt động, cần thiết phải đổi mới đồng thời các công cụ chính sách
tiền tệ như công cụ tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, lãi suất các điều kiện cần thiết cho sự
phát triển của thị trường liên ngân hàng.... để NHNN có thể điều hành một cách đồng bộ,
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ, qua đó có thể nâng cao năng lực điều hành của
NHNN nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
4. Lãi suất.
Trong những năm gần đây, chính sách lãi suất của NHNN đã được sử dụng như một
công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Bằng các biện
pháp điều hành linh hoạt theo chỉ đạo của chính phủ NHNN đã chuyển từ chính sách lãi
suất âm sang lãi suất thực dương, lãi suất trần đã dần dần bám sát chỉ số trượt giá, và
quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường tiền tệ bảo toàn giá trị đồng tiền cho người
gửi và được người vay chấp nhận từ đó ngày càng thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống
ngân hàng , đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát


triển. Tuy nhiên, công cụ lãi suất khá quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát hiện nay.
Do đó, tôi cũng đưa ra những ý kiến về các giải pháp để hoàn thiện hơn nữa công cụ lãi
suất.
- Nên kiên trì nguyên tắc lãi suất thực dương để kích thích tiết kiệm đồng thời linh
hoạt điều chỉnh lãi suất theo diễn biến lạm phát nhằm hỗ trợ đầu tư.
- Trong thời gian tới, trước mắt vẫn duy trì cơ chế lãi suất trần nhưng về phương
diện tiến hành cần xúc tiến nhanh việc hình thành các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tạo tiền đề mở rộng quá trình tự
do hoá lãi suất.

- Cần phải có chính sách lãi suất linh hoạt (lãi suất cho vay và vay). Về việc xây
dựng chính sách lãi suất, NHNN cần có chính sách ưu đãi cho một số ngành hoặc đối
tượng kinh tế quan trọng.
Mặt khác lãi suất và tỷ giá là hai vấn đề nhạy cảm, có tác động tức thời và ảnh
hưởng sâu rộng đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do
giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý
đồng bộ trong quan hệ phù hợp. Chính vì vậy biện pháp điều chỉnh lãi suất đồng Việt
Nam cần đi đôi với việc quy định lãi suất thích hợp đối với tiền gửi bằng USD để phát
huy tối đa vai trò của công cụ lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Tóm lại, điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với các diễn biến kinh tế và mục tiêu chính
sách là một biện pháp thông thường của các chính phủ và NHTW trong thời gian tới,
dưới sự chỉ đạo của chính phủ cùng với các biện pháp chính sách khác, NHNN sẽ tiếp tục
thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt phù hợp với tình hình và các diễn biến kinh tế
nhằm thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước trong
từng thời kỳ.
5. Hạn mức tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường , hoạt động tín dụng đóng vai trò điều tiết thường
xuyên đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Dựa vào
việc mở rộng tín dụng người ta có thể đạt đến sự mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư
xây dựng cơ bản. Ngược lại thu hẹp tín dụng là một trong những cách thức quan trọng để
hạn chế sự tăng trưởng kinh tế quá nhanh và sự gia tăng của lạm phát. Vì vậy công cụ hạn
mức tín dụng có ý nghĩa quan trọng và việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết để


thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng gây khó khăn cho NHTM vì thế cần
phải có những giải pháp hỗ trợ tiếp nối để làm giảm bớt những khó khăn cho NHTM.
Thứ nhất: để NHTM kinh doanh được tốt, huy động được nhiều vốn trong dân cư
(đây là sự cần thiết để chống lạm phát) nên mở hướng cho chi nhánh NHTM cấp tỉnh có
thể được mua tín phiếu NHNN khi thừa vốn. Như vậy nâng cao được tính năng động,
sáng tạo vì nó gắn với lợi ích trực tiếp của nơi thừa vốn.

Thứ hai: để giảm bớt khó khăn cho Ngân hàng nông nghiệp, NHNN và chính phủ
nên cho phép ngân hàng nông nghiệp không phải ký quỹ bắt buộc hoặc để 1 tỷ lệ rất nhỏ
trên số tiền gửi.
Thứ ba: chính phủ nên giao cho các NHTM huy động thay cho kho bạc và theo chủ
định của chính phủ về mức huy động và lãi suất đảm bảo kinh doanh . Số huy động được
theo chỉ định sẽ chuyển giao cho kho bạc để đáp ứng yêu cầu chi tiêu của chính phủ.
Thực hiện tốt những giải pháp nêu trên vừa đảm bảo chống lạm phát vừa giúp cho
các NHTM hoạt động có hiệu quả.
Qua các phần trên tôi đã trình bày các giải pháp để hoàn thiện các công cụ của chính
sách tiền tệ. Nhưng một mặt hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ, mặt khác cần
phối hợp đồng bộ các công cụ đó trong việc kiểm soát lạm phát. Như công cụ dự trữ bắt
buộc do quá nhạy cảm do đó công cụ này cần phải được sự bổ trợ của các công cụ tinh vi
hơn (tái chiết khấu, thị trường mở). Ngược lại trong khi NHNNTW cần coi trọng việc sử
dụng công cụ thị trường mở, công cụ tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu trong việc
điều hành chính sách tiền tệ thì công cụ dự trữ bắt buộc được sử dụng để hỗ trợ hai công
cụ nêu trên. Các phần trên chúng ta đã nghiên cứu và thấy được quan hệ chặt chẽ giữa lãi
suất và tỷ giá . Do đó cần thiết lập nhiều công cụ thực sự có mối quan hệ chặt chẽ gồm cả
các công cụ bổ trợ và công cụ trung gian. Bởi vì khi phối hợp đồng bộ các công cụ, thì
việc điều khiển một công cụ sẽ làm cho các công cụ khác được cộng hưởng về sức mạnh.
Chính vì vậy, không những phải hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ mà
còn phải phối hợp các công cụ đó với nhau trong việc kiểm soát lạm phát.



×