ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP THUỘC CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ MÀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM ĐÃ SỬ DỤNG NHẰM KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT TRONG THỜI GIAN QUA
Lời mở đầu:
Năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Vì
vậy, nền kinh tế Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của các biến động nền kinh
tế tồn cầu, địi hỏi các nhà hoạch định chính sách thực hiện kiềm chế lạm
phát.Lạm phát là một vấn đề kinh tế cơ bản và quan trọng đối với bất kỳ quốc
gia nào trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Nếu mức độ lạm phát ở
mức vừa phải sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu tỉ lệ ở mức hai
con số thường sẽ làm cho nền kinh tế mất cân đối và gây ra những hậu quả
nghiêm trọng. Trong khi đó ngăn chặn vấn đề lạm phát không phải là vấn đề
đơn giản mà cần có các giải pháp thống nhất, đồng bộ và khơn ngoan.
Gần đây ở Việt nam có dấu hiệu của sự lạm dụng các cơng cụ của chính sách
tiền tệ trong nhiệm vụ kiềm chế lạm phát. Điều này thể hiện sự yếu kém trong
việc quản lý và sử dụng chính sách tiền tệ của chúng tới . Vì vậy đứng trước
nguy cơ tiềm ẩn của lạm phát, việc nghiên cứu chính sách tiền tệ nhằm kiểm
sốt lạm phát là vơ cùng cần thiết.
Do đó đề tài "Sử dụng chính sách tiền tệ trong việc kiểm sốt lạm
phát", chính sách tiền tệ (CSTT) là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực
kỳ quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng
lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát
Để đạt được các mục tiêu của CSTT thì việc sử dụng các cơng cụ của nó có vai
trị cơ bản, quyết định. Từ khi đổi mới đến nay, các công cụ của CSTT dang
từng bước hình thành, hồn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế.
Việc lựa chọn các công cụ sao cho phù hợp và việc sử dụng chúng sao cho
hiệu quả nhất trong từng giai đoạn kinh tế luôn là một vấn đề mà Nhà nước
quan tâm theo dõi và đưa ra các quyết định cụ thể,có thể nói, trong chính
sách kinh tế vĩ mơ của nhà nước thì chính sách tiền tệ (CSTT) của ngân hàng
trung ương (NHTW) đóng vai trị rất quan trọng. Do nắm trong tay các công
cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thơng mà qua đó có thể tác động
đến hầu hết mọi hoạt động kinh tế xã hội và ảnh hưởng trực tiếp tới sự cân
bằng ngân sách nhà nước (NSNN), cán cân thanh toán quốc tế và sự ổn định
của nền kinh tế quốc gia. Trong nền kinh tế phát triển nhanh của nước ta
hiện nay luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao, do đó một công cụ điều tiết vĩ mô
hiệu nghiệm như CSTT được tận dụng trước tiên với hiệu suất cao cũng là
điều tất yếu. Việc sử dụng CSTT như thế nào và hướng mục tiêu của CSTT ra
sao là một trong những vấn đề rất quan trọng mà NHTW cần hướng tới. Để
đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá
cố định, chính sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền
tệ dựa vào GDP danh nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa
vào lượng hóa mục tiêu lạm phát.
Vì vậy, nhóm chúng em “nghiên cứu và phân tích tác động của một số biên
pháp thuộc chính sách tiền tệ mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng nhằm kiềm
chế lạm phát trong thời gian qua”
-Thực trạng chung về lạm phát ở Việt Nam: Nước ta là một nền kinh tế có độ
mở lớn lên việc ảnh hưởng bởi biến động của tình hình thế giới là khơng
tránh khỏi.Ngồi ra nước ta thiên tai dịch bệnh diễn ra hết sức phức tạp
trong khi nhu cầu và sức mua của người dân ngày một tăng. Hơn nữa quy mô
kinh tế nước ta nhỏ, trình độ phát triển, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế
thấp, sức cạnh tranh chưa cao dẫn đến tình trạng trong giai đoạn hiện nay
lạm phát ở nước ta đang tăng cao.
-Tính cấp thiết của việc kiềm chế lạm phát: Việc nghiên cứu lạm phát là một
vấn đề cần thiết và cấp bách đối với nền kinh tế đặc biệt là thị trường còn
non nớt như nền kinh tế của nước ta. Để hiểu rõ hơn về tình hình lạm phát ở
nước ta hiện nay ta cần hiểu lạm phát là gì? và kiềm chế lạm phát như thế
nào? sử dụng biện pháp gì?
-Mục tiêu nghiên cứu: tìm cách giảm tình trạng lạm phát, bình ổn giá, giảm tỉ
lệ thất nghiệp…
-Đối tượng nghiên cứu:
. Tình hình lạm phát ở Việt Nam
· Đưa ra nhận xét về vấn đề lạm phát ảnh hưởng tới nền kinh tế
-Phương pháp nghiên cứu:
· phương pháp thống kê dữ liệu
· Sử dụng phương pháp phân tích mơ tả
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT VÀ VAI TRỊ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ TRONG VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Lý thuyết về lạm phát
1. Khái niệm về lạm phát
Lạm phát xảy ra khi mức gía chung thay đổi . Khi mức giá tăng lên được
gọi là lạm phát , khi mức giá giảm xuống thì được gọi là giảm phát . Vậy
lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian .
I.
Cố định lạm phát ở mức giá thấp là mơi trường kinh tế vĩ mơ thuận lợi để
khuyến khích tiết kiệm mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Cả lạm phát quá cao và lạm phát quá thấp đều ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế .
Bản chất của lạm phát
Là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động tăng lên của giá cả diễn ra
trong một thời gian dài .
2.
Nguyên nhân lạm phát
a.Lạm phát cầu kéo
3.
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản
lượng đã đat hoặc vượt quá tiềm năng.trong thực tế khi xảy ra lạm phát
cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền trong lưu thơng và khối
lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức
cung hàng hóa.
Hình 1.1: Lạm phát do cầu-kéo
P Q’
AS
P’
E’
AD’
P
E
AD
b .Lạm phát chi phí đẩy
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi
phí lên cao, đường AS dich chuyển lên cao. Tuy tổng cầu không thay đổi
nhưng giá cả tăng lên và sản lượng giảm xuống.
Gía cả sản phẩm trung gian tăng đột biến thường do các nguyên nhân
sau: thiên tai, chiến tranh, kinh tế.
P
Q’
AS'
AS
E’
P’
E
P
AD
Hình 1.2: Lạm phát chi phí đẩy
c .Lạm phát dự kiến
Trong nền kinh tế tiền tệ,trừ siêu lam phát và lạm phát phi mã,lạm phát
vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó.giá cả trong trường
hợp này tăng đều với một tỉ lệ tương đối ổn định.tỉ lệ lạm phát này gọi là
tỉ lệ lạm phát ỳ,và vì mọi người đã có thể dự tính trước mức độ của nó nên
cịn được gọi là lạm phát dự kiến.
d .Lạm phát và tiền tệ
Lượng tiền tăng càng nhanh thì lạm phát cang cao và bất kì một chính
sách vĩ mơ nào giảm được tốc độ tăng tiền cũng dẫn đến giảm tỉ lệ lạm
phát và điều này dặc biệt đúng với thời kì ngắn hạn khi ngân sách thâm
hụt lớn, các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng tiền danh
nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã
tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lượng
tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xốy ốc này thường
diễn ra trong thời kì siêu lạm phát.
e .Lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỉ lệ lạm phát.
Khi tỉ lệ lạm phát tăng lên, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ
hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt
đúng trong các cuộc siêu lạm phát.
f. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh nặng của nền kinh tế thị trường
Đường Philips ban đầu
Đường này cho biết mối quan hệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Lý
thuyết này gợi ra rằng có thể đánh đổi lạm phát lấy thất nghiệp thấp. Khi
thất nghiệp thực tế thấp hơn tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát xảy ra. Đường
Philips gợi cho những người làm chính sách lựa chọn các chính sách vĩ
mơ, đặc biệt là chính sách tài khóa và tiền tệ.
Đường Philips mở rộng
Đường này cho biết khi thất nghiệp bằng tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát bằng
tỉ lệ dự kiến. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát
thấp hơn tỉ lệ tự nhiên. Khi thất nghiệp và lạm phát tăng lên - khơng có sự
đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát trong ngắn hạn - đó là thời kì đình
trệ thất nghiệp. Sự điều tiết bằng chính sách tiền tệ và tài khóa giữ cho
nền kinh tế ổn định sản lượng.
Đường Philips dài hạn
Trong dài hạn tỉ lệ thất nghiệp thực tế có thể bằng tỉ lệ thất nghiệp dự
kiến bởi sự tác động của các chính sách tài khóa và tiền tệ.
Tỉ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỉ lệ tự nhiên dù tỉ lệ lạm phát thay đổi
như thế nào. Vậy trong dài hạn lạm phát và thất nghiệp không có mối
quan hệ với nhau.
4. Tác động của lạm phát
a, Đối với sản lượng và việc làm
Cùng với sự tăng mức giá chung, sản lượng của nền kinh tế cũng bị giảm sút,
nền kinh tế vừa có lạm phát vừa bị suy thối. Nếu lạm phát do cầu thì sản lượ
ngcó thể tăng lên nhưng thực chất chỉ là sự tăng sản lượng tối ưu mà
vẫn
tăng lên hay còn gọi là lạm phát thuần. Nếu lạm phát do cả cung lẫn cầu
thì tùy theo mức độ dịch chuyển của cung và cầu mà sản lượng có thể
tăng hoặc giảm.
b, Đối với phân phối lại thu nhập:
Tác động của lạm phát đối với phân phối lai thu nhập phụ thuộc vào kết
quả dự tính tỷ lệ lạm phát, tính linh hoạt của tiền lương, sự chênh lệch về tốc
độ
tăng giá giữa các loại hàng hóa dịch vụ. Tuy nhiên khi nền kinh tế có sự biến
động lớn thì phân phối thu nhập lại càng trở nên không cân bằng. Lạm phát c
ao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập khơng tăng kịp m
ức tăngcủa giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu nhập cố định
như là những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi và mức sống
của
họ sẽ
bị
giảm đi.Việc phân phối lại thu nhập do lạm phát xảyra theo chiều hướng
chuyển bớt thu nhập từ những người nắm các yếu tố có giá tăng chậm sang
những người nắm các yếu tố có giá tăng nhanh hơn so với tỷ lệ lạm phát.
Mức độ phân phối lại cịn phụ thuộc ít nhiều
vào: Mức độ chênh lệch về tốc độ
tăng của
các loại hàng hóa, các yếu tố sản xuất, các loại
tài
sản.Chênh lệch càng cao thì phân phối lại càng nhiều.
Đối với cơ cấu kinh tế: Lạm phát có thể làm thay đổi cơ cấu kinh tế do giá các
loại hàng hóa khơng thay đổi theo cùng 1 tỷ lệ. Những ngành có giá tăng nha
nh sẽ tăng tỷ trọng trong tăng trưởng:
- Do giá tăng nhanh, làm tăng giá trị sản lượng tính theo giá hiện hành
- Do giá một số ngành tăng nhanh, nguồn sản xuất sẽ chảy về ngành đó, làm
tăng giá trị sản lượng thực của ngành. Đồng thời lúc đó sản lượng của các ng
ành khác có thể giảm xuống. Kết quả là tỷ trọng của ngành có giá tăng nhanh
hơn
sẽ cao hơn, tỷ trọng của ngành khác sẽ thấp hơn, cho dù tính giá hiện hành
hay giá cố định.
Đối với cơ cấu đầu: Khi giá cả và lạm phát có diễn biến thất thường làm giảm
hiệu quả của các khoản đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư dài hạn. Hiện tượ
ng thoái lui đầu tư diễn ra do các nhà đầu tư không tin tưởng vào hiệu quả c
ủa các dự án đó mang lại thay vào đó là xu hướng dự trữ những tài sản hoặc
hàng hóa
có giá trị hơn là giữ tiền mặt cũng như đầu tư nhằm hạn chế những rủi ro có
thể xảy ra đối với tài sản của họ. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đ
ầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất. Cơ
cấu
các nguồn lực được phân bổ lại một cách kém hiệu quả từ đó ảnh hưởng tới
sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Đối với hiệu quả kinh tế: Lạm phát có thể tạo ra một số tác động làm cho việc
sử dụng nguồn lực trở nên kém hiệu quả do:
-Lạm phát làm sai lệch tín hiệu giá: giá là tín hiệu quan trọng để giúp cho
người mua có được quyết định tối ưu. Trong thời kỳ lạm phát cao, giá thay đ
ổi
quá nhanh làm cho người tiêu dùng không kịp nhận biết mức giá tương đối g
iữacác loại hàng hóa thay đổi như thế nào.
- Lạm phát làm lãng phí thời gian cho việc đối phó với tình trạng mất giá tiền
tệ. Khi lạm phát xảy ra, càng giữ nhiều tiền mặt trong tay thì càng trở nên
“nghèo” đi, do giá trị đồng tiền bị giảm sút. Tiền mặt không cịn được ưa
chuộng thay vào đó là xu hướng dự trữ một số mặt hàng có thể dự trữ
hoặc dự trữ vàng , ngoại tệ…
- Ngồi ra lạm phát cịn ảnh hưởng tới nhiều hoạt động kinh tế khác, do cơ cấ
u
kinh tế biến đổi làm cho các cá nhân mất thêm các khoản chi phí khác
để thay
đổi, thích ứngvới diễn biến khác nhau của thị trường.
II. Lý thuyết về chính sách tiền tệ
1) Khái niệm chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là hệ thống các giải pháp và công cụ quản lý vĩ mô của nhà
nước về tiền tệ do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi nhằm ổn định
giá trị đồng tiền, hướng nền kinh tế vào sản lượng và việc làm mong muốn.
2) Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Tăng trưởng kinh tế.
Ổn định giá cả, kiềm soát được lạm phát.
Tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, hạ thấp tỷ lệ thất
nghiệp và duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên.
Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
3) Công cụ của chính sách tiền tệ.
Vì chính sách tiền tệ chỉ có khả năng tác động vào thị trường tiền tệ, qua đó
tác động đến tổng cầu và sản lượng nên việc kiểm soát của ngân hàng trung
ương tập trung vào một trong hai công cụ chủ yếu là mức cung tiền(MS)
hoặc lãi suất(i).
4) Các công cụ quản lý tiền tệ thường dùng của ngân hàng trung ương.
a. Hoạt động thị trường mở
- Thị trường mở là thị trường tiền tệ của ngân hàng trung ương được sử
dụng để mua bán trái phiếu kho bạc của nhà nước.
- Cơ chế tác động:
+) Muốn tăng mức cung tiền, ngân hàng trung ương sẽ mua trái phiếu ở thị
trường mở. Họ đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng
dự trữ của các ngân hàng thương mại, dẫn đến tăng khả năng cho vay, tăng
mức tiền gửi nhờ số nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền đã tăng
gấp bội so với số tiền mua tín phiếu của ngân hàng trung ương.
+) Tương tự, muốn giảm mức cung tiền, ngân hàng trung ương sẽ bán trái
phiếu của Chính phủ.
b. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
- Dự trữ bắt buộc là số tiền mà ngân hàng thương mại buộc phải duy trì trên
tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung
ương là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với các ngân hàng thương mại.
- Cơ chế tác động:
Sự tăng lên hay giảm xuống của tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo
tiền và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, qua đó tác động đến
lượng tiền cung ứng trên thị trường. Như vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp, số
nhân tiền tệ sẽ lớn là điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng, tăng nhanh
mức cung tiền.
c. Lãi suất chiết khấu
- Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của ngân hàng trung ương khi họ
cho các ngân hàng thương mại vay tiền để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng
thêm dự trữ của các ngân hàng thương mại.
- Cơ chế tác động:
Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện cho vay
thuận lợi, sẽ là tín hiệu khuyến khích các ngân hàng thương mại vay tiền để
tăng dự trữ và mở rộng cho vay,dẫn đến mức cung tiền sẽ tăng lên.
Ngoài 3 công cụ chủ yếu trên đây nhằm điều tiết gián tiếp đối với thị trường
tiền tệ, ngân hàng trung ương còn có những công cụ khác như kiểm soát tín
dụng có lựa chọn, quy định trực tiếp đối với lãi suất…
5) Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ.
a. Khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, lạm phát cao.
+)Mục tiêu đặt ra là giảm lạm phát.
+)Giải pháp: muốn chống lạm phát, ngân hàng trung ương phải sử dụng
chính sách tiền tệ chặt (MS, i).
+)Cơng cụ:
•
•
•
Bán chứng khoán trên thị trường mở.
Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tăng lãi suất chiết khấu.
•
NHTW phát hành tiền để giảm lượng tiền cơ sở.
+)Cơ chế: MS i I AD Y P
+)Kết luận: Khi nền kinh tế có lạm phát cao, chính phủ sử dụng chính sách
tiền tệ chặt nhằm giảm tổng cầu và hạ thấp lạm phát.
b. Khi nền kinh tế suy thoái, thất nghiệp gia tăng.
+)Mục tiêu: giảm thất nghiệp, chống suy thoái.
+)Giải pháp: muốn chống suy thoái và thất nghiệp, ngân hàng trung ương
phải sử dụng chính sách tiền tệ lỏng(MS, i)
+)Công cụ:
-
tăng tiền cơ sở phát hành trong lưu thông.
mua chứng khoán trên thị trường mở.
giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chiết khấu.
+)Cơ chế: MS i I AD Y u.
+)Kết luận: Khi nền kinh tế suy thoái, chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ
lỏng nhằm tăng sản lượng và giảm thất nghiệp.
Vai trị của chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát
I.Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát:
1.Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên
một tài khoản tiền gửi khơng hưởng lãi tại NHTƯ. Nó được xác định bằng
một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng
thời gian nào đó. Mức DTBB được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn
tiền gửi, vào quy mơ và tính chất hoạt động của NHTM. Cơ chế điều hành:
trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ nâng tỷ lệ DTBB, qua
đó làm lãi suất các khoản vay của NHTM tăng lên, các doanh nghiệp bị
hạn chế về khả năng tiếp cận vốn, khả năng mở rộng sản xuất giảm đi. Từ
đó dẫn đến sản lượng hàng hóa cung ứng sụt giảm và làm giảm áp lực cầu
tiền.
Ưu điểm: công cụ này có thể tác động một cách đầy quyền lực và như nhau
đến tất cả các NHTM. Cụ thể là, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ DTBB
thì tác động của nó đến khối lượng tiền tệ là rất lớn. Vì đây là biện pháp
mang tính bắt buộc nên lãi suất của các NHTM chắc chắn tăng hoặc giảm.
III.
Nhược điểm: cơng cụ DTBB có thể gây ra các tác động tiêu cực đến nền
kinh tế.
Khi các NHTƯ muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ thì khó có thể
thực hiện được nếu sử dụng cơng cụ này. Bên cạnh đó, việc thay đổi tỷ lệ
DTBB sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các NHTM có mức dự
trữ vượt quá ở mức thấp, nền kinh tế rơi vào tình trạng thiếu vốn và rơi
từ khó
khăn này đến khó khăn khác.
Hơn nữa nếuthường xuyên thay đổi tỷ lệ DTBB cũng gây ra tình trạng
khơng ổn định cho các NHTM và làm cho việc quản lí khả năng thanh tốn
của các ngân hàng này gặp khó khan. Cơng cụ này cịn có độ trễ về mặt
thời gian nên một sự gia tăng hay giảm tỉ lệ DTBB đòi hỏi THTƯ phải
nghiên cứu sự chịu đựng của các NHTM, cũng cần phải để thời gian cho
các NHTM đủ để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới
2. Tái chiết khấu :
Công cụ chiết khấu là công cụ của NHTƯ trong việc thực thi CSTT, bằng
cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTƯ cho các
ngân hàng vay để kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ
thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTƯ kiểm
sốt cơng cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi
suất cho vay tái chiết khấu).
Cơ chế điều hành: trong nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ nâng lãi suất tái
chiết khấu khiến khả năng cho vay của các NHTM bị hạn chế, dẫn tới các
doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận các khoản vay để duy trì và mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là lượng hàng hóa cung ứng
giảm đi làm giảm áp lực cầu tiền giúp giảm áp lực của lạm phát.
Ưu và nhược điểm: công cụ này được thực hiện nhanh chóng nhưng khối
lượng tiền tệ cung ứng trong nền kinh tế có thể tăng hoặc có thể giảm,
phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của khách hàng là có muốn vay hay
khơng muốn vay. Hơn nữa, nếu dịng vốn là tự do linh hoạt giữa các quốc
gia, khi nâng lãi suất ở các nước có lạm phát, làm cho dịng vốn nước
ngồi đổ vào các quốc gia này sẽ tăng lên, nhưng một khi kinh tế ổn định
thì một khối lượng dòng vốn khổng lồ sẽ chảy ra khỏi nước gây ra những
bất ổn về kinh tế và chính trị. Bên cạnh đó, chính sách này cần có thời gian
mới có hiệu quả, nên nó có độ trễ về thời gian.
3. Hoạt động thị trường mở :
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) phản ánh việc NHTƯ mua hoặc bán
các giấy tờ có giá trên thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt được mục
tiêu điều chỉnh lượng tiền trong lưu thơng. Các giấy tờ có giá đó là: tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, thương phiếu, v.v... Trong đó, tín phiếu
kho bạc được tham gia rộng rãi nhất. Các thành viên tham gia thị trường
mở là các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các doanh nghiệp.
Thành viên tham gia phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để được cấp giấy
phép tham gia thị trường mở.
Cơ chế điều hành: Khi nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ bán các giấy tờ có
giá trên thị trường mở, qua đó làm cho lượng tiền cung ứng cho vay của
các NHTM giảm, các doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
vay dẫn tới sự khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh khi chi phí
đầu vào sản xuất tăng lên. Lượng hàng hóa cung ứng giảm khiến cho áp
lực về cầu tiền đối với các hoạt động thanh toán giảm và kết quả cuối cùng
là giảà giảm áp lực về lạm phát.
Ưu điểm: cơng cụ này có thể điều tiết lượng tiền cung ứng chính xác nhất,
cao nhất, hiệu quả nhất so với các cơng cụ khác của CSTT vì NHTƯ có thể
chủ động tiến hành mà khơng phải lệ thuộc vào nhu cầu của các NHTM.
Bên cạnh đó, cơng cụ DTBB và lãi suất chiết khấu không thể thay đổi theo
ngày nhưng NVTTM hồn tồn có thể thay đổi theo ngày, theo các phiên
giao dịch. Công cụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở
bất kỳ mức độ nào. Nếu mong muốn của NHTƯ là thay đổi dự trữ của các
NHTM ở biên độ lớn, nó có thể mua hoặc bán các giấy tờ có giá với khối
lượng lớn, và ngược lại, nếu mong muốn NHTƯ thay đổi dự trữ của
NHTM ở biên độ nhỏ, NHTƯ sẽ thực hiện việc mua và bán ra ít chứng
khốn hơn.
Nhược điểm: để cơng cụ này hoạt động có hiệu quả địi hỏi hầu hết tiền
trong lưu thơng phải nằm trong tài khoản của các ngân hàng, phải có sự
phát triển cao của cơ chế thanh tốn khơng dùng tiền mặt. Bên cạnh đó,
cơng cụ này cần một thị trường tài chính phát triển cao, mà điều này chỉ
có ở các nước có nền kinh tế - cơng nghiệp ngân hàng phát triển.
4. Lãi suất :
Đây được xem là cơng cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì
sự thay đổi lãi suất khơng trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt
lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản
xuất. Nó là 1 cơng cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là
tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của
Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín
dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Cơ chế điều hành: Gián tiếp: NHTM công bố mức lãi suất áp dụng
với các khoản cho vay chiết khấu, cầm cố chứng từ có giá.
Trực tiếp: Quy định mức lãi suất tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu đối với các
tổ chức tín dụng.
Các mức lãi suất thường cơng bố:
- Lãi suất chiết khấu.
- Lãi suất NHTƯ đối với nền kinh tế mang tính quản lý: khung lãi suất,
trần lãi suất…
- Lãi suất mang tính tham lãi: lãi suất liên NH thị trường Singapore,
London…
- Lãi suất công bố theo năm, kỳ, tháng, ngày.
Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền
cung ứng thay đổi theo.
Ưu điểm: Giúp cho NHTƯ thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu của từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có
điều kiện để phát huy tác dụng của các cơng cụ gián tiếp khác.
Nhược điểm: Nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền
kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình
thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Mặt khác việc
thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn
kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
5. Hạn mức tín dụng:
NHTƯ quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một
lượng
nào đó trong một thời gian nhất định (một năm) để thực hiện vai trị kiểm
sốt mức cung tiền của mình. Việc định ra hạn mức tín dụng cho tồn nền
kinh tế dựa trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế vĩ mơ (tốc độ tăng trưởng, lạm
phát…) sau đó NHTƯ sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho
vay vượt quá hạn mức do NHTƯ quy định.
Cơ chế tác động: Đây là một công cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với
lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng
cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng
theo mục tiêu của NHTM.
Ưu điểm: Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng
khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó
rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao
của nền kinh tế.
Nhược điểm: Triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm
hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức
tín dụng ngồi sự kiểm sốt của NHTƯ và nó sẽ trở nên q kìm hãm khi
nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên.
6. Công cụ tỷ giá hối đoái :
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại
tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ
cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đối là cơng cụ, là địn bẩy điều tiết cung
cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy
bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa,tình trạng tài chính,
tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất
nước. Về thực chất tỷ giá không phải là cơng cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ
giá khơng làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều
nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là
công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Cơ chế điều hành: NHTƯ trực tiếp mua bán ngoại tệ để điều chỉnh tỷ giá
hối đoái.
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CSTT CỦA CHÍNH PHỦ ĐỂ
KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN QUA
I. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong mấy năm gần đây
Tình hình hiện tại: lạm phát cao, tăng trưởng thấp
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng
trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh tốn có số dư). Tình
hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt
qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ
dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong
nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người
dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang
Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động từ chính thành
cơng q lớn và q nhanh chóng của chính mình.
Việt Nam cần có một cách tiếp cận mới, linh hoạt hơn, thích ứng với biến
động thị trường để cuối 2008 lạm phát có thể trở về một con số. Cách đây vài
năm, năm 2004, Việt Nam cũng đặt trong chỉ số lạm phát của Việt Nam ở
mức 9,4%. Tuy nhiên, so với thời điểm đó, tình hình lạm phát năm nay có
nhiều điểm khác.
Một là, đồng USD bị mất giá trên tồn cầu, địi hỏi có những tính tốn, cân
nhắc về việc có nên tiếp tục cố định tỷ giá tiền đồng so với tiền USD khơng.
Hai là dịng vốn từ nước ngoài đổ vào Việt Nam nhiều hơn rất nhiều so với
trước. Ngân hàng Nhà nước giữ vai trò điều tiết buộc phải đóng vai trị
người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Tốc độ
tăng cung tiền của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực,
đặc biệt mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt
Nam dãn rộng trong 3 năm qua.
Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng
trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng
trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,59%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng
trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. .
Lạm phát Việt Nam lên tới cao điểm là 23% hồi tháng 8/2011, khiến cho
nước này bị liệt vào hàng những nước có lạm phát cao nhất thế giới.
Việt Nam đã tái tập trung nỗ lực từ việc tăng trưởng kinh tế sang việc bình
ổn để đối phó với nạn giá cả tăng và những thách thức khác, kể cả việc giảm
bớt dự trữ ngoại tệ, thâm thủng thương mại và áp lực đối với đồng bạc Việt
Nam.
Trong năm 2011, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam do chính phủ đặt
ra cho năm 2011 là 6% nhưng nó đã giảm xuống ở mức 5,9%.
Nội cho biết chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong năm 2012 là ở mức từ 6 tới 6,5%
Khẳng định rằng, nền kinh tế đang bắt đầu có hướng đi đúng, nhưng các
chuyên gia vẫn lo ngại về khả năng lạm phát ở Việt Nam. Chỉ số lạm phát
chính thức mới nhất của tháng Giêng đã phản ánh xu hướng này. Lạm phát
toàn phần tháng Giêng tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước trong khi tháng
12.2012 chỉ là 6,9%. Về mặt liên tục, lạm phát tăng 1,3% so với tháng trước
(khơng tính yếu tố điều chỉnh theo mùa) từ mức 0,3% của tháng 12.2012.
Tính cả yếu tố mùa vụ và theo tháng (lưu ý Rx12 theo phương pháp mùa vụ
có thể khơng ảnh hưởng khi loại bỏ sự thay đổi thời gian diễn ra Tết Nguyên
Đán), lạm phát toàn phần tháng 1 tăng lên tới 0,6% từ mức 0,4% của tháng
12. Lạm phát thực phẩm tăng từ 1% trong tháng 12 so với cùng kỳ năm
trướcđến 1,3% trong tháng Giêng. Trên cơ sở không điều chỉnh theo mùa và
tính theo tháng, chỉ số lạm phát thực phẩm tháng Giêng tăng 1,3% trong khi
chỉ số của tháng 12 là 0,3%.
Lạm phát cơ bản vẫn còn cao ở 12,6% so với cùng kỳ năm trước trong tháng
Giêng, tăng từ mức 12,2% trong tháng 12. Lạm phát cơ bản cao hơn đáng kể,
cùng với giá dầu tăng cao, có nghĩa là lạm phát tồn phần có thể tăng nhanh
nếu lạm phát thực phẩm cũng tăng.
Theo dự báo trong vài năm tới lạm phát của Việt Nam sẽ dừng lại ở một con
số, dự kiến lạm phát trung bình năm 2013 khoảng 7,5% trước khi tăng lên
khoảng 8,2% trong năm 2014. Thặng dư thương mại dự kiến sẽ đạt mức kỷ
lục 12,5 tỉ USD trong năm 2013.
II. Những biện pháp cụ thể để kiềm chế lạm phát
1. Các biện pháp để chiến thắng lạm phát giai đoạn 2007-2009
Nguồn: tổng cục thống kê
Từ bảng số liệu trên ta áp dụng cơng thức tính được tỉ lệ lạm phát qua các năm là: (đơn vị
%)
Năm
Gp
2000
-1,6
2003
3,2
2004
7,7
2005
8,3
2006
7,5
2007
8,3
2008
23,0
2009
6,9
2010
9,2
2011
18,6
Từ bảng số liệu ta thấy
Năm 2008 là năm có nhiều khó khăn và thử thách đối với hoạt động của
ngành Ngân hàng. Có thể nói đây là những khó khăn, thử thách lớn nhất, gay
go nhất tính từ sau thời kỳ đổi mới của ngành Ngân hàng. Sau một thời gian
dài lạm phát được giữ ở mức một con số thì đến năm 2004 lạm phát lại bùng
nổ ở mức cao (7,7%) và đến những tháng cuối của năm 2007, lạm phát đã
tăng lên 2 con số và đạt mức 12,63% vào tháng 12/2007(xem bảng).
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ cả nước
Tháng 12 năm 2007
Chỉ số giá tháng 12 năm 2007 so với
Kỳ gốc
năm 2005
Tháng 12
năm 2006
Tháng 11
năm 2007
Chỉ số giá bình
quân năm 2007
so năm 2006
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
121,83
112,63
102,91
108,30
I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
130,29
118,92
104,24
111,16
Trong đó: 1- Lương thực
133,41
115,40
102,98
115,02
129,50
121,16
104,69
110,06
II. Đồ uống và thuốc lá
115,26
106,78
101,33
106,02
III. May mặc, mũ nón, giầy dép
113,74
106,70
101,16
106,15
IV. Nhà ở và vật liệu xây dựng (*)
127,10
117,12
103,28
111,01
V. Thiết bị và đồ dùng gia đình
113,19
105,15
100,46
106,15
VI. Dược phẩm, y tế
113,11
107,05
100,61
105,12
VII. Phương tiện đi lại, bưu điện
115,79
107,27
104,38
103,60
92,34
96,45
99,23
97,19
VIII. Giáo dục
107,94
101,97
100,08
103,30
IX. Văn hố, thể thao, giải trí
105,90
101,69
100,29
103,18
X. Đồ dùng và dịch vụ khác
118,49
109,02
101,61
107,72
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG
183,73
127,35
102,13
113,62
CHỈ SỐ GIÁ ĐƠ LA MỸ
101,46
99,97
99,81
100,62
2- Thực phẩm
Trong đó: Bưu chính viễn thông
Những tháng tiếp theo của năm 2008, lạm phát tiếp tục tăng cao, chỉ tính
riêng 3 tháng đầu năm 2008, chỉ số CPI đã tăng là 9,1% (đây là quý có mức
tăng cao nhất tính từ năm 1995 trở lại đây) và đã vượt xa chỉ tiêu của Chính
phủ đặt ra cho cả năm 2008 là: GDP tăng từ 6,7 – 7% và giữ CPI thấp hơn
mức này.
Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đôla Mỹ cả nước
Tháng 12 năm 2008
Đơn vị tính: %
CHỈ SỐ GIÁ THÁNG 12 NĂM 2008 SO VỚI
Kỳ gốc năm
2005
Chỉ số giá bình
quân năm
Tháng 12 năm Tháng 11 năm 2008 so với
2007
2008
năm 2007
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
146,07
119,89
99,32
122,97
I. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
171,79
131,86
99,87
136,57
1- Lương thực
191,11
143,25
97,64
149,16
2- Thực phẩm
163,86
126,53
100,76
132,36
3- Ăn uống ngoài gia đình
172,77
133,62
100,37
132,64
II. Đồ uống và thuốc lá
130,36
113,10
100,68
110,75
III. May mặc, mũ nón, giầy dép
128,42
112,90
101,01
110,33
IV. Nhà ở và vật liệu xây dựng (*)
137,86
108,46
97,64
120,51
V. Thiết bị và đồ dùng gia đình
127,54
112,68
100,60
109,06
VI. Dược phẩm, y tế
123,78
109,43
100,35
108,87
VII. Phương tiện đi lại, bưu điện
123,39
106,56
93,23
116,00
78,43
84,93
94,02
88,24
VIII. Giáo dục
115,35
106,87
100,17
104,16
IX. Văn hố, thể thao, giải trí
116,83
110,33
100,66
105,87
X. Đồ dùng và dịch vụ khác
133,86
112,97
100,75
113,17
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG
196,29
106,83
100,78
131,93
CHỈ SỐ GIÁ ĐƠ LA MỸ
107,86
106,31
101,14
102,35
Trong đó: Bưu chính viễn thơng
Đứng trước tình hình này, Chính phủ đã xác định chống lạm phát là mục tiêu
hàng đầu. Chính vì thế, ngay từ những tháng đầu của năm 2008, Chính phủ
đã ban hành một loạt các văn bản (i) số 75/TTg-KTTH ngày 15/01/2008 về
biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008; (ii) số 319/TTgKTTH ngày 03/3/2008 về tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát năm
2008 và đặc biệt là (iii) Nghị quyết 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về 8 giải
pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh
xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó nhấn mạnh các định hướng chủ
đạo trong hoạt động kiềm chế lạm phát là “… Tiếp tục thực hiện chính sách
tiền tệ (CSTT) một cách chặt chẽ, thận trọng và chủ động; sử dụng linh hoạt
và có hiệu quả các công cụ CSTT theo nguyên tắc thị trường để kiểm sốt quy
mơ, tốc độ tăng tín dụng và tăng tổng phương tiện thanh toán một cách hợp
lý nhằm đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, góp phần thực hiện
được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức cao, nhưng đồng thời đảm bảo mục
tiêu kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng kinh tế… và điều tiết có hiệu
quả vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) và kiểm sốt tốc độ tăng
tổng phương tiện thanh tốn và tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu năm”.
Điều hành chính sách tiền tệ kiềm chế lạm phát năm 2008
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và căn cứ vào tình hình thực tế,
ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành CSTT theo
hướng thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và
kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm bảo mức tăng tổng dư nợ
tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá 30%. Để thực hiện mục tiêu
này, NHNN đề ra những giải pháp và biện pháp cụ thể:
1. Chỉ đạo các TCTD kiểm sốt chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao
như đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản thông qua việc:
- Siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay,
chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khốn khơng được
vượt q 20% vốn điều lệ của TCTD.
- Yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay
bất động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay.
- Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của TCTD theo hướng chặt chẽ
hơn nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn
ngoại tệ.
2. Sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc (DTBB),
thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các ngân hàng thương
mại (NHTM) và từ đó tác động lên khả năng cung vốn ngân hàng ra thị
trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể:
- Tăng tỷ lệ DTBB (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và
các TCTD hoạt động trên địa bàn nơng thơn).
- Tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành
20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động
bằng VND trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương).
- 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản, lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được thực hiện
nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm sốt tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người
gửi tiền, cụ thể :
+ Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm,
lãi suất chiết khấu lên 11%/năm.
+ Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên
15%/năm, lãi suất chiết khấu lên 13%/năm. - Đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi
suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%/năm, 12%/năm, 10%/năm và
8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 14%/năm 13%/năm,
11%/năm và 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm xuồng 12%/năm
và 11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù
trừ của NHNN đối với các ngân hàng thương mại từ 15%/năm xuống
14%/năm, 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm.
- Đã tăng lãi suất tiền gửi DTBB bằng đồng Việt Nam đối với các TCTD từ
5%/năm lên 10%/năm và giảm 1% tỷ lệ DTBB đối với tiền nội tệ và 2% tỷ lệ
DTBB tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các TCTD. Tiếp đến tháng 11 giảm lãi
suất tiền gửi dự trữ bắt buộc xuống 7 % và hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống
còn mức 5% đối với Việt Nam đồng.
Việc áp dụng đồng bộ, linh hoạt các giải pháp trên đã góp phần đưa các chỉ
tiêu tiền tệ biến động theo định hướng đề ra:
(i)
Tổng phương tiện thanh toán được kiểm soát ở mức thấp;
(ii)
Tốc độ tăng trưởng đầu tư cho nền kinh tế chậm dần từ đó tác
động kiềm chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.
(iii)
ổn định nền kinh tế, giảm tỉ lệ lạm phát
Những thành tựu đạt được
Mặc dù trong giai đoạn vừa qua (2007 – 2009) nền kinh tế Việt Nam có
nhiều biến động thăng trầm, phải đối phó với lạm phát ở mức cao, phải
chống chọi lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu (năm 2008), sang năm
2009 nền kinh tế lại có dấu hiệu giảm phát tuy nhiên với việc thực thi
CSTT linh hoạt, hiệu quả của NHTƯ đã từng bước đưa nền kinh tế thoát
khỏi khủng hoảng và dần dần đang trên đà hồi phục. Cụ thể: Năm 2007,
với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn
định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ và hỗ trợ
vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã
tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm
mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã
bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương
25,2%/năm). Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%
Những mặt hạn chế
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt được mục tiêu đặt ra,
tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với
việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với
nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu cịn có hạn chế
nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là
dịng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều. (Theo số liệu thống kê đến tháng
10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người khơng cư trú
tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được
chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng
khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác
trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện
thanh toán của nền kinh tế (tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép
làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một
nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dịng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngồi (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh
hơn, và một lượng vốn nhất định của dân cư cũng như từ hệ thống ngân
hàng được đầu tư trên thị trường chứng khốn, qua đó đã làm tăng dư nợ
cho vay nền kinh tế.
Cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngồi là sự tăng giá
khó lường mang tính tồn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thơ,
giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong
nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong
bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ
tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát
dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất hỗ
trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ khơng
để xảy ra sự dịch chuyển dịng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm sốt
khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Năm 2007 dịng vốn đầu tư nước ngồi đổ vào ào ạt, việc hạn chế dòng
vốn này vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập
WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia
tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngồi tầm kiểm sốt của NHTƯ, mà địi
hỏi phải có chính sách vĩ mơ đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn
nước ngồi có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn
chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khốn,… nhằm hạn chế
những tác động bất lợi của dòng vốn này.
Năm 2008, NHTƯ đã thực hiện một loạt các biện pháp mạnh nhằm trị
bằng được “cơn ho” lạm phát. Việc thắt chặt tiền tệ với các biện pháp như
tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu… là
phù hợp với xu thế tự do hóa và thơng lệ quốc tế, ở đó, NHTƯ cần thực thi
chính sách tiền tệ của mình thơng qua các cơng cụ gián tiếp. Thế nhưng,
các liệu pháp trên vẫn chưa đủ liều và hình như chưa đủ răn đe.
Chính sách thắt chặt tiền tệ thơng qua việc phát hành tín phiếu trên thị
trường mở thì khơng có gì lạ, song điều mà nhiều người dễ nhận thấy là
tần suất thực hiện các liệu pháp tiền tệ là quá dày và mang tính mệnh lệnh
hành chính khơng phù hợp với xu thế thị trường.
2. Giai đoạn 2010-2011
Năm
Gp
2000
-1,6
2003
3,2
2004
7,7
2005
8,3
2006
7,5
2007
8,3
2008
23,0
2009
6,9
2010
9,2
2011
18,6
Bằng những giải pháp kiềm chế lạm phát năm 2008, vì vậy đến năm 2009 tỉ
lệ lạm phát của nước ta đã giảm xuống một con số là 6,9% nhưng đến năm
2010 tỉ lệ lạm phát lại đạt đến ngưỡng gần hai con số là 9,2% và đặc biệt là
đến năm 2011 tỉ lệ lạm phát tang cao lên đến 18,6%. Để kiềm chế lạm phát,
chính phủ đã sử dụng những biện pháp thuộc chính sách tiền tệ, cụ thể là:
Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
02/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2011 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo,
điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
nhà nước năm 2011. Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới hiện đang diễn biến
phức tạp, lạm phát tăng, giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của
sản xuất, giá lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tiếp tục xu
hướng tăng cao. Trong nước, thiên tai, thời tiết tác động bất lợi đến sản xuất
và đời sống; một số mặt hàng là đầu vào quan trọng của sản xuất như điện,
xăng dầu vẫn chưa thực hiện đầy đủ theo cơ chế giá thị trường buộc phải
điều chỉnh tăng; mặt khác, chúng ta phải nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khố
để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Tình
hình trên đây đã làm giá cả tăng cao, tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô
của nước ta. Vì vậy, tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng
giám đốc các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty, doanh nghiệp nhà nước tập
trung chỉ đạo, thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau đây:
1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa
phương:
a) Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hịa giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và
kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng
phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng
phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu,
công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay
vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng
khoán.
b) Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các cơng cụ chính sách tiền tệ,
nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm
phát.
c) Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến
thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết
để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu
cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn
định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
d) Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong q II năm 2011
trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh
doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động
buôn lậu vàng qua biên giới.
đ) Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban
hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt
động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi
phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật
đối với hành vi cố tình vi phạm.
2. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội
chi ngân sách nhà nước
a) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân
sách năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra, giám sát
trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ
đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và
hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.
- Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết
kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự tốn năm
2011 (khơng bao gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế
độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn
cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm). Các Bộ, cơ quan, địa phương tự
xác định cụ thể số tiết kiệm, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ trong tháng 3 năm 2011. Số tiết kiệm thêm 10% này các Bộ, cơ
quan, địa phương tự quản lý; từ quý III năm 2011 sẽ xem xét, bố trí cho các
nhiệm vụ cấp bách phát sinh ngồi dự tốn hoặc chuyển về ngân sách Trung
ương theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tạm dừng trang bị mới xe ơ-tơ, điều
hịa nhiệt độ, thiết bị văn phịng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại,
văn phịng phẩm, xăng dầu,...; khơng bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự
cấp bách. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức sử dụng
ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội
thảo, tổng kết, sơ kết, đi cơng tác trong và ngồi nước... Khơng bổ sung ngân
sách ngồi dự tốn, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ,
phịng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ
quyết định. Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm.
- Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát
chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn
hạn. Thực hiện rà sốt nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phịng,
khơng mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ
Chính phủ, dư nợ cơng, dư nợ nước ngồi trong giới hạn an tồn và an tồn
tài chính quốc gia.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012
cho các dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp
bách.
- Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước, trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung
ương các khoản này để bổ sung vốn cho các cơng trình, dự án hồn thành
trong năm 2011.
c) Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu
tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước.
d) Các Bộ, cơ quan, địa phương:
- Chưa khởi cơng các cơng trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước
và trái phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên
tai cấp bách và các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Rà sốt, cắt giảm, sắp xếp lại
để điều chuyển vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm
2011 trong phạm vi quản lý để tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ các cơng
trình, dự án quan trọng, cấp bách, hồn thành trong năm 2011.
Tác động tích cực
Chính sách chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở: lãi suất tái chiết
khấu và lãi suất tái cấp vốn tăng đã làm tăng mặt bằng lãi suất, hạn
chế tăng trưởng tín dụng, thực hiện đúng hướng thắt chặt tiền tệ.
-
Dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ tăng: sẽ làm giảm tăng trưởng tín
dụng ngoại tệ trong thời gian tới.
-
Chính sách Quản lý lãi suất đối với NHTM: các trần lãi suất huy
động được đưa ra đã giúp bình ổn thị trường ngân hàng. Trần lãi suất
huy động 14% hiện nay đã góp phần ngăn chặn cuộc đua lãi suất đối
huy động giữa các ngân hàng thương mại. Chính sách thỏa thuận lãi
suất cho vay thay vì trần lãi suất cho vay đã chấm dứt được việc các
ngân hàng tính nhiều loại phí làm tăng lãi suất cho vay thực tế. Quy
định trần lãi suất huy động USD đã góp phần ổn định tỉ giá.
-
Nhìn chung:
Các tháng đầu năm 2010: lạm phát được kiềm chế, mặt bằng lãi
suất cho vay được giảm xuống, tỉ giá tương đối ổn định, thanh khoản
của các NHTM được cải thiện.
-
Đóng góp tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010. (GDP
2010 đạt 6,78% là mức khá cao so với nhiều nước trên thế giới).
-
Chính sách tiền tệ kết hợp với chính sách tỷ giá, chính sách quản lý
vàng và ngoại tệ: đã ổn định được tỷ giá hối đối, giảm đáng kể tình
trạng giao dịch USD tự do, giá vàng đã bám sát với giá thế giới.
-
Tăng trưởng tín dụng các tháng đầu năm 2011 đã có giảm xuống
so với năm 2010.
-
Hạn chế: Việc điều hành các cơng cụ của chính sách tiền tệ vẫn chưa
đạt được mục tiêu hàng đầu hiện nay là giải quyết lạm phát
-
Tình hình lạm phát: