1
1
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan bản luận văn này do chính tác giả thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Vũ Tiến Thịnh
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa
hề được công bố và sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn này được ghi rõ nguồn gốc.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Khôi
2
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
cá nhân, các cơ quan ban ngành. Nhân dịp này tôi xin tran thành bày tỏ lòng
cảm ơn đến:
-
PGS.TS. Vũ Tiến Thịnh, Phó trưởng phòng khoa sau đại học trường đại học
Lâm Nghiệp, giảng viên bộ môn động vật rừng trường đại học Lâm Nghiệp,
-
người đã hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này, tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới ban giám đốc KBTTN
ĐSKT đã tạo điều kiện giúp đỡ về mặt thời gian để tôi đi học thạc sỹ và hoàn
-
thành luận văn.
Các kiểm lâm viên tại các trạm kiểm lâm cửa rừng, trạm Cài, trạm Đồng
Quặng, trạm Vũ Oai, trạm Hòa Bình, tổ khoa học kỹ thuật, đã giúp đỡ tôi thu
-
thập số liệu và góp ý trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài.
UBND các xã Đồng Sơn, Đồng Lâm, Hòa Bình, Kỳ Thượng, Vũ Oai đã tạo
điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn bạn bè, người thân đã động viên, chia sẻ, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn tới tất cả sự giúp đỡ quý báu đó.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm
2016
Nguyễn Văn Khôi
3
3
MỤC LỤC
4
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BQL
Ban Quản lý
BVTV
CITES
Bảo vệ thực vật
Công ước Cites
ĐDSH
Đa dạng sinh học
ĐS
ĐSKT
Đồng Sơn
Đồng Sơn Kỳ Thượng
IUCN
Sách đỏ thế giới
KBT
Khu bảo tồn
KBTTN
Khu bảo tồn thiên nhiên
KT
Kỳ Thượng
KVNC
Khu vực Nghiên cứu
M
QĐ - TTg
QĐ - UB
Mẫu vật
Quyết định thủ tướng
Quết định ủy ban
SĐVN
Sách đỏ Việt Nam
TL
Tài liệu
UBND
Ủy ban nhân dân
5
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
6
6
DANH MỤC CÁC HÌNH
7
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên động vật rừng Việt Nam không những phong phú và đa
dạng mà còn có tính đặc hữu cao. Động vật trong hệ sinh thái rừng nhiệt đới
nước ta đã từng là nguồn cung cấp thực phẩm, nguồn dược liệu độc đáo mà
nhân dân sử dụng từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nhiều sản phẩm từ động vật
rừng được sử dụng làm nguyên liệu để chế biến các mặt hàng tiểu thủ công
nghiệp và mỹ nghệ được ưa thích trên thị trường. Một số loài động vật có vai
trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học nhằm tìm ra các nguyên lý, các cơ
chế sinh học, sinh lý học, phục vụ cho việc phòng và chữa bệnh, nâng cao sức
khỏe cộng đồng. Đặc biệt là ngân hàng gen vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã
ban tặng cho con người. Động vật rừng còn có vai trò quan trọng trong việc
điều chỉnh cân bằng hệ sinh thái.
Ếch nhái cũng là nguồn tài nguyên động vật có giá trị cao bên cạnh các
tài nguyên chim, thú và cá. Trong hệ sinh thái tự nhiên và các hệ sinh thái
nhân văn ở mọi miền nước ta, nguồn tài nguyên Ếch nhái có vai trò quan
trọng trong đời sống đối với cộng đồng.
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Đồng Sơn - Kỳ Thượng nằm trọn
trên địa bàn 5 xã: Đồng Lâm, Đồng Sơn, Kỳ Thượng, Vũ Oai, Hoà Bình
thuộc huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. Khu rừng này có tính đa dạng sinh
học cao và được xem là một khu vực điển hình của hệ sinh thái rừng kín
thường xanh núi thấp có diện tích rừng tự nhiên tập trung lớn nhất vùng Đông
Bắc Việt Nam với nhiều loài động vật, thực vật rừng quí hiếm.
Từ khi thành lập theo quyết định số 1672/QĐ - UB ngày 22/5/2002 của
UBND tỉnh Quảng Ninh về việc phê duyệt Dự án xây dựng KBT Đồng Sơn Kỳ Thượng và Quyết định số 440/QĐ - UB ngày 12/02/2003 của UBND tỉnh
Quảng Ninh về việc thành lập Ban quản lý (KBTTN) Đồng Sơn - Kỳ Thượng
thuộc Chi Cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ninh. Tháng 5 năm 2007 Khu bảo tồn
8
phối hợp với đoàn cán bộ khoa học thuộc Viện sinh thái và tài nguyên sinh
vật; Viện Động vật Xanh Pê-téc-bua của Nga điều tra thực địa tại tiểu khu 61
xã Kỳ Thượng đã phát hiện và lấy mẫu được 43 loài bò sát, Ếch nhái. Qua
phân tích các mẫu động vật, đoàn công tác đã đánh giá đây là khu vực đa
dạng về bò sát, Ếch nhái.Tuy nhiên, quá trình điều tra này chỉ diễn ra trong
một thời gian ngắn do vậy, việc nghiên cứu khu hệ Ếch nhái tại khu vực là
một trong những yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn cao về mặt khoa học
và bảo tồn. Chính vì vậy, tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu: “Nghiên
cứu đặc điểm khu hệ Ếch nhái tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Đồng Sơn –
Kỳ Thượng, tỉnh Quảng Ninh và đề xuất biện pháp bảo tồn”
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để góp phần đề xuất những giải
pháp quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Đồng
Sơn - Kỳ Thượng một cách hiệu quả.
9
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu Ếch nhái
1.1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu Ếch nhái ở Việt Nam
Trước đây các công trình nghiên cứu thường gắn liền các loài bò sát,
Ếch nhái, ít công trình nghiên cứu Ếch nhái độc lập.
Theo Nguyễn Văn Sáng và cs. (2009), có thể chia lịch sử nghiên cứu
lưỡng cư bò sát thành 4 thời kỳ chính: thời kỳ trước năm 1954, thời kỳ từ
năm 1954 đến năm 1975, thời kỳ 1976 đến năm 1986 và thời kỳ từ năm 1987
đến nay.
1.1.1.1. Thời kỳ trước năm 1954
Tuệ Tĩnh (1623-1713) - nhà y học dân tộc, người đầu tiên đã ghi nhận
16 vị thuốc có nguồn gốc từ Ếch nhái và bò sát (Tuệ Tĩnh, 1972) [25]
Sau ông những nghiên cứu Ếch nhái, bò sát do người nước ngoài thực
hiện. Các kết quả nghiên cứu được xuất bản trên nhiều ấn phẩm khác nhau cả
trong nước và ngoài nước cho một khu vực hay chung cho cả vùng Đông
Dương.
Một số chuyên khảo về Ếch nhái và bò sát đã được xuất bản như: “Sur
la Faune de la Cochinchine Francaise”của Morice A., 1875; “Notes surles
Reptiles et Batraciens de la Cochinchine et du Cambodge” của Tirant G., năm
1885. (Theo Nguyen Van Sang et al., 2009), trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX có 84 loài mới được các tác giả Bourret (1920,1937,1939, 1942), Cuvier
(1829), Smith (1921, 1922, 1924), Boulenger (1903, 1927), Angel (1927,
1928, 1933), Schlegel (1839), Mocquard (1897), Morice (1875), Pellegril
(1910) Siebenrock (1903)v.v…[26] mô tả với mẫu vật thu được ở Việt Nam.
10
Ba cuốn sách chuyên khảo của Bourret gồm: Les Serpents de
l’Indochine mô tả 189 loài và phân loài rắn xuất bản năm 1936, Les Tortues
l’Indochine mô tả 44 loài và phân loài rùa xuất bản năm 1941 và Les
Batraciens de l’Indochine mô tả 171 loài và phân loài Ếch nhái xuất bản năm
1942 được coi là tài liệu đầy đủ nhất về Ếch nhái và bò sát của vùng Đông
Dương (trong đó chủ yếu là Việt Nam, Lào và Campuchia).
Qua tài liệu công bố cho thấy thời kỳ này tập trung thống kê phân loại
và mô tả loài, địa điểm khảo sát tập trung ở Nam Bộ, các khu nghỉ mát (Mẫu
Sơn, Tam Đảo, Sa Pa, BaVì, Đà Lạt) hay khu đồn trú của người Pháp (Ngân
Sơn, Phước Sơn…).
1.1.1.2. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975
Mở đầu thời kỳ này, đoàn nghiên cứu của Đào Văn Tiến và cộng sự tiến
hành điều tra lưỡng cư, bò sát ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), từ ngày 8 đến ngày
28 tháng 8 năm 1956 đã thống kê được 12 loài, trong đó có một loài mới.
Nghiên cứu về động vật có xương sống trên cạn ở Lạng Sơn có Võ Quý
(1961), Lê Vũ Khôi (1962). Năm 1971, Lê Hiền Hào và cộng sự công bố ở
Cúc Phương (Ninh Bình) có 49 loài Ếch nhái, bò sát[36]. Từ năm 1956 1975, Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc đã điều tra, thống kê ở miền
Bắc Việt Nam có 159 loài bò sát, 69 loài Ếch nhái (Trần Kiên và cs., 1981)
[28].
Địa điểm nghiên cứu cũng được mở rộng ra nhiều khu vực: Ba Bể, Chợ
Rã (Bắc Kạn), Hữu Lũng (Lạng Sơn), Cúc Phương (Ninh Bình), Thái
Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hòa Bình, Vĩnh Phú. Kết quả nghiên cứu
được công bố trên nhiều tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước. Hướng
nghiên cứu cũng mở rộng ra như nghiên cứu về sinh thái học Cá cóc, Thạch
sùng đuôi sần, Ếch đồng của ĐàoVăn Tiến, Lê Vũ Khôi (1965)[4].
11
1.1.1.3. Thời kỳ 1975 - 1986
Sau khi đất nước thống nhất, cùng với sự phát triển kinh tế, nhiều
trường đại học, viện nghiên cứu mới được thành lập, công tác nghiên cứu cơ
bản trong đó có lưỡng cư cũng bắt đầu được chú ý. Mở đầu thời kỳ này là
chương trình khảo sát do Viện Sinh vật học thuộc Viện Khoa học Việt Nam tổ
chức từ ngày 5/3 đến ngày 12/5 năm 1977 ở miền Tây Nam bộ: Hà Tiên, Phú
Quốc, Côn Đảo, Mũi Gót, rừng U Minh, Rạch Giá, Tây Ninh. Sau đó hàng
loạt khảo sát của Viện Sinh vật học, Khoa Sinh vật của Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Huế, Viện
Điều tra Quy hoạch rừng, Viện Nghiên cứu biển Nha Trang ở nhiều địa
phương khác nhau như: Xuân Sơn (Phú Thọ), Mường Nhà và Mường Lói
(Điện Biên), vùng Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm
Đồng).
Trong giai đoạn này có 1 loài Ếch nhái và 5 loài thằn lằn mới được phát
hiện ở Việt Nam trong đó có 3 loài do Darevsky và Nguyễn Văn Sáng mô tả
(Nguyen et al., 2009)[22].
1.1.1.4. Thời kỳ từ năm 1987 đến nay
Sau thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu
với các nước thuận tiện hơn, sự bùng nổ thông tin đã giúp cho những cán bộ
nghiên cứu về lưỡng cư có cơ hội trao đổi kinh nghiệm và tham khảo các tài
liệu. Công tác nghiên cứu và bảo tồn, do vậy cũng phát triển mạnh mẽ đặc
biệt là sau năm 1990. Các lĩnh vực nghiên cứu cũng hết sức đa dạng: phân
loại học, hệ thống học, di truyền và tiến hoá, sinh học, sinh thái học, ký sinh
trùng và bệnh học. Có thể nói đây là thời kỳ phát triển đáng khích lệ của các
nghiên cứu về lưỡng cư ở Việt Nam, đóng góp đáng kể cho khoa học cũng
như góp phần vào sự phát triển của đất nước.
12
Về thành phần loài, số lượng loài Ếch nhái và bò sát tăng lên nhanh
chóng: năm 1996, Nguyễn Văn Sáng và Hồ Thu Cúc thống kê ở nước ta có
340 loài (82 loài Ếch nhái, 258 loài bò sát[20], đến năm 2005 tổng số loài đã
lên tới 458 loài (162 loài Ếch nhái, 296 loài bò sát (Nguyễn Văn Sáng và cs.,
2005)[21], và cuốn danh lục xuất bản năm 2009 đã ghi nhận tổng số loài là
545 loài (177 loài Ếch nhái, 368 loài bò sát) (Nguyen et al., 2009)[22].
Số loài mới cho khoa học được công bố hàng năm cũng tăng lên rõ rệt
qua các thời kỳ. Nếu trong thời kỳ 1975 - 1986 phát hiện được 6 loài mới cho
khoa học, trong đó chỉ có 3 loài có tác giả là người Việt Nam thì từ năm 1987
- 2009, số loài phát hiện mới cho khoa học đã tăng lên 108 loài, trong đó có
65 loài có nhà khoa học Việt Nam tham gia và có tới 11 loài có tác giả đứng
đầu là người Việt Nam. Từ năm 2010 - 2013 có 49 loài mới cho khoa học
được tiếp tục phát hiện ở Việt Nam. Điều đó chứng tỏ cán bộ Việt Nam đã có
những bước trưởng thành đáng kể và tiềm năng nghiên cứu về khu hệ Ếch
nhái và bò sát ở nước ta còn rất lớn.
Từ năm 1990 đến nay cùng với việc thành lập các Vườn Quốc gia và
các KBTTN, việc nghiên cứu càng được phát triển mạnh. Năm 1993, Hoàng
Xuân Quang nghiên cứu lưỡng cư, bò sát ở Bắc Trung bộ. Từ năm 1994,
Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Lê Nguyên Ngật và nhiều tác giả khác đã
nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Tam Đảo và thị trấn Tam Đảo, đến nay đã phát
hiện có 57 loài lưỡng cư, 124 loài bò sát []. Năm 1996, Lê Nguyên Ngật,
Nguyễn Văn Sáng ghi nhận 17 loài lưỡng cư, 42 loài bò sát ở rừng Cúc
Phương và ở Ngọc Linh (Kontum, 1997)[9]; Năm 1998, Ngô Đắc Chứng
nghiên cứu ở Nam Bình Trị Thiên có 28 loài lưỡng cư, 147 loài bò sát (Ngô
Đắc Chứng, 1998)[15]; Năm 1997, Hoàng Xuân Quang và cs. nghiên cứu ở
Tây Nam Nghệ An thống kê được 18 loài lưỡng cư, 38 loài bò sát[10]; điều
13
tra sự đa dạng và hiện trạng Ếch nhái, bò sát ở vùng núi Yên Tử trong thời
gian 2004 đến năm 2008 (Trần Thanh Tùng, 2008);….
Năm 1996, Nguyễn Văn Sáng và Hồ Thu Cúc xuất bản cuốn Danh lục
Ếch nhái, bò sát Việt Nam với 82 loài Ếch nhái, 258 loài bò sát[20].
Orlov et al. (2002) tổng hợp và công bố danh sách các loài Ếch nhái, bò
sát của Việt Nam (phần I) ghi nhận 147 loài lưỡng cư. Năm 2005, Nguyễn
Văn Sáng và cs. công bố cuốn Danh lục Ếch nhái và bò sát Việt Nam đã ghi
nhận 116 loài bò sát thuộc 23 họ, 3 bộ và 135 loài lưỡng cư thuộc 9 họ, 3 bộ.
Năm 2009, Nguyen et al. đã thống kê được 186 loài Ếch nhái thuộc 10 họ, 3
bộ và 375 loài bò sát thuộc 24 họ ở Việt Nam[21,22].
Trong Hội thảo Quốc gia về Lưỡng cư và Bò sát ở Việt Nam lần thứ
nhất diễn ra năm 2009 tại Trường Đại học Sư phạm Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, các báo cáo khoa học về đánh giá khu hệ Ếch nhái như: Điều tra tại
KBTTN Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai năm 2008 - 2009 (Hồ Thu Cúc và cs.
2009) có 31 loài lưỡng cư thuộc 5 họ, 1 bộ và 61 loài bò sát thuộc 13 họ, 2
bộ; Đánh giá sự đa dạng Ếch nhái ở KBTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa năm
2008 (Lê Nguyên Ngật và cs. 2009) có 38 loài lưỡng cư thuộc 6 họ, 1 bộ và
53 loài bò sát thuộc 14 họ, 2 bộ; Thống kê thành phần loài Ếch nhái của
huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp từ năm 2008 đến 2009 (Hoàng Thị Nghiệp
và cs. 2009) ghi nhận 49 loài, trong đó có 17 loài lưỡng cư thuộc 5 họ và 32
loài bò sát thuộc 11 họ; Nghiên cứu tính chất địa động vật của khu hệ Ếch
nhái và bò sát của tỉnh Phú Yên (Trần Duy Ngọc và cs. 2009); Ziegler et al.
2009 đã tổng kết 10 năm nghiên cứu đa dạng sinh học Ếch nhái, bò sát ở
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng từ năm 2000 đến 2009 thống kê 45 loài
lưỡng cư và 33 loài bò sát,….
14
Trong báo cáo khoa học về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Hội nghị
khoa học toàn quốc lần thứ III năm 2009, có một số kết quả nghiên cứu về đa
dạng khu hệ Ếch nhái của một số vùng trên cả nước: Điều tra đa dạng Ếch
nhái bò sát tại VQG Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ (Nguyễn Văn Sáng và cs. 2009)
ghi nhận 77 loài thuộc 22 họ, 5 bộ gồm 48 loài bò sát thuộc 14 họ, 2 bộ và 29
loài Ếch nhái thuộc 8 họ, 3 bộ; Điều tra tại VQG và Khu BTTN Lam Kinh
tỉnh Thanh Hóa (Nguyễn Kim Tiến, 2009)[22] cho thấy có 49 loài Ếch nhái
và 72 loài bò sát thuộc 22 họ, 73 giống,…
Trong báo cáo khoa học về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, hội nghị
khoa học toàn quốc lần thứ IV năm 2011, có một số báo cáo nghiên cứu về đa
dạng khu hệ Ếch nhái: Điều tra tại KBTTN Pù Huống, tỉnh Nghệ An (Lê Vũ
Khôi và cs., 2011)[10] ghi nhận 72 loài bò sát thuộc 15 họ, 2 bộ và lớp lưỡng
cư có 25 loài thuộc 7 họ, 1 bộ; Điều tra lưỡng cư, bò sát tại vùng An Giang,
Đồng Tháp (Hoàng Thị Nghiệp và cs., 2011) ghi nhận 24 loài lưỡng cư thuộc
2 bộ, 6 họ ; Nghiên cứu khu hệ VQG Côn Đảo, Bà Rịa - Vũng Tàu (Poyarkov,
2011) chỉ ra 11 loài lưỡng cư thuộc 2 bộ, 6 họ và 31 loài bò sát thuộc 16 họ, 3
bộ;….
Hoàng Xuân Quang và cs., 2012[11] điều tra khu hệ Ếch nhái, bò sát ở
VQG Bạch Mã, tỉnh Thừa Thiên Huế đã thống kê được 44 loài Ếch nhái thuộc
6 họ, 1 bộ và 64 loài bò sát thuộc 14 họ, 2 bộ.
Trong báo cáo Hội thảo quốc gia về lưỡng cư, bò sát ở Việt Nam lần
thứ II tổ chức tại Đại học Vinh (Nghệ An, 2012), có một số báo cáo về đa
dạng khu hệ Ếch nhái, bò sát : Nghiên cứu thành phần loài bò sát và Ếch nhái
ở Khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa (Phạm Thế Cường và cs, 2012)[28]
với 70 loài được ghi nhận trong đó có 38 loài bò sát và 32 loài Ếch nhái;
Nghiên cứu sự đa dạng thành phần loài Ếch nhái, bò sát ở khu dự trữ sinh
15
quyển Tây Nghệ An (Hoàng Ngọc Thảo và nnk, 2012)[11] ghi nhận 144 loài
Ếch nhái, bò sát thuộc 24 họ, 5 bộ;….
Bên cạnh đó có rất nhiều loài mới được mô tả và nhiều loài mới được
ghi nhận từ năm 2010 trở lại đây như loài Leptolalax bidopensis (Rowley et
al., 2011); Theloderma palliatum và T.nebulsum (Rowley et al.,2011);
Gracixalus quangi (Rowley et al.,2011); Leptobrachium leucops (Stuart et al.,
2011); Ichthyophis nguyenorum (Nishikawa, 2012); Leptolalax firthi (Rowley
et al.,2012)...
Bên cạnh các nghiên cứu về phân loại học, nhiều công trình nghiên cứu
đã được công bố về quan hệ di truyền tiến hóa cũng hỗ trợ cho việc sắp xếp
và hệ thống lại các loài ếch nhái, bò sát ở Việt Nam. Hàng loạt các loài thuộc
một số giống như Philautus được chuyển sang giống Gracixalus và
Theloderma (Rowley et al., 2011; Orlov et al., 2012).
Về các loài quý hiếm: Năm 1992, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường xuất bản Sách Đỏ Việt Nam (Phần Động vật) trong đó liệt kê 43 loài
bò sát và 11 loài lưỡng cư bị đe dọa. Năm 2000, Sách Đỏ Việt Nam được tái
bản có chỉnh sửa và bổ sung đã thống kê 43 loài bò sát và 11 loài lưỡng cư.
Mới đây nhất, Sách Đỏ Việt Nam năm 2007 đã ghi nhận 40 loài bò sát và 13
loài Ếch nhái bị đe dọa ở Việt Nam[1].
Cho đến nay đã có 9 chuyên khảo về Ếch nhái và bò sát việt Nam được
xuất bản: Danh lục bò sát và Ếch nhái Việt Nam của Nguyễn Văn Sáng và Hồ
Thu Cúc (1996)[25], Ếch nhái và bò sát ở một khu bảo tồn thiên nhiên của
Việt Nam [Die Amphibien und Reptilien eines TieflandfeuchtwaldSchutzgebietes in Vietnam] của Ziegler (2002), Bò sát và Ếch nhái Vườn
Quốc gia Cúc Phương của Nguyễn Văn Sáng và cs. (2003), Danh lục Ếch
nhái và bò sát Việt Nam của Nguyễn Văn Sáng và cs. (2005) [26], Động vật
16
chí Việt Nam - Phân bộ Rắn của Nguyễn Văn Sáng (2007)[], Thằn lằn Việt
Nam của Bobrov và Semenov (2008)[], Ếch nhái, bò sát ở Khu bảo tồn thiên
nhiên Pù Huống của Hoàng Xuân Quang và cs. (2008)[11], Khu hệ bò sát và
Ếch nhái Việt Nam [Herpetofauna of Vietnam] của Nguyen et al. (2009)[],
Ếch nhái, bò sát ở Vườn Quốc Gia Bạch Mã của Hoàng Xuân Quang và cs.
(2012)[]. Bên cạnh đó, từ năm 2000 trở lại đây, ít nhất 6 cuốn sách nhận dạng
của một số Vườn Quốc gia hoặc Khu Bảo tồn thiên nhiên như Ba Bể, Na
Hang, Phú Quốc hoặc các loài thường bị buôn bán cũng được xuất bản bởi
các cơ quan quản lý hoặc các tổ chức bảo tồn quốc tế.
1.1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu lưỡng cư tại KBTTN ĐS - KT
Tháng 5 năm 2007 Khu bảo tồn phối hợp với đoàn cán bộ khoa học
thuộc Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật; Viện Động vật Xanh Pê-téc-bua
của Nga điều tra thực địa tại tiểu khu 61 xã Kỳ Thượng, đã phát hiện và lấy
mẫu được 43 loài bò sát, Ếch nhái. Qua phân tích các mẫu động vật, đoàn
công tác đã đánh giá đây là khu vực đa dạng về bò sát, Ếch nhái.
Năm 2006 Khu bảo tồn trong hoạt động tuần tra bảo vệ rừng đã phát
hiện 3 cá thể cá nước ngọt quý hiếm, kết quả thẩm định 1 cá thể là cá thằn lằn
cá sấu, 1 cá thể là cá Cóc Tam Đảo (là loài thuộc sách đỏ Việt Nam).
Có thể thấy không nhiều công trình nghiên cứu đa dạng sinh học Ếch
nhái đã được thực thiện tại khu vực nghiên cứu.
17
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu
2.1.1. Mục tiêu chung
Góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại
KBTTN Đồng Sơn - Kỳ Thượng tỉnh Quảng Ninh.
2.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tính đa dạng loài và giá trị của các loài Ếch nhái tại KBTN
Đồng Sơn - Kỳ Thượng.
- Đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn cho khu vực nghiên cứu.
2.2. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài Ếch nhái tại KBTN Đồng Sơn - Kỳ Thượng
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu tại KBTN Đồng Sơn - Kỳ Thượng, tỉnh Quảng
Ninh.
2.2.3. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu của đề tài từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2016, trong
đó:
- Thời gian thu thập tài liệu và khảo sát thực địa: tháng 4 năm 2016
- Thời gian điều tra thực địa: tháng 6 - tháng 7 năm 2016
- Xử lý số liệu và hoàn thiện luận văn: tháng 8 - tháng 9 năm 2016
2.3. Nội dung nghiên cứu
18
- Nghiên cứu thành phần loài Ếch nhái tại KBTN Đồng Sơn - Kỳ
Thượng.
- Nghiên cứu đặc điểm phân bố và tình trạng của một số loài Ếch nhái
ưu tiên bảo tồn trong khu vực.
- Xác định các yếu tố đe doạ tới Khu hệ Ếch nhái tại KBTTNĐSKT.
- Đề xuất các giải pháp quản lý, bảo tồn cho khu vực nghiên cứu.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Kế thừa tài liệu
Thu thập các tài liệu, thông tin có liên quan đến công tác nghiên cứu:
- Các báo cáo điều tra đa dạng sinh học tại KBT Đồng Sơn - Kỳ
Thượng.
- Bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng, bản đồ địa hình, bản đồ khu dân
cư của khu vực ...
- Báo cáo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của UBND tỉnh Quảng
Ninh.
2.4.2. Phỏng vấn bán định hướng
Phỏng vấn bán định hướng được thực hiện song song với quá trình điều
tra thực địa. Các đối tượng được phỏng vấn bao gồm:
+ Phỏng vấn cán bộ (KBTNĐSKT, chính quyền địa phương, kiểm lâm,
…)
+ Phỏng vấn người dân địa phương khác
Phương pháp này cung cấp cho chúng ta những thông tin có ý nghĩa về
tình hình tài nguyên động vật rừng của địa phương điều tra trên các phương
diện thành phần loài, mức độ phong phú, phân bố thực tại, thức ăn, sinh sản,
19
tình trạng các loài. Trong khi trao đổi,
thu thập thông tin, chúng tôi đã sử
dụng tranh ảnh chuẩn về hình thái bên ngoài của các loài. Với hình thức các
câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu về những đặc điểm dễ nhận dạng của loài. Gặp gỡ
người dân địa phương hay đi rừng để thu thập thông tin về các loài động vật
có mặt ở địa phương và tìm hiểu về nơi ở, tập tính hoạt động, thành phần thức
ăn, sinh cảnh, phân bố theo độ cao, thành phần và số lượng các loài động vật
bị đánh bắt cũng như ý nghĩa kinh tế của các loài đó.
Toàn bộ thông tin thu thập được ghi chép đầy đủ vào phiếu phỏng vấn
(Mẫu biểu 01) và các thông tin từ nguồn khác được ghi vào sổ ghi chép thực
địa.
Mẫu biểu 01: Phiếu phỏng vấn
Ngày ..…. tháng .… năm 20 ….
Tên người được phỏng vấn:.................................. Tuổi.......... Dân tộc..............
Địa chỉ : Bản ..... Xóm ............ Xã ...................... Huyện .................................
Tên loài
TT
Địa điểm
Tên địa
Tên phổ
phương
thông
1
2
3
…..
2.4.4. Điều tra thực địa
a) Chuẩn bị địa điểm điều tra
gặp
Thời gian Số lượng Ghi
gặp
gặp
chú
20
- Khảo sát thực tế để kiểm tra lại các thông tin đã có trên bản đồ hiện
trạng. Bổ sung và hiệu chỉnh các thông tin thu thập được.
- Mô tả các dạng sinh cảnh chính của khu vực theo các chỉ tiêu (địa
hình, cấu trúc rừng, thảm thực vật, tác động của con người tới sinh cảnh …)
- Lập các tuyến điều tra cố định. Các tuyến điều tra được phân bố đều
trên các dạng sinh cảnh chính của khu vực nghiên cứu.
b) Điều tra theo tuyến
- Điều tra thành phần các loài Ếch nhái
Các tuyến được bố trí theo các con suối, con khe trong rừng và đi qua
các dạng sinh cảnh khác nhau.
Các cá thể Ếch nhái quan sát được bằng mắt sẽ được phân loại tới loài
và ghi vào mẫu biểu 02.
Mẫu biểu 02: Điều tra theo tuyến
Ngày..…. tháng.… năm 201
Thời tiết..................................
Tuyến số: ............. Tọa độ điểm đầu: ............. Tọa độ điểm cuối:…….….…
Người điều tra: …… Thời gian bắt đầu:…....... Thời gian kết thúc:.…………
TT Sinh
cảnh
Thời Tên loài
gian
Số
lượng
Giới Khoản Dấu hiệu Hoạt
Ghi
tính g cách
chú
nhận
biết
1
2
3
…
động
21
c) Xử lý mẫu vật
Mẫu vật được thu thập bằng tay và gậy chuyên dụng. Sau khi chụp hình
ngoài tự nhiên được định hình trong formol 4% trong 24 giờ và lưu giữ trong
cồn 70% tại bảo quản tại phòng động vật KBTTN ĐSKT.
2.4.5. Xử lý số liệu
Các số liệu thu thập đuợc sẽ được xử lý thông qua các công cụ, phần
mềm như Excel, Word, Mapinfo…
Định danh các loài dựa trên tài liệu Smith (1935, 1943) [], Ziegler &
Bischoff (1999) [], Vogel et al. (2009) [], Nguyen et al. (2010) [], Nguyen et
al. (2010) []. Tên khoa học, tên tiếng Việt và hệ thống phân loại theo Nguyen
et al. (2009) [].
Khu vực ưu tiên bảo tồn được xác định dựa vào sự phân bố và tình
trạng của các loài ưu tiên bảo tồn, kết hợp với các mối đe doạ đến chúng. Kết
quả được thể hiện trên bản đồ bằng phần mềm MapInfo 10.0.
22
Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN SINH, KINH TẾ XÃ HỘI
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý và phạm vi ranh giới
Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng thuộc địa giới hành
chính huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh bao gồm 5 xã: Đồng Sơn, Đồng
Lâm, Kỳ Thượng, Vũ Oai, Hoà Bình. Tọa độ địa lý:
Từ 1070 00 ’ 30 ’’ đến 107 0 14 ’ 00’’ vĩ độ Bắc.
Từ 210 04 ’ 00 ’’ đến 21 0 11’ 00 ’’ kinh độ Đông.
- Phía Đông giáp xã Dương Huy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
- Phía Bắc giáp huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh.
- Phía Tây giáp xã Sơn Dương huyện Hoành Bồ.
- Phía Nam giáp xã Thống Nhất huyện Hoành Bồ.
23
Hình 3.1. Vị Trí KBTTN ĐS - KT trong tỉnh Quảng Ninh
Phạm vi ranh giới
- Phía Bắc: Ranh giới KBT bắt đầu từ đỉnh ngọn Mo cao 852,5 m theo
ranh giới giữa hai huyện Hoành Bồ và huyện Ba Chẽ đến đỉnh 562,5 m. Từ
đỉnh 562,5 m theo hướng Tây Bắc cắt qua khe Phương lên đỉnh 341,3 m, tiếp
tục theo dông hướng Bắc đến ngã ba suối lớn chảy về khe Phương. Từ ngã ba
suối lớn lên đỉnh 280,6 m theo dông hướng Tây đến đỉnh 480,3 m, từ đỉnh
480,3 m theo dông hướng Tây Bắc cắt qua khe Luông lên đỉnh đèo Dài 597,3
m tiếp tục theo dông hướng Tây cắt qua đỉnh 444,1 m dọc dông lên đỉnh núi
khe O.
- Phía Tây: Từ đỉnh núi khe O theo hướng Tây Nam đến ngã ba suối
chính lên dông theo hướng Tây Nam qua đỉnh 578,4 m đến đỉnh 457,2 m đi
theo khe đến ngã ba nhỏ theo dông hướng Đông Nam lên đỉnh khe Ru 566,9
m, từ đỉnh khe Ru theo đường phân thuỷ giữa hai khe Đồng Quặng và khe Cài
đến đỉnh 574,4 m trên đường ranh giới giữa hai xã Đồng Lâm và Sơn Dương.
Phía Nam: Từ đỉnh 547,4 m theo đường dông qua đỉnh 583,0 m, theo
đường dông hướng Bắc cắt xen kẽ rừng sản xuất lên đỉnh 246,0 m qua đỉnh
224,3 m đến đỉnh 198,3 m theo sườn hướng Bắc và Đông Bắc cắt qua khe lên
đỉnh 333,1 m đi theo sườn dông hướng Đông cắt qua suối Đồng Trà đến đỉnh
223,4 m đi theo sườn dông xen kẽ với rừng sản xuất qua đỉnh 267,1 m lên
dông đến đỉnh 442,3 m chạy dọc dông theo hướng Đông Nam đến đỉnh 472,2
m tiếp tục theo dông hướng Nam qua các đỉnh 352,4; 212,4; 346,9 m, sau đó
dọc dông theo hướng Đông qua các đỉnh 236,2; 136,2, 113,1 m cắt qua suối
Vũ Oai lên đỉnh 81,8 m đi theo dông qua các khe nhỏ đến đỉnh 132,5 m.
24
- Phía Đông: Từ đỉnh 132,5 m đi theo hướng Đông Bắc qua các đỉnh
154,8; 374,9; 473,3 m, tiếp tục đi theo dông hướng Bắc, Tây Bắc đến đỉnh 852,5
m.
Hình 3.2. Ranh giới KBTTN Đồng Sơn Kỳ Thượng
25
Hình 3.3. Vị Trí KBTTN ĐS-KT so với các khu bảo tồn lân cận
3.1.2. Địa hình địa thế
KBTTN Đồng Sơn - Kỳ Thượng nằm ở sườn Nam của dãy núi chính
phân cách ranh giới hai huyện Hoành Bồ và Ba Chẽ, trên địa phận huyện
Hoành Bồ, phía Đông của dãy núi thuộc cánh cung Đông Triều.
- Hệ thống núi chính của KBT nằm theo hướng Đông - Tây, bắt đầu từ
đỉnh ngọn Mo 852,5m chạy qua nhiều đỉnh núi tới đỉnh núi đèo Gốc.
- Các dải núi độc lập và các dãy núi phụ trong KBT đa phần có hướng
Tây Bắc - Đông Nam.
- Hệ thống dông và núi trong KBT có một số đỉnh cao vượt trội. Đáng
chú ý là đỉnh Thiên Sơn 1090m. Dông núi chạy từ khe Ru 826m qua đèo Kinh
694m, Đồng Trà 889m, Am Váp 1051m tới ngọn Mo 852.5m đã chia KBT
thành hai lưu vực, phía Bắc nước chảy về sông Ba Chẽ, phía Nam nước tập
trung chảy về sông Man rồi chảy ra Bắc Cửa Lục và thoát ra vịnh Hạ Long.
Độ cao tuyệt đối không quá cao nhưng độ chênh cao trong vùng khá
lớn lên tới hàng ngàn mét. Địa hình trong khu vực bị chia cắt mạnh bởi nhiều
dông núi nhỏ và khe suối, độ dốc trung bình 20 - 25 0 nhiều nơi có độ dốc tới
30 - 400 xen kẽ đôi chỗ có độ dốc 50 - 600 rất hiểm trở.
Hai lưu vực sông chính trong khu vực là Ba Chẽ và Sông Man có nhiều
khe suối sâu, dốc bắt nguồn từ chân núi Am Váp, Thiên Sơn đã góp phần chia
cắt địa hình khu vực.
3.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng