Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

KỊCH bản diễn án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.94 KB, 32 trang )

KỊCH BẢN THỰC HÀNH DIỄN ÁN DÂN SỰ NHÓM 21
PHÂN VAI DIỄN ÁN
A. Người tiến hành tố tụng
1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa : Nguyễn Ngọc Minh.
2. Hội thẩm nhân dân 1: Vàng Thị Thành Đạt.
3. Hội thẩm nhân dân 2: Nguyễn Thị Chung.
4. Thư ký phiên tòa: Ngô Phương Thúy.
5. Kiểm sát viên: Lương Thị Thu Hoài.
B. Người tham gia tố tụng
1. Nguyên đơn: Vừ A Tú.
2. Bị đơn: Nguyễn Tiến Thành.
3. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Sùng A Sênh.
4. Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Hoàng Ngọc Hà.
5. Đại diện theo ủy quyền của người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Lò Văn Đức.
6. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Phạm Anh Tiến, Nguyễn

Tiến Hùng.
7. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Quàng Thị Hải Yến.
KỊCH BẢN DIỄN ÁN
Thư ký
Thúy

- Mời mọi người tham dự phiên tòa còn ở bên ngoài vào phòng xử án để
chuẩn bị làm việc.

Tú ,
Sênh,
Thành,
Hùng,
Tiến, Hà,
Yến,


Hoài,
Đức
Thư ký
Thúy

Đi vào phòng xử án.

Tú ,
Sênh,
Thành,
Hùng,
Tiến, Hà,
Yến,
Hoài,
Đức

Xuất trình giấy tờ tại bàn thư ký.
Xuất trình xong quay lại vị trí ngồi.

Thư ký
Thúy

- Yêu cầu những người được triệu tập đến phiên tòa hôm nay xuất trình giấy
tờ tại bàn thư ký.

- Yêu cầu mọi người trật tự, hôm nay ngày...; tại phòng xử án số ... ;
TAND ... ; tôi Ngô Phương Thúy thư ký phiên tòa, xin được phép phổ biến
nội quy phiên tòa:



1. Khi vào phòng xử án, mọi người đều phải chấp hành việc kiểm tra an ninh
của lực lượng có trách nhiệm bảo vệ phiên tòa.
Nghiêm cấm mang vũ khí, hung khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng
xạ, đồ vật cấm lưu hành, truyền đơn, khẩu hiệu và tài liệu, đồ vật khác ảnh
hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa vào phòng xử án, trừ vật chứng của
vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người
có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa.
2. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải xuất trình giấy
triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan khác cho Thư ký phiên tòa tại
bàn thư ký chậm nhất là 15 phút, trước giờ khai mạc phiên tòa và ngồi đúng
vị trí trong phòng xử án theo hướng dẫn của Thư ký phiên tòa; trường hợp
đến muộn thì phải xuất trình giấy triệu tập, giấy mời, các giấy tờ có liên quan
khác cho Thư ký phiên tòa thông qua lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ phiên
tòa.
3. Người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được
Tòa án triệu tập.
4. Mọi người trong phòng xử án phải mặc quần áo nghiêm túc; có thái độ tôn
trọng Hội đồng xét xử, giữ trật tự, không nói chuyện riêng và tuân theo sự
điều khiển của Chủ tọa phiên tòa.
5. Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý
do chính đáng, được Chủ tọa phiên tòa cho phép; không sử dụng điện thoại
di động trong phòng xử án; không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử
án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa.
6. Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào
phòng xử án và khi tuyên án, trừ trường hợp đặc biệt được phép của Chủ tọa
phiên tòa.
7. Bị cáo đang bị tạm giam chỉ được tiếp xúc với người bào chữa; việc tiếp
xúc với những người khác phải được phép của Chủ tọa phiên tòa.
8. Người tham gia phiên tòa theo yêu cầu của Tòa án phải có mặt tại phiên
tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án, trừ trường hợp được Chủ tọa phiên tòa

cho phép rời khỏi phòng xử án khi có lý do chính đáng.
9. Chỉ những người được Hội đồng xét xử cho phép mới được hỏi, trả lời
hoặc phát biểu. Người hỏi, trả lời hoặc phát biểu phải đứng dậy, trừ trường
hợp vì lý do sức khỏe được Chủ tọa phiên tòa cho phép ngồi để hỏi, trả lời
hoặc phát biểu.
10. Người vi phạm nội quy phòng xử án thì tùy trường hợp có thể bị Chủ tọa
phiên tòa cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án, bị bắt giữ hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.


Thư ký
Thúy

- Yêu cầu những người có mặt trong phòng xử án đứng dậy.
- Mời HĐXX vào phòng xử án.

Minh,
Chung,
Đạt

Đi vào phòng xử án.

- Hôm nay, ngày 30/09/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Long An tiến hành xét xử
sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm về việc “Tranh chấp lối đi và hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Thay mặt HĐXX, tôi xin tuyên bố khai
mạc phiên tòa. Mời các đương sự đứng nguyên, mời mọi người ngồi xuống.
Sau đây, tôi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử.
TÒA ÁN NHÂN DÂN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


TỈNH LONG AN

Số: 16/2014/QĐST-DS

Chủ tọa
Minh

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Long An, ngày 17 tháng 09 năm 2014

QUYẾT ĐỊNH ĐƯA VỤ ÁN RA XÉT XỬ
***
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
Căn cứ vào các Điều
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số:
15/2014/TLST-DS ngày 09 tháng 06 năm 2014;
QUYẾT ĐỊNH
1. Đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án dân sự về việc: “Tranh chấp lối đi và hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa:
• Nguyên đơn: Ông Vừ A Tú, sinh năm 1939.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Sùng A Sênh,
sinh năm 1957 ( văn bản ủy quyền chứng thực ngày 19/08/2013).
Cùng địa chỉ: Khu vực 1, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư
Phạm Anh Tiến – Chi nhánh 1 Công ty Luật hợp danh Lạc Việt thuộc
Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.



• Bị đơn: Ông Nguyễn Tiến Thành, sinh năm 1932.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Hoàng Ngọc Hà, sinh
năm 1957 ( văn bản ủy quyền chứng thực ngày 23/07/2013).
Cùng địa chỉ: Khu vực 1, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Quàng
Thị Hải Yến – Chi nhánh văn phòng luật sư Lâm Hồng thuộc Đoàn
Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.


Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Sùng A Sênh, sinh năm 1957.
Bà Vương Thị Kim Liên, sinh năm 1966.
Bà Vương Thị Kim Vy, sinh năm 1974.
Bà Vương Thị Ngọc Hạnh, sinh năm 1978.
Bà Vương Thị Ngọc Danh, sinh năm 1975.
Bà Vương Thị Mỹ Hòa, sinh năm 1983.
Cùng địa chỉ: Khu vực 1, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Liên, bà Vy, bà Danh, bà Hạnh
và bà Hòa: Ông Lò Văn Đức, sinh năm 1954 (văn bản ủy quyền chứng
thực vào các ngày 02/07/2014, 03/07/2014 và 08/07/2014).
Địa chỉ: Ấp 3, xã Thanh Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.






Thời gian mở phiên tòa: lúc 14 giờ 15 phút ngày 30/09/2014.
Địa điểm mở phiên tòa: Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An
Vụ án được xét xử công khai.

2. Những người tiến hành tố tụng:



Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Ngọc Minh.
Các Hội thẩm :
Bà Nguyễn Thị Chung
Bà Vàng Thị Thành Đạt




Thư ký tòa án: Bà Ngô Phương Thúy – cán bộ TAND tỉnh Long An.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Bà Lương Thị Thu Hoài – Đại diện
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.

Nơi nhận:
- VKSND HBC;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu: hồ sơ.

THẨM PHÁN
Đã ký
NGUYỄN NGỌC MINH



Chủ tọa
Minh

- Mời các đương sự ngồi xuống.
- Đề nghị thư ký báo cáo những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa
ngày hôm nay.

Thư ký
Thúy

- Thưa HĐXX, tôi xin báo cáo những người được Tòa án triệu tập đến phiên
tòa hôm nay có mặt gồm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Sùng A Sênh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phạm Anh
Tiến.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Hoàng Ngọc Hà.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Quàng Thị Hải
Yến.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Liên, bà Vy, bà Danh, bà Hạnh và bà
Hòa: Ông Lò Văn Đức.
- Thưa HĐXX, tôi đã báo cáo xong, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.
- Mời bà ngồi
- Sau đây, thay mặt HĐXX, tôi phổ biến quyền và nghĩa vụ của các đương sự
tại phiên tòa. Mời các đương sự đứng dậy.
Theo các Điều 58, 59, 60 và 64 Bộ luật TTDS 2011

Chủ tọa
Minh


1. Các đương sự có các quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng.
2. Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật
này;
- Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình;
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ
cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án;
- Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình
không thể thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng,
trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá;
- Được biết và ghi chép sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác
xuất trình hoặc do Tòa án thu thập;
- Đề nghị Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời;
- Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa


án tiến hành;
- Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
- Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình;
- Tham gia phiên toà;
- Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy
định của Bộ luật này;
- Tranh luận tại phiên tòa;
- Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố
tụng;
- Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép
của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác;

được đối chất với nhau hoặc người làm chứng;
- Được cấp trích lục bản án, quyết định của Tòa án;
- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của
Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án;
- Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
- Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ
luật này;
- Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
- Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí theo quy
định của pháp luật;
- Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật;
- Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật
này;
- Các quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn
- Các quyền, nghĩa vụ của đương sự nêu trên


- Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu
khởi kiện.
Quyền, nghĩa vụ của bị đơn
- Các quyền, nghĩa vụ của đương sự nêu trên.
- Được Tòa án thông báo về việc bị khởi kiện.
- Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
- Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu
của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn.
Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự

- Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình
tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết.
- Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án, nghiên cứu
hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ
sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Tham gia việc hoà giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
- Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.
- Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các điểm m, q và r khoản 2 Điều 58 của
Bộ luật này.

Chủ tọa
Minh
Sênh
Chủ tọa
Minh
Sênh

- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có nghe rõ quyền và nghĩa vụ của
mình chưa?
- Thưa HĐXX tôi nghe rõ.
- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có cung cấp thêm tài liệu, chứng
cứ mới tại phiên tòa không?
- Thưa HĐXX tôi không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới tại tòa.



Chủ tọa
Minh
Sênh
Chủ tọa
Minh

Chủ tọa
Minh
Đức

- Tại phiên tòa hôm nay người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có thay
đổi, bổ sung, rút ngắn một phần hay rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện không?
- Thưa HĐXX tôi giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và không thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện.
- Người đại diện hợp pháp của bị đơn có nghe rõ quyền và nghĩa vụ của
mình chưa?
- Thưa HĐXX tôi nghe rõ.
- Người đại diện hợp pháp của người có quyền và nghĩa vụ liên quan có
cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới tại phiên tòa không?
- Thưa HĐXX tôi không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới tại tòa.

Chủ tọa
Minh

- Để các đương sự có điều kiện thực hiện quyền yêu cầu thay đổi người tiến
hành tố tụng, sau đây tôi giới thiệu thành phần những người tiến hành tố
tụng:
Tôi thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Nguyễn Ngọc Minh - Thẩm phán tòa án
nhân dân tỉnh Long An.
Các Hội thẩm nhân dân:

Ngồi bên tay trái của tôi là bà Nguyễn Thị Chung
Ngồi bên tay phải của tôi là bà Vàng Thị Thành Đạt
Hai vị này đều là HTND của TAND tỉnh Long An.
Kiểm sát viên: bà Lương Thị Thu Hoài - kiểm sát viên, đại diện VKSND
tỉnh Long An tham gia phiên tòa.
Thư ký phiên Tòa: bà Ngô Phương Thúy - cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh
Long An làm nhiệm vụ ghi biên bản phiên tòa.

Chủ tọa
Minh

- Các đương sự, có ai có yêu cầu xin thay đổi người tiến hành tố tụng hay
không?

Sênh, Hà, - Thưa không (lần lượt).
Đức
Chủ tọa - Các đương sự, các vị luật sư, vị Hội thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát có ai
Minh
có ý kiến gì về phần thủ tục của phiên tòa hay không?
Sênh, Hà, - Thưa không (lần lượt).
Đức,
Tiến,
Yến,
Chung,
Đạt, Hoài
Chủ tọa - Mời các đương sự ngồi xuống.
Minh
- Nếu không ai có ý kiến gì bổ sung thêm, thay mặt HĐXX tôi tuyên bố kết



thúc phần thủ tục, chuyển sang phần hỏi.
Chủ tọa
Minh

- Mời ông Sênh đứng dậy.
- Ông yêu cầu tòa án giải quyết cho ông vấn đề gì?

Sênh

- Tôi xin nhờ luật sư trình bày yêu cầu khởi kiện.

Tiến

- Thưa HĐXX tôi xin trình bày.
- Yêu cầu ông Nguyễn Tiến Thành phải khôi phục lại hiện trạng lối đi ban
đầu, chấm dứt việc rào chắn, ngăn cản không cho gia đình ông Tú đi lại.
Đồng thời yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận nhận quyền sử dụng đất
của ông Thành đối với phần lối đi ngang hướng Đông 5,6m, hướng tây 7m,
chiều dài 38 m, tổng diện tích 239 mét vuông thuộc thửa đất số 95, tờ bản đồ
số 11, tọa lạc tại khu vực 1, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
- Tại phiên tòa hôm nay, phía nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
bởi vì: ông Vừ A Tú đứng tên quyền sử dụng đối với thửa 94, tờ bản đồ số
11, ông Nguyễn Tiến Thành đứng tên quyền sử dụng đối với thửa 95, tờ bản
đồ số 11. Cả hai hộ cùng sử dụng chung lối đi có diện tích 239 mét vuông.
Ông Tú đã sử dụng con đường này từ năm 1983 cho đến nay không có ai
tranh chấp. Năm 1998 ông Thành đăng ký quyền sử dụng đất gồm 4 thửa 95,
06, 07, 08 cùng tờ bản đồ số 11, tổng diện tích 6188 mét vuông trong đó có
thửa 95, tờ bản đồ số 11, diện tích 1738 mét vuông loại đất thổ, mục đích sử
dụng lâu dài được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp giấy. Năm 2012, sau khi hoàn
thành nghĩa vụ thuế thế đối với thửa 95, ông Thành cùng con gái là bà Hà

cho rằng lối đi chung với gia đình ông Tú thuộc quyền sử dụng của mình nên
tự ý xây cổng và làm hàng rào không cho gia đình ông Tú sử dụng lối đi để
vào phần đất của ông Tú và các con ông Tú. Sau khi hòa giải không thành tại
Ủy ban, ông Tú và các con khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Ông khẳng định lại một lần nữa ông kiện ông Thành là về vấn đề gì?

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Ông căn cứ vào đâu để khẳng định lối đi này chuyển nhượng của bà Chiều?

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Còn chứng cứ nào khác không?

Chủ tọa
Minh

- Trong tờ chiết bán ruộng, chỗ nào nói lối đi là bà Chiều bán cho ông Tú,
ông đọc lên xem?

- Thưa HĐXX, đất này là đất của ông Vừ A Tú sang nhượng của bà Chiều,

lúc sang nhượng đã có lối đi. Ủy ban tỉnh cấp quyền sử dụng đất cho ông
Thành có phần lối đi này là sai. Tôi yêu cầu trả lại phần lối đi theo hiện trạng
ban đầu đồng thời yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của ông Thành đối với diện tích lối đi.

- Thưa HĐXX, căn cứ vào tờ chiết bán ruộng.

- Thưa không.


Sênh

- Đất này ông Tú mua của bà Chiều năm 1983, có nói đây là lối đi chung với
ông Thành.

Chủ tọa
Minh

- Trong tờ giấy này có viết “... Đông Tây tứ cận như sau: Đông chí giáp Bác
Ba Khăm, Tây giáp Nguyễn Văn Công, Đông Bắc giáp đường đi vô nhà ông
Nguyễn Tiến Thành đường thổ đi chung không ai ...” có phải phần này
không?

Sênh

- Đúng vậy.

Chủ tọa
Minh
Sênh


- Bản chính của tờ giấy này đâu?

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Có kêu mấy hộ giáp ranh ra ký tên không?

Chủ tọa
Minh

- Sau đây tôi công bố Công văn số 1837 ngày 10/9/2014 của Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Long An.

- Lúc xưa viết tay, bản chính để ở nhà.

- Thưa, không có.

UBND TỈNH LONG AN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Số: 1837/STNMT-PC
V/v cung cấp chứng cứ
Theo yêu cầu của Tòa án

Long An, ngày 10 tháng 09 năm 2014


Kính gửi: Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Tòa án nhân dân tỉnh có văn bản số 516/TA-DS ngày 3/9/2014 về việc cung
cấp chứng cứ liên quan đến “ tranh chấp lối đi qua bất động sản liền kề” giữa
ông Vừ A Tú với ông Nguyễn Tiến Thành, đất tọa lạc thị trấn Đức Hòa,
huyện Đức Hòa.
Thực hiện truyền đạt ý kiến của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh ( văn bản số
2002/VPUBND-NCTCD ngày 3/9/2014 của Văn phòng ủy ban nhân dân
tỉnh Long An), Sở Tài nguyên và Môi trường có ý kiến phúc đáp như sau
- Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bìa trắng mẫu tỉnh, ông
Nguyễn Tiến Thành được cấp diện tích 1262 mét vuông, đến khi cấp
đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mẫu Trung ương, ông Thành
được cấp diện tích 1738 mét vuông, có sự chênh lệch diện tích do khi
tổ chức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bìa trắng mẫu tỉnh
chưa đo đạc kiểm tra diện tích, do người sử dụng đất tự kê khai.
- Phần đất diện tích 239 mét vuông trước năm 1975 sử dụng thế nào
không rõ, nhưng từ năm 1976 đến nay gia đình ông Nguyễn Tiến
Thành sử dụng làm lối đi riêng.
Sở Tài nguyên và Môi trường có ý kiến phúc đáp, Tòa án nhân dân tỉnh xem
xét giải quyết theo quy định pháp luật./.


TM. GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC

(Đã ký)
Phan Nhân Duy
Chủ tọa
Minh
Sênh


- Ông có ý kiến gì không?

Chủ tọa
Minh

- Trong văn bản “Tờ chiết bán ruộng” bà Chiều không có nói bán lối đi này
cho ông Tú cũng không có văn bản nào nói đất này là của bà Chiều, ông thấy
việc này thế nào?

Sênh

- Đất này là đất của bà Chiều, bà Chiều bán cho ông Tú có giấy tay hẳn hoi.

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Thưa HĐXX, công văn nói lối đi của ông Thành là không đúng. Đất này có
từ 1968, chế độ cũ mới móc kênh. Đất là của nhà bà Chiều chứ không phải
của ông Thành.

- Ông cho biết mấy cây trụ xi măng khi ông Tú và ông Thành thỏa thuận
đóng ông có biết không?
- Thưa biết, hai bên đóng trụ để biết đất này của đứa con nào.

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Tại sao không đóng trụ ranh bên hàng dừa mà lại đóng bên phía này?


Chủ tọa
Minh
Sênh

- Vậy tại sao ông nói đất này mua của bà Chiều, con đường này có rồi?

Chủ tọa
Minh

- Khi ông Tú chia đất cho các con, tách quyền sử dụng đất từ thửa 94 ra thì
cơ quan có thẩm quyền đo vẽ như thế nào ông có biết không?

Sênh
Chủ tọa
Minh
Sênh

- Bờ đó là bờ đi công cộng nên nhà nước không cấp cho ai hết.

- Đất ông Tú mua của bà chiều là phần đất thôi, còn con đường không sang
nhượng được. Lúc đó con đường này là con đường đi công cộng.

- Không biết
- Lúc đo vẽ cơ quan có thẩm quyền có chừa ra lối đi 2m, ông có biết việc
này không?
- Không có lối đi nào 2m hết.

Chủ tọa
Minh

Sênh

- Trên lối đi tranh chấp có bao nhiêu người đi mà ông cho là công cộng?

Chủ tọa
Minh

- Chỉ có hai gia đình này, ngoài ra còn có ai đi nữa không?

- Có gia đình ông Thành và gia đình ông Tú.


Sênh

- Nay chỉ có hai gia đình thôi, những người xóm dưới giờ đi đường khác rồi.

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Ông có ứng tiền tạm ứng chi phí thẩm định ở Tòa Đức Hòa không?

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Lúc lên tỉnh ông cũng tạm ứng chi phi thẩm định đúng không?

Chủ tọa
Minh

Chủ tọa
Minh

- Cho ông Sênh ngồi xuống, mời bà Hà đứng dậy.



- Có, 1.500.000đ đó là do tôi ứng.

- Đúng vậy, tôi ứng 1.250.000đ.

- Bà cho biết quy ền sử dụng đất mà ông Thành được cấp năm 1998 là trên
cơ sở nào?
- Năm 1992 gia đình tôi đã được cấp giấy trắng, đến năm 1998 được cấp
giấy đỏ.

Chủ tọa
Minh


- Thửa nào được cấp giấy trắng?

Chủ tọa
Minh


- Bà căn cứ vào đâu mà kê khai đất có diện tích 1262 mét vuông?

Chủ tọa
Minh



- Khi cấp qua giấy đỏ thì nó là thửa 95 đúng không?

Chủ tọa
Minh


- Bà có để ý nó có gì khác biệt không?

Chủ tọa
Minh


- Khi cấp giấy đỏ với diện tích mới là trên cơ sở nào?

Chủ tọa
Minh

- Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do bà tự viết hay cán bộ
địa chính viết?



- Đơn do tôi viết, tôi ký tên, còn thửa đất và diện tích thì do địa chính hướng
dẫn ghi.

- Thửa 2663, diện tích 1262 mét vuông loại đất thổ.

- Đất đó là của ba tôi, do ba tôi kê khai. Lúc đó tôi còn đi học nên tôi không

rõ.

- Đúng vậy.

- Chỉ có số liệu diện tích không khớp do ngày xưa cấp giấy trắng không có
kiểm tra, chỉ cấp theo phỏng đoán.

- Tôi nghe nói là chụp không ảnh.


Chủ tọa
Minh

- Bên nguyên đơn cho rằng đây là lối đi công cộng, về sau bên bà đi kê khai
và được cấp giấy cả phần lối đi là không đúng. Bà có ý kiến như thế nào?



- Điều này là không đúng. Bởi vì đất của tôi là đất thổ, đất của ông Tú là đất
ruộng. Theo bản đồ đi vô phần đất của ông Tú đã có đường đi, còn đất này là
đất thổ của nhà tôi, nhà tôi trồng dừa, ổi, mù u và có phơi củi, phơi lúa trên
đó.

Chủ tọa
Minh


- Đất trên đường đi có phải là đất nạo vét dưới kênh đổ lên không?

Chủ tọa

Minh


- Kênh đó có nạo vét lần nào không?

Chủ tọa
Minh


- Vậy nạo vét có bỏ đất qua hai bên bờ không

Chủ tọa
Minh

- Bà cho rằng đất nạo vét kênh bỏ qua phía đường đan mới đổ, phía nhà mới
cất đúng không?



- Ngày xưa thế nào tôi không biết, còn từ khi nhà tôi ở đến nay là không có.

- Có nạo vét.

- Thưa không. Đất nạo vét bỏ qua phía bờ bên kia.

- Đúng vậy.

Chủ tọa
Minh



- Nguồn gốc đất để làm con kênh là của ai bà có biết không?

Chủ tọa
Minh

- Nguồn gốc phần đất đắp lên lối đi đang tranh chấp là đất của ai, có phải của
bà Chiều không?



- Đất của gia tộc Nguyễn nhà tôi.

- Không phải. Xung quanh đất đó nguồn gốc là của ông cố tôi để lại, chia
cho ông ngoại tôi và bà Chiều.

Chủ tọa
Minh


- Đất kê khai có con kênh hiện hữu có phải nằm trong thửa 95 không?

Chủ tọa
Minh

- Phía nguyên đơn cho rằng khi được cấp quyền sử dụng thửa 94 đã có lối đi,
việc bà làm hàng rào như thế là họ không còn lối đi. Lúc họ mua giấy tờ ghi
rõ đất có lối đi. Trước yêu cầu khôi phục lại lối đi của nguyên đơn bà có ý
kiến thế nào?




- Tôi không đồng ý. Lý do: Thứ nhất, trong giấy mua bán ruộng không có
chính quyền địa phương xác nhận là không có giá trị. Thứ hai, ít nhất phải có

- Con kênh thì không thuộc nhưng phần lối đi đang tranh chấp là thuộc thửa
95.


những người giáp ranh ký tên vào tờ giấy, còn ở đây không có ai ký giáp
ranh chỉ có người mua và người bán ký là hoàn toàn không đúng.
Chủ tọa
Minh


- Khi cắm trụ xi măng thấp là ai cắm?

Chủ tọa
Minh


- Ý nghĩa của việc cắm trụ đó là gì?

Chủ tọa
Minh


- Cắm vào năm nào?

Chủ tọa

Minh

- Sau khi Ủy ban nhân dân tỉnh Long An cấp quyền sử dụng đất cho bà thì bà
mới làm cổng rào đúng không?



- Lúc trước, đất của ông Tú là đất ruộng, ông Tú muốn đi vào ruộng thì đã có
lối đi. Về sau, ông Tú phân nền chia cho con, khi đó vợ chồng ông Tú có xin
gia đình tôi cho mấy đứa con đổ nhờ vật tư cất nhà; cất nhà xong ông Tú xin
cho đi nhờ lối đi. Lúc tôi nghe tin ông Tú cắt bằng khoán, tôi đã ra Ủy ban
nhân dân thị trấn Đức Hòa xin bản đồ và biết bên ông Tú đã có lối đi 2m.
Tôi về tôi mới xây cổng rào lối đi lại.

- Ông Tú và ba tôi.

- Là để phân ranh.

- Khoảng năm 2005 – 2006.

Chủ tọa
Minh

- Trong hồ sơ có thể hiện lời khai của ông Sái, ông Bìa, ông Hùng là đường
đi ra đám đất số 9 là đường đi duy nhất, không phải đất nhà của bà. Bà có ý
kiến như thế nào?



- Điều đó là không đúng. Xung quanh nhà tôi có con kênh nên không ai đi

đường đi vào nhà tôi cả, đi vào đó là không có đường ra, muốn đi ta ruộng là
đi hướng con đường đan mới làm.

Chủ tọa
Minh
Chủ tọa
Minh

Đức
Chủ tọa
Minh
Đức

- Cho bà Hà ngồi xuống, mời ông Đức đứng dậy.
- Những người con của ông Tú được xác định là người có quyền và nghĩa vụ
liên quan, liên quan ở đây là liên quan theo yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn chứ không có yêu cầu độc lập và cũng không có đóng tạm ứng án phí
đúng không?
- Đúng vậy.
- Qua lời trình bày của ông Sênh và bà Hà, ông đại diện cho những người
liên quan có ý kiến như thế nào?
- Yêu cầu gia đình ông Thành tháo gỡ cổng rào, trả lại hiện trạng lối đi
chung. Phía các con ông Tú không có đường đi và thực tế cũng không có con
đường đi 2m nào như bà Hà nói.


Chủ tọa
Minh

- Lúc được tách quyền sử dụng đất từ ông Tú, Ủy ban có trích lục bản đồ có

con đường 2m, những người này có khiếu nại gì không?

Đức

- Không biết nên không có khiếu nại.

Chủ tọa
Minh
Đức

- Nhìn vào bản vẽ thì có biết không?

Chủ tọa
Minh

- Hiện nay trong tay những người liên quan có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chưa?

Đức
Chủ tọa
Minh
Đức

- Cũng không biết.

- Thưa, có rồi.
- Vậy lối đi này có nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình
được cấp không?
- Thưa không, đây là lối đi chung từ xưa đến nay.


Chủ tọa
Minh

- Cho ông ngồi xuống.
- Đề nghị các vị HTND tham gia thủ tục hỏi.

Chung

- Tôi đề nghị được hỏi bà Hà.

Chủ tọa
Minh
Chung

- Mời bà Hà đứng dậy.



Chung

Chung

- Các con ông Thành đi trên lối đi trước nhà bà từ khi nào?
- Đến năm 2008, Vương Thị Ngọc Danh cất nhà thì ông Thành có xin gia
đình tôi cho con ông đi nhờ. Nhà ông Thành đã xác định đây là đất của tôi
thì mới có việc xin tôi cho đi nhờ lối đi.
- Vậy bà cho rằng đất là của bà nên người ta mới xin, nếu là lối đi chung thì
người ta tự đi chứ sao lại xin có đúng vậy không?
- Đúng vậy.
- Bên gia đình ông Thành xin rồi bà có cho đi không?




- Nghĩ tình hàng xóm nên tôi có cho đi. Đến năm 2011 ông Thành phân nền
cho các con rồi ai cũng đi trên lối đi này trong khi đã có con đường 2m mà
cất nhà lại không chừa ra, cho nên tôi làm cổng rào không cho đi nữa.

Chung

- Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chụp không ảnh hay đo đạc
thực tế, hay là bà tự kê khai?



- Tôi cũng không nhớ là chụp không ảnh hay sao, chỉ nhớ lúc đó có cán bộ


địa chính xuống. Lúc làm đơn xin cấp giấy thì việc kê khai diện tích có địa
chính hướng dẫn.
Chung

- Tôi không còn câu hỏi gì thêm, mời HĐXX tiếp tục làm việc.

Chủ tọa
Minh

- Cho bà Hà ngồi.
- Mời Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn tham gia
thủ tục hỏi.


Tiến
Chủ tọa
Minh
Tiến

- Tôi đề nghị được hỏi bà Hà
- Mời bà Hà đứng dậy.
- Trước khi bà làm cổng rào, bà có qua trao đổi, thương lượng gì với bên gia
đình ông Thành không?



- Không có, đất của tôi nên tôi rào, đâu cần phải hỏi ý kiến ông Thành.

Tiến

- Đất lối đi và con đường bờ kênh đã có từ trước giải phóng đến nay đúng
không?



- Đúng vậy, đất do ông bà tôi để lại.

Tiến

- Tại sao bà biết được diện tích lối đi đang tranh chấp nằm trong thửa 95 của
bà?




- Gia đình tôi đã ở đó từ năm 1976, đã biết được ranh đất nên có trồng cây
trên phần đất này rồi.

Tiến

- Bà khẳng định lại một lần nữa, con kênh giáp đường đi có lâu chưa? Trước
giải phóng hay sau này mới có?



- Có trước giải phóng.

Tiến

- Tôi đề nghị được hỏi ông Sênh.

Chủ tọa
Minh
Tiến

- Cho bà Hà ngồi, mời ông Sênh đứng dậy.
- Trong giấy chứng nhận QSD đất cấp cho ông có con kênh đúng không?

Sênh

- Đúng vậy.

Tiến

- Luật sư hết câu hỏi, mời HĐXX tiếp tục làm việc.


Chủ tọa
Minh

- Cho ông Sênh ngồi.
- Mời Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn tham gia thủ tục
hỏi.


Yến
Chủ tọa
Minh
Yến

- Tôi đề nghị được hỏi bà Hà.
- Mời bà Hà đứng dậy.



- Nhà bà cất từ năm 1976, trên phần đất tranh chấp bà có trồng trọt hay sử
dụng làm gì không?
- Có, tôi đã trồng dừa lâu năm rồi, và có phơi lúa, phơi củi trên đó.

Yến

- Khi bà trồng dừa rồi phơi lúa, phơi củi trên đó có ai tranh chấp không?



- Không có.


Yến

- Theo hiện trạng đất hiện nay, bà Hòa có xây dựng một cái cổng vào tháng
7/2014. Lúc bà Hòa xây dựng bà có ý kiến gì hay không?



- Có, tôi có làm đơn gửi Ủy ban, Ủy ban có cử cán bộ Tài nguyên và Môi
trường xuống và có lập biên bản.

Yến

- Các thửa đất phía sau nhà bà là của ai?



- Của tôi và dòng họ, đất của mấy ông anh.

Yến

- Tôi không còn câu hỏi gì thêm, mời HĐXX tiếp tục làm việc.

Chủ tọa
Minh
Hoài
Chủ tọa
Minh
Hoài


- Cho bà Hà ngồi.
- Mời đại diện VKS tham gia thủ tục hỏi.
- Tôi đề nghị được hỏi ông Sênh.
- Mời ông Sênh đứng dậy.
- Ông xác định lối đi này có từ khi nào?

Sênh

- Có từ năm 1968.

Hoài

- Vậy lối đi này trước đây có đi vào chỗ nhà ông Thành không?

Sênh

- Có

Hoài

- Còn lối đi chỗ nhà mới xây là có từ khi nào?

Sênh

- Có từ lúc xây nhà mới, do chủ nhà đó bỏ tiền ra làm.

Hoài

- Trước đó người dân có đi lối đó không?



Sênh

- Không có, đi đường chỗ nhà ông Thành.

Hoài

- Ở phần đất mà ông Tú tách cho các con, sau khi tách thì ông Tú còn đất
không?

Sênh
Hoài

- Vẫn còn.
- Tôi đề nghị được hỏi ông Đức.

Chủ tọa
Minh
Hoài

- Cho ông Sênh ngồi. Mời ông Đức đứng dậy.
- Ông đại diện cho những người liên quan, trong đó có bà Danh đã cất nhà.
Bà Danh có yêu cầu tháo gỡ hàng rào không hay ông chỉ trình bày vậy thôi?

Đức

- Có, có yêu cầu ông Thành tháo gỡ hàng rào, trả lại lối đi.

Hoài


- Lúc ở tòa Đức Hòa có làm đơn khởi kiện, có tạm ứng án phí gì không?

Đức

- Không có.

Hoài

- Vậy tại phiên tòa này ông có yêu cầu không?

Đức

- Có, tôi xin yêu cầu và tạm ứng án phí theo quy định.

Hoài

- Tôi đề nghị được hỏi bà Hà.

Chủ tọa
Minh
Hoài


Hoài

Hoài

- Cho ông Đức ngồi. Mời bà Hà đứng dậy.
- Khi bà được cấp giấy trắng diện tích là 1262 mét vuông đến khi cấp đổi
giấy thành 1738 mét vuông. Bà có xác định được là khi cấp giấy có đo đạc

hay không?
- Lúc nãy tôi có nói là tôi không nhớ.
- Vậy tại sao lúc đầu bà lại nói là chụp không ảnh?
- Tôi nghe nói như vậy còn việc cấp giấy là dựa vào đó hay không thì tôi
không biết.
- Diện tích tăng lên như vậy sao bà lại không biết?



- Lúc đi kê khai thì có người hướng dẫn, ai cũng được hướng dẫn như thế
nên tôi chỉ làm theo thôi.

Hoài

- Như vậy tại thời điểm kê khai bà hoàn toàn không biết diện tích đất của
ông Thành thực tế là bao nhiêu đúng vậy không?



- Đúng vậy, diện tích chính xác bao nhiêu thì không biết, chỉ biết ranh đất


trồng cây đến đâu.
Hoài

- Con kênh này có từ khi nào?


Hoài


- Có trước giải phóng.
- Vậy khi nạo kênh đất bỏ ở đâu?



- Trước đó thì tôi không biết nhưng từ khi nhà tôi ở thì không có bỏ bên nhà
tôi.

Hoài

- Trước đây người dân có đi lối đi vào phía sau nhà bà không hay là đi lối đi
chỗ nhà mới xây?



- đi chỗ đường nhà mới xây, trước đó con đường mới là đường đất, đi thẳng
ra ruộng phía sau. Chỗ nhà tôi là đường cùng, có con kênh bao bọc, không
có cầu cũng không có đường để đi qua mấy đám ruộng nên không ai đi.

Hoài
Chủ tọa
Minh

- Tôi hết câu hỏi, mời HĐXX tiếp tục làm việc.
- Cho bà Hà ngồi.
- Các đương sự có trình bày bổ sung những vấn đề gì ngoài những vấn đề đã
trình bày không?

Sênh, Hà, - Thưa không ( lần lượt).
Đức

Chủ tọa - Các vị Hội thẩm, vị luật sư, vị đại diện VKS sau khi nghe các đương sự
Minh
trình bày, có cần hỏi thêm vấn đề gì không?
Đạt,
- Thưa không ( lần lượt).
Chung,
Tiến,
Yến, Hoài
Chủ tọa - Không có ai có yêu cầu hỏi thêm vấn đề gì, tôi xin tuyên bố, kết thúc phần
Minh
xét hỏi, chuyển sang phần tranh luận.
- Đề nghị phía luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
phát biểu quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
Tiến

(Đứng dậy)
- Thưa HĐXX tôi xin trình bày.
- Về quyền sử dụng đất có diện tích 239 mét vuông đang tranh chấp, nó là
con đường bờ kênh ấp Chiến Lược được người dân xung quanh vùng làm lối
đi chung và con đường này là ranh giới giữa thửa 94 của ông Tú và thửa 95
của ông Thành. Con đường này thực tế đã có từ lâu đời (từ trước năm 1975),
khu đất này ngày xưa là ấp Chiến Lược, sau giải phóng mới có vài người ở
đó. Những người dân xung quanh như ông Sái, ông Bìa, ông Hùng cũng
trình bày như vậy. Con đường bờ kênh này là con đường đi chung giữa hai
gia đình từ năm 1983 đến nay, điều này được thể hiện bằng giấy chứng nhận


quyền sử dụng đất của các con ông Tú có vẽ con đường bờ kênh 6m. Ngoài
việc cho đất các con, ông Tú còn bán cho ông Sênh, sơ đồ đất của ông Sênh
cũng thể hiện con đường bờ kênh. Cho nên khẳng định rằng con đường bờ

kênh là con đường chung có từ chế độ cũ. Như vậy, gia đình ông Thành cho
rằng đất này của dòng họ ông Thành là chưa phù hợp.
- Về việc xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 95 cho
ông Nguyễn Tiến Thành, tôi cho rằng việc cấp giấy này là sai quy định. Cụ
thể, việc cấp quyền sử dụng đất vào năm 1998 là cấp theo luật đất đai năm
1993, tại Điều 54 quy định rằng đối với đất ở nông thôn chỉ được cấp không
vượt quá 400 mét vuông; ở đây thửa 95 có diện tích thổ đến 1738 mét vuông
là sai quy định; hơn nữa đất cấp năm 1992 đến năm 1998 cấp đổi lại giấy thì
diện tích có thay đổi lớn, diện tích từ 1262 mét vuông tăng lên 1738 mét
vuông, việc thay đổi này do bên ông Thành tự kê khai, cơ quan nhà nước
không đo đạc thực tế. Cho nên việc cấp giấy cho ông Thành là không đúng
quy định, cụ thể là không đúng theo Quyết định 935 ngày 3/3/1995 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Long An quy định về đối tượng xét cấp đổi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo mẫu Trung ương; tại điểm 1 mục 2 của Quyết
định này quy định “Việc tổ chức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được tiến hành theo đơn vị xã, phường, thị trấn và phải đủ những điều kiện
sau: đo đạc, bản đồ địa chính, sổ địa chính, phải có Cán bộ địa chính, phòng
Tài nguyên và Môi trường xét duyệt tại xã, phải thể hiện đúng hiện trạng,
hình thể, diện tích...” . Mong hội đồng xét xử xem xét ở chỗ việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất dựa trên đơn xin cấp giấy của ông Thành do
bà Hà đại diện viết, theo như Quyết định quy định rằng việc cấp giấy phải
được Hội đồng xét duyệt, nhưng ở đơn của ông Thành không thấy Hội đồng
nào xét duyệt, chỉ có cán bộ địa chính ký tên và ghi thống nhất cấp giấy. Việc
cấp giấy như vậy là sai, việc ông Thành và bà Hà cắm cọc xây cổng rào là
ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Tú, ảnh hưởng đến đạo lý và làm
mất đi tình làng nghĩa xóm.
- Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và hủy
một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Thành đối với
diện tích lối đi 239 mét vuông.
- Tôi đã trình bày xong.

Chủ tọa
Minh
Sênh
Chủ tọa
Minh
Đức
Chủ tọa
Minh

- Mời luật sư ngồi xuống.
- Mời người đại diện nguyên đơn - ông Sênh, ông có bổ sung ý kiến tranh
luận hay không?
- Tôi đồng ý với phần trình bày của luật sư, không có bổ sung gì thêm.
- Mời người đại diện của người có quyền và nghĩa vụ liên quan – ông Đức,
ông có bổ sung ý kiến tranh luận hay không?
- Tôi cũng không bổ sung gì thêm.
- Đề nghị phía luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát
biểu quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.


Yến

- Thưa HĐXX, tôi xin trình bày.
- Về nguồn gốc thửa đất 95, tờ bản đồ số 11, diện tích 1738 mét vuông là do
cha mẹ ông Thành để lại, trong đó có phần lối đi đang tranh chấp. Tuy việc
cha mẹ để lại đất không thể hiện trên giấy tờ nhưng căn cứ trên bản đồ tổng
thể khu đất có thể thấy rằng phần đất tranh chấp nằm trong thửa 95, nằm lọt
trong khu đất thuộc quyền sử dụng đất của thân tộc họ Nguyễn của ông
Thành từ hàng trăm năm nay. Trước đây đều do các anh em trong thân tộc
ông Thành quản lý, sử dụng; kể cả thửa 94 của ông Vừ A Tú cũng mua lại từ

bà Nguyễn Thị Chiều là cô ruột ông Thành.
- Về quá trình sử dụng đất, theo công văn 1837 ngày 29/10/2014 của Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Long An cũng khẳng định từ năm 1976 đến nay
do gia đình ông Nguyễn Tiến Thành sử dụng làm lối đi riêng. Trong thực tế
sử dụng, phía gia đình ông Thành có sử dụng 239 mét vuông này để phơi
lúa, phơi củi và chứa hàng trăm mét khối củi, ngoài ra còn có trồng ổi, trồng
dừa. Tại thời điểm đó tất cả các hộ xung quanh đều biết nhưng không có ai
ngăn cản cũng không ai tranh chấp.
- Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Năm 1992, ông Thành
được Ủy ban nhân dân tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo mẫu tỉnh với diện tích 5833 mét vuông trong đó có thửa 2663 có diện
tích 1262 mét vuông chưa kiểm tra diện tích. Thực hiện chủ trương đo đạc
và cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo mẫu Trung ương, năm
1998 ông Thành ủy quyền cho bà Hoàng Ngọc Hà đứng đơn đăng ký xin cấp
đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đơn được cán bộ địa chính thị trấn
Đức Hòa thẩm tra và thông qua hội đồng xét cấp giấy. Sau đó ông Thành
được Ủy ban nhân dân tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số M32974 gồm bốn thửa tổng diện tích 6188 mét vuông, trong đó có thửa
95 có diện tích 1738 mét vuông. Như vậy, việc Ủy ban nhân dân tỉnh Long
An cấp quyền sử dụng đất cho ông Thành là trên cơ sở cấp đổi giấy từ mẫu
tỉnh sang mẫu Trung ương theo bản đồ địa chính, hồ sơ xét duyệt công khai
của Ủy ban nhân dân thị trấn Đức Hòa, không có tranh chấp, khiếu nại, hoàn
toàn phù hợp với Luật đất đai năm 1993. Mặt khác, ông Thành sử dụng thửa
95 trong đó có diện tích lối đi ổn định, liên tục và không tranh chấp nên Nhà
nước xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Thành là hoàn
toàn đúng đối tượng và đúng quy định.
- Về việc cấp giấy mà có sự chênh lệch điện tích, trước năm 1983 diện tích
phần đất này là 1262 mét vuông về sau tăng lên 1738 mét vuông là do bà Hà
có cải tạo, mở rộng thêm phần đất khoảng 500 mét vuông ở phía sau chuồng
lợn bên phải nhà ông Tú, không hề liên quan đến phần đất 239 mét vuông

đang tranh chấp. Vì vậy đến năm 1997, khi đi đăng ký để cấp lại giấy bà Hà
đi kê khai nhưng không biết thực tế đất là bao nhiêu nhưng cán bộ địa chính
có hướng dẫn diện tích là 1738 mét vuông. Phần diện tích tăng lên là hoàn
toàn hợp lý.
- Đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc
nghỉ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Thành.


- Theo luật sư nguyên đơn cho rằng con đường này là đường bờ kênh ấp
Chiến Lược do chế độ cũ quản lý, tuy nhiên tất cả các giấy tờ của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền cũng như cán bộ địa chính đều không chứng minh
được đây là con đường công cộng. Nếu có nói đường này do chế độ cũ quản
lý thì đó chỉ là do các nguyên đơn nói thôi, hoàn toàn không có chứng cứ
chứng minh, còn phía bị đơn khẳng định đây là đất thân tộc.
- Đối với việc Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bà Liên, Vy, Danh, Hạnh, Hòa: Trong hồ sơ cấp giấy đã thể hiện có
lối đi 2m, ngoài phần đất trên thửa 95 hiện đang tranh chấp còn có lối đi 2m
đi bộ vào đất của những người này. Tuy nhiên khi cất nhà những người này
đã không chừa ra lối đi 2m là làm trái với cam kết ban đầu trước khi tách đất.
- Theo quy định của Nghị định 126 của Chính phủ về xử phạt hành chính
trong xây dựng, đối với các hộ bà Vy, bà Danh, ông Sênh,... hiện tại có bà
Danh, bà Hòa đã cất nhà nhưng việc cất nhà không có giấy phép xây dựng.
Hơn nữa trong giấy tờ thể hiện đất của những người này là đất lúa nhưng họ
lại cất nhà mà không chuyển mục đích sử dụng, đó là vi phạm pháp luật.
Không thể vì một hành vi vi phạm pháp luật mà buộc bà Hà phải tháo dỡ
cổng, giao quyền sử dụng đất của mình để cho họ đi, như vậy là ảnh hưởng
quyền lợi của gia đình ông Thành. Đề nghị Hội đồng xem xét.
- Tôi đã trình bày xong.
Chủ tọa
Minh


- Mời luật sư ngồi xuống.
- Mời người đại diện bị đơn – bà Hà, bà có bổ sung ý kiến tranh luận hay
không?



- Thưa có, phía luật sư nguyên đơn nói đây là đường đi công cộng vì có mấy
người làm chứng. Tôi có ý kiến: Ông Sái là anh vợ của ông Tú; ông Bìa, ông
Hùng không được sinh ra ở đây, đến khi lấy vợ các ông này mới về đây sống
nên không biết rõ được sự việc như thế nào. Tôi không đồng ý vấn đề này.
- Tôi xin hết.

Chủ tọa
Minh

- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn có ý kiến đối đáp
gì hay không?

Tiến

- Tôi không có ý kiến gì thêm.

Chủ tọa
Minh
Sênh

- Đại diện hợp pháp của nguyên đơn có ý kiến đối đáp gì hay không?

Chủ tọa

Minh

- Đại diện hợp pháp của người có quyền vầ nghĩa vụ liên quan có ý kiến đối
đáp gì hay không?

Đức
Chủ tọa
Minh

- Tôi không có ý kiến gì thêm.

- Tôi không có ý kiến gì thêm.
- Mời vị đại diện VKS phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và
ý kiến về việc giải quyết vụ án.


Hoài

- Thưa HĐXX, trong quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán - chủ tọa phiên
tòa và tại phiên tòa HĐXX, thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định
tại Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên không
có phát biểu gì thêm. Đề nghị HĐXX giải quyết vụ án theo quy định pháp
luật.

Chủ tọa
Minh

- Không ai có ý kiến đối đáp tranh luận gì thêm, thay mặt HĐXX tôi tuyên
bố kết thúc vần tranh luận. Chuyển sang phần nghị án.

- Mời HĐXX vào phòng nghị án.
NGHỊ ÁN XONG
HĐXX ĐI VÀO PHÒNG XỬ ÁN

Thư ký
Thúy

- Yêu cầu mọi người có mặt tại phòng xử án đứng dậy.

Chủ tọa
Minh

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 15/2014/DS-ST
Ngày: 11/11/2014
V/v tranh chấp lối đi và hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Ngọc Minh
Các Hội thẩm nhân dân :
Bà Nguyễn Thị Chung

Bà Vàng Thị Thành Đạt
Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Ngô Phương Thúy – cán bộ TAND
tỉnh Long An.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Bà Lương Thị Thu Hoài – Đại diện Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.
Trong ngày 11/11/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An mở phiên
tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2014/TLST-DS ngày
9/6/2014 về việc “tranh chấp lối đi và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số16/2014/QĐ-ST ngày 17/9/2014,


giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Vừ A Tú, sinh năm 1939.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Sùng A Sênh, sinh
năm 1957 ( văn bản ủy quyền chứng thực ngày 19/08/2013).
Cùng địa chỉ: Khu vực 1, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phạm
Anh Tiến – Chi nhánh 1 Công ty Luật hợp danh Lạc Việt thuộc Đoàn
Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tiến Thành, sinh năm 1932.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Hoàng Ngọc Hà, sinh năm
1957 ( văn bản ủy quyền chứng thực ngày 23/07/2013).
Cùng địa chỉ: Khu vực 1, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Quàng Thị
Hải Yến – Chi nhánh văn phòng luật sư Lâm Hồng thuộc Đoàn Luật sư
thành phố Hồ Chí Minh.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Sùng A Sênh, sinh năm 1957.
Bà Vương Thị Kim Liên, sinh năm 1966.
Bà Vương Thị Kim Vy, sinh năm 1974.
Bà Vương Thị Ngọc Hạnh, sinh năm 1978.
Bà Vương Thị Ngọc Danh, sinh năm 1975.
Bà Vương Thị Mỹ Hòa, sinh năm 1983.
Cùng địa chỉ: Khu vực 1, thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Liên, bà Vy, bà Danh, bà Hạnh và
bà Hòa: Ông Lò Văn Đức, sinh năm 1954 (văn bản ủy quyền chứng thực
vào các ngày 02/07/2014, 03/07/2014 và 08/07/2014).
Địa chỉ: Ấp 3, xã Thanh Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
NHẬN THẤY:
Nguyên đơn ông Vừ A Tú trình bày trong đơn khởi kiện ngày 13/7/2013, và
các biên bản hòa giải ngày 27/7/2013, ngày 16/9/2014 cũng như trong quá
trình giải quyết vụ án như sau:
- Năm 1983, ông Vừ A Tứ chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Chiều diện
tích đất của thửa đất số 94, tờ bản đồ số 11 tại khu vực 1, thị trấn Đức Hòa,


huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Khi chuyển nhượng đã có lối đi ngang hướng
đông 5,6m, hướng tây 7m, chiều dài 38m, thuộc thửa đất số 95, tờ bản đồ số
11 nằm giữa thửa 94 thuộc đất ông Tú chuyển nhượng và quyền sử dụng đất
của ông Nguyễn Tiến Thành. Lối đi này có nguồn gốc là của chế độ cũ dùng
làm tua canh gác và lập ấp Chiến Lược nên trước giải phóng năm 1975
không ai ở đó cả cả. Năm 1983 khi ông Tú chuyển nhượng đất của bà Chiều
và ông Minh đều thể hiện có con đường bờ kênh dùng làm lối đi chung cho
người dân trong khu vực. Sau giải phóng trong các giấy chứng nhận cấp cho

ông đều thể hiện có con đường bờ kênh. Quá trình sử dụng, ông Thành kê
khai và được cấp luôn lối đi này tổng diện tích là 239 mét vuông, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số M 329724, số vào sổ 00229/QSDĐ/0709-LA cấp
ngày 16/12/1998. Sau đó ông Thành làm cổng rào không cho gia đình ông
Tú sử dụng. Ông Tú yêu cầu ông Thành phải khôi phục lối đi ngang hướng
đông 5,6m, ngang hướng tây 7m, chiều dài 38m và hủy một phần giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Thành.
- Bị đơn ông Nguyễn Tiến Thành do bà Hoàng Ngọc Hà đại diện trình bày:
Nguồn gốc thửa đất số 95 ông Thành đứng tên quyền sử dụng đất là của ông
bà để lại, ông Thành sử dụng từ năm 1976. Vào năm 1998, ông Thành được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do ông Tú phân lô chia đất cho các
con tại thửa 94 nên có nhiều người đi lại trên thửa đất 95 của ông Thành.
Ông không đồng ý nên đã làm cổng rào chắn. Phía ông Tú yêu cầu gỡ cổng
xác định lối đi, hủy giấy của ông Thành. Theo giấy chứng nhận ông Thành
được cấp không thể hiện có bờ kênh.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Vương Thị Kim Liên, Vương
Thị Kim Vy, Vương Thị Ngọc Hạnh, Vương Thị Ngọc Danh, Vương Thị Mỹ
Hòa do ông Lò Văn Đức đại diện trình bày: Các bà là con ruột của ông Tú.
Các bà được ông Tú chia đất vào năm 2007 tại thửa đất số 94. Trước đây có
lối đi vào, ra là bờ kênh lâu đời. Đến năm 2012 gia đình ông Thành và bà Hà
xây cổng không cho các bà vào thửa đất 94. Các bà thống nhất yêu cầu ông
Thành và bà Hà tháo dỡ cổng, khôi phục hiện trạng ban đầu lối đi và yêu cầu
hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Thành.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Long An có ý kiến tại văn bản số 2653/UBNDNCTCD ngày 15/8/2014 như sau:
Thửa đất số 95, tờ bản đồ số 11, diện tích theo bản đồ địa chính hiện nay là


×