Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài tập học kỳ môn luật tài chính (9 điểm) Đề 13: “Phân tích những đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân? Tại sao pháp luật thuế thu nhập cá nhân...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.76 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho nhà
nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Thuế là nguồn thu vào ngân sách nhà nước, vừa để
xây dựng và duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, vừa là công cụ để Nhà nước điều tiết
kinh tế - xã hội. hệ thống thuế của một quốc gia thường do nhiều loại thuế hợp thành, mỗi loại
thuế đều có đặc điểm và chức năng riêng. Thuế thu nhập là tên gọi để chỉ những sắc thuế lấy
thu nhập làm đối tượng tính thuế. Trong hệ thống thuế ở các nước, thuế thu nhập là một loại
thuế quan trọng được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trong
đó có Việt Nam. Thuế thu nhập ở Việt Nam được phân thành hai loại là thuế thu nhập doanh
nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Xét dưới góc độ kinh tế, thuế thu nhập cá nhân thay đổi
không ảnh hưởng sâu sắc tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Nhưng cũng có thể thấy được rằng
thuế thu nhập cá nhân là loại thuế phức tạp, có diện đánh thuế rộng, khi tính toán phải xét tới
gia cảnh của người nộp thuế và các chính sách xã hội có liên quan.
Để tìm hiểu kỹ hơn về thuế thu nhập cá nhân, em xin lựa chọn đề bài: Đề 15: “Phân
tích những đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân? Tại sao pháp luật thuế
thu nhập cá nhân lại phân biệt việc đánh thuế giữa thu nhập từ kinh
doanh, từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế?
Tìm hiểu những “thủ đoạn” chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế thu
nhập cá nhân hiện nay và cho một ví dụ từ thực tế để minh họa.” để làm
bài tập học kỳ của mình


NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thuế và thuế thu nhập
1. Khái quát chung về thuế
1.1. Khái niệm
Thuế vừa là một phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù kinh tế, vừa là
phạm trù lịch sử.1 Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời
là một tất yếu khách quan, găn với sự hình thành và phát triển của nhà
nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với việc thực hiện các chức năng của
mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực hiện những chi tiêu có tính


chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước thu một bộ phận của cải xã
hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ thu, nộp những nguồn vật chất
này chính là thuế.2
Như vậy, thuế là hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại cùng với các
hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Sự xuất hiện, phát triển của thuế gắn với
mỗi giai đoạn, lợi ích mà nhà nước sử dụng nó làm công cụ điều tiết nguồn
thu của nền kinh tế xã hội ấy.
Dưới góc độ kinh tế, các nhà nghiên cứu cho rằng “Thuế là một hình
thức phân phối thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng
của mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm
thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại”.3
Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh
của luật pháp, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định “Thuế là
một trật tự đã được thiết lập hoàn bình giữa chính phủ với cộng đồng trong
sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu, nộp vào ngân sách. Thuế không có
bất kì sự phân biệt đối xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ”.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về thuế như vậy nhưng chúng ta đều
có thể nhận thấy nét chung sau: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt
buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những
điều kiện nhất định.
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra
khái niệm riêng phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình về thuế. Tuy
vậy, thuế bao giờ cũng mang những đặc tính nhất định:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách.
Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực.
Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp.4
1.2. Phân loại
Với phạm vi tác động rộng rãi lên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội, hệ thống thuế của các quốc gia được xây dựng linh hoạt với chức năng
và đối tượng chịu tác động riêng biệt.5 Trong thực tiễn, có nhiều cách để

phân loại thuế tùy thuộc vào các căn cứ, tiêu chí khác nhau.
1 Xem: Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Hà Nội, tr. 669.
2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 7.
3 Xem: Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Đại từ điển kinh tế thị trường, H. 1998, tr. 669.
4 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
9 - 14.
5 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hồ Thị Hải (2014), Một số vấn đề pháp lý
về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội,
tr. 6.


Nếu căn cứ vào mối quan hệ giữa cơ quan thuế với người chịu thuế,
thuế có hai loại cơ bản là thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế trực thu bao gồm các loại thuế như thuế thu nhập, thuế đánh
vào của cải, thuế đánh vào đối tượng thường trú. Chúng được gọi là thuế
trực thu vì người có nghĩa vụ nộp thuế thường là người gánh chịu thuế. Nói
cách khác, người nộp thuế không thể chuyển nghĩa vụ thuế sang cho các
đối tượng khác
- Thuế gián thu bao gồm các loại thuế như thuế xuất nhập khẩu, thuế
gắn với sản xuất và bán hàng hóa. Gọi chúng là thuế gián thu vì người
gánh chịu thuế là khách hàng nhưng người nộp thuế lại là người bán hàng,
nhà nhập khẩu. Nói khác đi, đã có sự chuyển nghĩa vụ thuế từ khách hàng
sang người kinh doanh.
Nếu căn cứ vào đối tượng tính thuế, có thuế đánh vào tài sản, thuế
đánh vào thu nhập và thuế tiêu dùng.
- Thuế tài sản là thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải đánh
vào phần thu nhập phát sinh từ tài sản đó. Các loại thuế như thuế nhà đất,
thuế vốn, thuế chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng vốn là loại thuế tài
sản. Các quốc gia có thể dựa vào đối tượng tài sản để tách hoặc gộp thuế
phù hợp với điều kiện cụ thể.

- Thuế đánh vào thu nhập chỉ thực hiện đối với những đối tượng có giá
trị thặng dư phát sinh từ tài sản của họ. Các loại thuế như thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân có đối tượng tính thuế là những
phần thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng tài sản của mình hay do
kết quả của lao động.
- Thuế tiêu dùng, phần lớn là các loại thuế gián thu như thuế giá trị
gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Đặc điểm của các loại thuế trong nhóm
này đối tượng tính thuế chính là phần thu nhập của người chịu thuế được
mang tiêu dùng vào thời điểm chịu thuế.
Nếu căn cứ vào đối tượng nộp thuế, thuế bao gồm thuế đánh vào các
chủ thể có yếu tố nước ngoài, thuế đối với các tổ chức và cá nhân trong
nước.
Ngoài ra còn có rất nhiều tiêu chí và nội dung phân loại thuế khác, tùy
theo mục đích của người nghiên cứu đánh giá.6
2. Khái niệm chung về thuế thu nhập
Thuế thu nhập là tên gọi để chỉ những sắc thuế lấy thu nhập làm đối
tượng tính thuế. Trong hệ thống thuế ở các nước, thuế thu nhập là một loại
thuế quan trọng được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. Sự ra đời của thuế thu nhập bắt nguồn từ các lý do chính
sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng tái phân phối thu
nhập đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ hai, sự ra đời của thuế thu nhập còn bắt nguồn từ nhu cầu tài
chính của Nhà nước.

6 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
14 – 17.


Thứ ba, thuế thu nhập là công cụ để Nhà nước quản lý và điều tiết các

hoạt động kinh tế - xã hội.
Do tác động trực tiếp vào thu nhập nên về bản chất, thuế thu nhập là
loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của các tổ chức kinh doanh và các
cá nhân có thu nhập phát sinh từng lần hoặc trong một khoảng thời gian
xác định từ một số nguồn nhất định.
Thuế thu nhập phân biệt với cá loại thuế khác ở một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập.
Thứ hai, thuế thu nhập là thuế trực thu, ngoài mục tiêu tạo nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hòa thu
nhập xã hội nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của nhà
nước.
Thứ ba, thuế thu nhập là một loại thuế phức tạp có tính ổn định không
cao, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý thuế
thường lớn hơn so với các loại thuế khác.
Thứ tư, nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập bao gồm các
văn bản pháp luật quốc gia và cả luật quốc tế.
Trong hệ thống luật thực định về thuế ở các nước, thuế thu nhập được
phân chia thành hai loại là thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá
nhân. Việc phân chia thuế thu nhập thành hai loại thuế nêu trên là căn cứ
vào đối tượng nộp thuế thu nhập. Ở Việt Nam, thuế thu nhập cũng được
phân chia thành hai loại là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập
cá nhân. Cách phân chia thuế thu nhập của Việt Nam hiện nay cơ bản
giống các nước khác dựa trên tiêu chí đối tượng nộp thuế thu nhập để
phân chia.7
II. Thuế thu nhập cá nhân
1. Khái niệm
Thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế đã được áp dụng từ lâu ở các nước
phát triển, đối tượng nộp thuế này là mọi cư dân trong nước và người nước
ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và
địa vị xã hội. Bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế vận động theo cơ chế

thị trường đều coi thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế có tầm quan
trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công
bằng xã hội. Sự ra đời của thuế thu nhập cá nhân bắt nguồn từ các lý do
sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng tái phân phối thu
nhập đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ hai, sự ra đời của thuế thu nhập cá nhân còn bắt nguồn từ nhu
cầu tài chính của nhà nước.
Thứ ba, thuế thu nhập cá nhân còn là công cụ để Nhà nước quản lý và
điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.8
Ở Việt Nam, thuế thu nhập cá nhân dần được hoàn thiện theo thời
gian. Từ năm 1991 đến trước năm 2009, để phù hợp hơn với tình hình kinh
7 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.
205 – 212.
8 Xem: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hồ Thị Hải (2014), Một số vấn đề
pháp lý về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học,
Hà Nội, tr. 6 - 7.


tế, thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam được quy định dưới hình thức thuế
thu nhập với người có thu nhập cao. Từ 01/01/2009, Luật thuế thu nhập cá
nhân chính thức có hiệu lực, đánh dấu bước phát triển quan trọng của sắc
thuế này. Theo đó, khái niệm thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam cũng dần
được bổ sung đầy đủ hơn.9
Hiện nay, pháp luật chưa đưa ra định nghĩa chính xác về thuế thu
nhập cá nhân, nhưng nhìn chung, việc phân định thuế thu nhập cá nhân và
thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên cơ sở chủ thể nộp thuế là cá nhân
hay tổ chức có thu nhập chịu thuế. Theo đó, thuế thu nhập cá nhân là loại
thuế trực thu đánh vào thu nhập thực nhận của các cá nhân trong một
năm, từng tháng hoặc từng lần.

Như vậy, có thể rút ra định nghĩa về thuế thu nhập cá nhân như sau:
Thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế mà nhà nước sử dụng để điều tiết
một phần thu nhập của các cá nhân vào ngân sách Nhà nước với mục đích
tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và thực hiện công bằng xã hội.
Thuế thu nhập cá nhân trên thế giới thông thường đánh vào cả cá
nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh. Thuế này được coi là loại
thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải
nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ
đặc biệt.
Một điểm đặc biệt nữa của thuế thu nhập cá nhân đó là hầu hết các
quốc gia trên thế giới hiện nay khi áp dụng thuế thu nhập cá nhân đều
thực hiện trên cơ sở kết hợp hai quyền thu thuế của nhà nước, đó là thu
thuế theo yếu tố lãnh thổ và thu thuế theo yếu tố quốc tịch. Theo đó,
những cá nhân là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân không chỉ là chủ
thể có quốc tịch của nhà nước thu thuế mà còn bao gồm cả người nước
ngoài, người không có quốc tịch có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh
thổ quốc gia thu thuế. Đặc điểm này đã phát sinh tình trạng đánh thuế hai
lần thường gặp khi thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập nói chung và thuế thu
nhập cá nhân nói riêng. Đánh thuế trùng ở thuế thu nhập cá nhân xảy ra
khi một cá nhân với một khoản thu nhập chịu thuế có thể vừa phải nộp
thuế thu nhập cá nhân cho quốc gia mà cá nhân đó mang quốc tịch, vừa
phải nộp thuế thu nhập cá nhân cho quốc gia mà thu nhập đó phát sinh.
Để hạn chế tình trạng này, các quốc gia trên thế giới thường lựa chọn giải
pháp ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần hoặc quy định khấu trừ
nghĩa vụ thuế đã thực hiện ở quốc gia khác trong luật thuế thu nhập cá
nhân.10
2. Đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân 11
9 Bộ Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, La Thị Tuyết Anh (2011), Thực
tiễn thi hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học,
Hà Nội, tr. 7 – 8.

10 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hồ Thị Hải (2014), Một số vấn đề pháp
lý về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà
Nội, tr. 8.
11 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 214 và Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hồ Thị Hải (2014), Một số vấn đề
pháp lý về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học,
Hà Nội, tr. 8 - 11.


Thuế thu nhập cá nhân có các đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu
Thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu bởi cá nhân có thu nhập chịu
thuế là người nộp thuế, việc nộp thuế được tiến hành từ việc khấu trừ trực
tiếp từ thu nhập của cá nhân đó mà không thông qua hành vi tiêu dùng
hoặc chủ thể trung gian khác.
Do thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu
nhập thực nhận của các cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần
nên có diện đánh thuế rộng là tất cả các cá nhân có thu nhập chịu thuế.
Thuế thu nhập cá nhân có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện, khả năng
đóng góp của người nộp thuế và gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc
gia nên nó rất có tác dụng trong việc điều hòa thu nhập, góp phần giảm
bớt sự chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lớp dân cư. Tuy
nhiên, thuế trực thu lại có hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía nguời
nộp thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế
suất cao. Hơn nữa, việc theo dõi, tính toàn và thu thuế phức tạp đặc biệt là
thuế thu nhập cá nhân với diện thu thuế rộng và phân tán. Vì vậy, nếu
không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn đến hạn chế tác
dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ, kịp thời về cho
ngân sách nhà nước.
Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân có đối tượng chịu thuế là thu nhập

của cá nhân
Trong quá trình lao động, con người tạo ra thu nhập dưới nhiều hình
thức khác nhau tùy thuộc vào tiêu chí phân loại. Mục đích của việc phân
loại thu nhập là cơ sở cho việc phân định đối tượng chịu thuế của các sắc
thuế khác nhau cũng như đặt ra cơ chế hành thu hiệu quả.
Khái niệm “thu nhập” hiện nay chưa được định nghĩa một cách chính
thức và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Thông thường các nhà nghiên
cứu kinh tế, pháp lí không đưa định nghĩa tổng quát mà họ thường chỉ liệt
kê các khoản được gọi là thu nhập của các tổ chức, cá nhân.
Trong nền kinh tế thị trường, các khoản thu nhập của tổ chức, cá nhân
rất đa dạng. Nếu căn cứ vào hoạt động hoặc giao dịch làm phát sinh thu
nhập thì thu nhập sẽ gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ; thu nhập từ lao động; thu nhập từ tài sản, tiền vốn; thu nhập từ
thừa kế, biếu, tặng, cho; thu nhập từ bản quyền, nhuận bút; thu nhập từ
chuyển giao công nghệ, sáng kiến cải tiến kĩ thuật, nhãn hiệu hàng hoá;
thu nhập do được bồi thường; thu nhập do trúng xổ số, khuyến mại; thu
nhập do xã hội dành cho như: học bổng, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho
các đối tượng chính sách, ưu đãi xã hội và các khoản thu nhập khác.
Nếu căn cứ vào tiêu chí khác nhau của thu nhập thì thu nhập được
phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên;
thu nhập hợp pháp và thu nhập bất hợp pháp; thu nhập thực tế đã phát
sinh và thu nhập tiềm năng; thu nhập có tính phổ biến và thu nhập không
có tính phổ biến; thu nhập mà Nhà nước kiểm soát được và thu nhập mà
Nhà nước chưa kiểm soát được; thu nhập của tổ chức và thu nhập cá thu


nhập trong nước (thu nhập phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia) và
thu nhập ở nước ngoài (thu nhập ngoài phạm vi lãnh thổ)…12
Các loại thu nhập kể trên không phải thu nhập nào cũng là thu nhập
chịu thuế mà chỉ có một số khoản thu nhập đáp ứng những điều kiện nhất

định mới là thu nhập chịu thuế.
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói riêng và thuế thu nhập nói chung
ở các quốc gia đều quy định các khoản thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho
việc đánh thuế. Thông thường thu nhập chịu thuế phải là những khoản thu
nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh, có tính phổ biến và Nhà nước có thể
kiểm soát được. Có như vậy, pháp luật thuế thu nhập mới đảm bảo tính
khả thi, tính công bằng và đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà
nước.
Thứ ba, việc đánh thuế thu nhập cá nhân thường áp dụng theo
nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng phần.
Thuế suất luỹ tiến được hiểu là việc áp đụng các thuế suất tăng dần
đối với các nhóm đối tượng chịu thuế hoặc toàn bộ đối tượng chịu thuế.
Theo đó, hiện nay thuế thu nhập cá nhân chủ yếu áp dụng thuế suất lũy
tiến đối với thu nhập từ tiền công, tiền lương và thu nhập từ kinh doanh.
Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá nhân là
điều tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã
hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được
nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất
càng cao.
Thứ tư, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế có tính ổn định không cao
và phức tạp.
Đặc điểm này của thuế thu nhập cá nhân thể hiện ở chỗ các quy định
về thu nhập chịu thuế, thu nhập không chịu thuế thường xuyên thay đổi
theo từng biến động của nền kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Ngoài ra,
các quy định như giảm trừ gia cảnh, về mức thuế suất cũng có sự thay đổi
linh hoạt do thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập của cá nhân nên có tác
động rất lớn đến mức sống của dân cư và chịu ảnh hưởng bởi giá cả trên
thị trường.
Việc quản lý thuế thu nhập cá nhân tương đối khó khăn, chi phí quản
lý thuế thường lớn hơn so với các loại thuế khác bởi ngoài việc xác định

các khoản thu nhập chịu thuế còn phải xác định nguồn gốc thu nhập, thời
hạn cư trú của chủ sở hữu, tính ổn định của thu nhập. Trong phần xác định
thu nhập chịu thuế, phải xác định được các khoản khấu trừ hợp lý để tiến
hành khấu trừ khi tính thuế nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng và khuyến
khích đối với đối tượng nộp thuế.
Thứ năm, nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập cá nhân bao
gồm các văn bản pháp luật quốc gia và cả luật quốc tế.
Đây là đặc trưng của luật thuế thu nhập nói chung và thuế thu nhập
cá nhân nói riêng. Hầu hết thuế thu nhập cá nhân của các quốc gia trên
thế giới không chỉ áp dụng đối với công dân của mình mà còn áp dụng đối
với người nước ngoài có thu nhập chịu thuế phát sinh trên lãnh thổ quốc
12 Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 209.


gia đó. Để tránh tình trạng đánh thuế hai lần được ký kết giữa các quốc gia
cũng là nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập cá nhân.
III. Tại sao pháp luật thuế thu nhập cá nhân lại phân biệt việc
đánh thuế giữa thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công
với các khoản thu nhập khác chịu thuế?
Thuế đối với cá nhân kinh doanh được quy định tại Điều 10, thu nhập
chịu thuế từ tiền lương tiền công quy định tại Điều 11 và thuế đánh vào
các khoản thu nhập khác chịu thuế được quy định từ Điều 12 đến Điều 18
của Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm
2007 của Quốc Hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, được
sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012
của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá
nhân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 và Luật số
71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung
một số điều của các luật về thuế, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2015.

Trước đây theo quy định tại Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao, thu nhập chịu thuế được chia thành thu nhập thường xuyên
và thu nhập không thường xuyên nhưng không đưa ra khái niệm về từng
loại thu nhập gây khó khăn cho việc xác định thuế.
Do thu nhập của cá nhân được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
vè tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nên việc xác định thu nhập chịu
thuế để đảm bảo được tính công bằng, bình đẳng mà vẫn khuyến khích
được người dân lao động, sản xuất tạo thu nhập là việc là cần thiết khi xây
dựng các quy định về thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân. Luật thuế thu
nhập cá nhân hiện hành đã liệt kê hầu hết các loại thu nhập có thể phát
sinh và áp dụng thống nhất điều chỉnh các loại thu nhập của cá nhân trong
một văn bản tránh tình trạng khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Theo
đó hiện nay có 10 loại thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân được quy định
tại Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 bao gồm: Thu nhập từ hoạt
động sản xuất, kinh doanh; Thu nhập từ tiền lương, tiền công; Thu nhập từ
đầu tư vốn; Thu nhập từ chuyển nhượng vốn; Thu nhập từ chuyển nhượng
bất động sản; Thu nhập từ trúng thưởng bằng tiền hoặc hiện vật; Thu nhập
từ bản quyền; Thu nhập từ nhượng quyền thương mại; Thu nhập từ thừa kế
là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất
động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng và
Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở
hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Hiện nay luật thuế thu nhập cá nhân quy định về áp dụng thuế suất
theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công thì
việc áp dụng biểu thuế suất lũy tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập
còn lại thì áp dụng biểu thuế lũy tiến toàn phần. Cụ thể nếu như thuế thu
nhập cá nhân đánh vào thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ tiền lương,
tiền công có thu nhập tính thuế là phần thu nhập chịu thuế sau khi đã trừ
đi các khoản giảm trừ (giảm trừ gia cảnh, giảm trừ đối với các khoản đóng



góp từ thiện, nhân đạo,…) và áp dụng Biểu thuế lũy tiến từng phần (quy
định tại Điều 22 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007) thì với thuế thu nhập cá
nhân đánh vào các khoản thu nhập khác có thu nhập tính thuế đồng thời
cũng là thu nhập chịu thuế và áp dụng Biểu thuế toàn phần (quy định cụ
thể tại Điều 23 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007). Ngoài ra, cá nhân phát
sinh thu nhập khi thực hiện nghĩa vụ thuế không được hưởng các quy định
về giảm trừ gia cảnh; các khoản giảm trừ khi đóng góp bảo hiểm, từ thiện,
nhân đạo,… bởi tính chất của các khoản thu nhập khác là không thường
xuyên.
Có thể thấy rằng, nếu như thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền
công là những khoản thu nhập mang tính chất thường xuyên và tương đối
ổn định trong năm tính thuế thì các thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân
còn lại thường mang tính phát sinh từng lần và không phổ biến. Chính vì
vậy, việc xác định thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập này
dựa trên những căn cứ tính thuế khác biệt với thu nhập từ kinh doanh và
thu nhập từ tiền lương, tiền công. 13
Hơn nữa, theo quy định của pháp luật hiện hành thì thuế thu nhập cá
nhân là loại thuế trực thu, thu vào một số khoản thu nhập cao chính đáng
của cá nhân, do đó phân biệt việc đánh thuế giữa thu nhập từ kinh doanh,
từ tiền lương, tiền công với các khoản thu nhập khác chịu thuế là để nhằm
thực hiện việc điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thực
hiện công bằng xã hội về thu nhập và góp phần tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước.14
IV. Thực tiễn thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân và tìm hiểu
những “thủ đoạn” chủ yếu để một cá nhân gian lận thuế thu nhập
cá nhân hiện nay
1. Thực tiễn thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân 15
Ngày 21 tháng 11 năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật thuế thu

nhập cá nhân, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2009. Qua 3 năm thực hiện (2009 – 2011), Luật thuế thu nhập cá nhân về
cơ bản đã đạt được những mục tiêu đề ra khi ban hành Luật
Thứ nhất, đã bao quát và mở rộng được đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, theo
đó, số người nộp thuế đã tăng lên qua các năm, các loại thu nhập mới phát sinh trong nền kinh
tế đã dần bao quát được.
Thứ hai, đảm bảo động viên hợp lí thu nhập của dân cư, góp phần đảm bảo công bằng
xã hội: Thống nhất các quy định về thuế áp dụng đối với cá nhân có thu nhập, không phân
biệt cá nhân người nước ngoài với ngưòi Việt Nam.
Thứ ba, góp phần đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, số thu thuế thu nhập cá nhân
có sự tăng trưởng nhanh, số thu năm 2009 đạt 3,4% tổng số thu ngân sách nhà nước, năm
13 Xem: Bộ Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tạ Minh Hảo (2013),
Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà
Nội, tr. 40.
14 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 259.
15 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 257 – 259 và Tạp chí nghiên cứu khoa học kiểm toán, Một số ý kiến về Luật thuế thu nhập cá nhân, Trang
thông tin Kiểm toán Nhà nước />

2010 đạt 4,7% tổng thu ngân sách nhà nước, năm 2011 số thu đạt 5,5% tổng thu ngân sách
nhà nước.
Thứ tư, từng bước góp phần thực hiện kiểm soát thu nhập của dân cư. Tính đến hết năm
2011, ngành thuế đã hoàn thành việc cấp mã số thuế cho 15.894.719 cá nhân. Thông qua cá
nhân, cơ quan chi trả được cập mã số thuế, ngành thuế nắm được số người nộp thuế, số người
chưa phải nộp thuế đối với thu nhập từ tiền lương tiền công và từ thu nhập khác, số thuế thu
được từ các loại thu nhập của cá nhân theo phương thức khấu trừ tại nguồn và theo phương
thức kê khai, nộp thuế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, do sự biến động của nền kinh tế
nên một số quy định trong Luật thuế thu nhập cá nhân đã bộc lộ một số

tồn tại, hạn chế, không còn phù hợp với thực tiễn, cụ thể:
- Mức giảm trừ gia cảnh không còn phù hợp. Luật chưa tạo ra được sự
đồng tình của xã hội về ngưỡng khởi điểm tính thuế thu nhập cá nhân và
mức giảm trừ gia cảnh cho các đối tượng phụ thuộc. Trên thực tế, nền kinh
tế của Việt Nam đang trong tình trạng chịu ảnh hưởng của sự suy thoái
kinh tế toàn cầu, tỷ lệ lạm phát hàng năm luôn ở 2 con số, giá cả các mặt
hàng thiết yếu, như: Nhà, điện, nước, xăng dầu ... đều tăng cao. Vì vậy,
luật thuế cần phải xem xét một cách toàn diện để điều chỉnh lại ngưỡng
khởi điểm tính thuế và mức chiết trừ gia cảnh cho phù hợp với tình hình
thực tế, đảm bảo mức sống ổn định cho các đối tượng chịu thuế trước khi
chưa có luật thuế và sau khi phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
- Về phạm vi, đối tượng tính thuế chưa bao quát hết hoặc đã lạc hậu
do phát sinh những nội dung mới theo quy định của pháp luật liên quan.
Tồn tại lớn nhất và cũng khó khăn nhất hiện nay theo tác giả chính là sự
thiếu kiểm soát chặt chẽ mức thu nhập của người dân, nhất là khoản thu
nhập khó kiểm soát, như: Thu nhập của ca sỹ; Thu nhập của các Doanh
nhân; Thu nhập từ kinh doanh chứng khoán, từ kinh doanh bất động sản...
Đây là những khoản thu nhập nằm ngoài khoản tiền công, tiền lương
không có trong sổ sách kế toán của đơn vị, dẫn đến sự bất bình đẳng trong
kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân giữa các đối tượng trong xã hội và
đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến làm giảm nguồn thu từ thuế của
ngân sách quốc gia.
- Một số quy định về kì tính thuế, thủ tục kê khai, quyết toán thuế
chưa phù hợp với thực tiễn, còn phức tạp, chưa tạo thuận lợi cho người nộp
thuế, công tác quản lí thuế cũng như hiện đại hoá quản lí thuế. Luật được
xây dựng chưa xuất phát từ thực tiễn đời sống của người làm công ăn
lương; Chưa tính đến tốc độ lạm phát của đồng tiền trong điều kiện nền
kinh tế của Việt Nam phát triển thiếu tính bền vững và ổn định, chưa có sự
phản biện của xã hội và đặc biệt Luật này có ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.

- Mức thuế suất theo biểu thuế lũy tiến trong luật là chưa hợp lý (Mức
thuế suất thấp nhất là 5% cho các đối tượng chịu thuế có mức thu nhập tới
60.000.000 đ/năm và 35% đối với các đối tượng chịu thuế có mức thu
nhập trên 960.000.000 đ/năm ), với biểu thuế suất như vậy đã gây ra tâm
lý chán nản cho những người làm ăn chính đáng có thu nhập cao và đây


cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chẩy máu chất xám
hoặc khai man thu nhập để trốn thuế.
Vì vậy, để kịp thời khắc phục những bất cập của Luật thuế thu nhập
cá nhân hiện hành, đảm bảo đơn giản hoá chính sách, đáp ứng yêu cầu về
cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hoá công tác quản lí thuế thì việc
sửa đổi Luật là cần thiết nhằm:
- Một là, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập, động viên một
cách hợp lí thu nhập dân cư, góp phần ổn định, nâng cao đời sống của
người nộp thuế, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh
doanh, làm giàu chính đáng.
- Hai là, sửa đổi, bổ sung những nội dung bất cập so với thực tế, bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và có tính ổn định; việc sửa
đổi đảo bảo không làm ảnh hưởng lớn đến số thu ngân sách nhà nước.
- Ba là, bảo đảm đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo
thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính,
hiện đại hoá công tác quản lí thuế.
- Bốn là, góp phần tăng tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực,
các nước có điều kiện tương đồng với nước ta phù hợp với xu thế cải cách
thuế và thông lệ quốc tế.
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm
2007 của Quốc Hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, được
sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012
của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá

nhân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 và Luật số
71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung
một số điều của các luật về thuế, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2015 đã khắc phục được phần nào các hạn chế trên. Tổng cục thuế đã tiến
hành việc kê khai thuế qua mạng và nộp thuế điện tử, giúp cho việc thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế cũng như quản lý thuế được tiến hành nhanh
chóng, thuận tiện và dễ dàng hơn. Đây có thể coi là một bước đột phá
trong thủ tục hành chính về quản lý thuế của Việt Nam.
2. Tìm hiểu những “thủ đoạn” chủ yếu để một cá nhân gian
lận thuế thu nhập cá nhân hiện nay
Thực tiễn thi hành pháp luật về thuế thu nhập cá nhân vẫn còn rất
nhiều hạn chế, cơ chế quản lý thuế chưa chặt chẽ,… dẫn đến tình trạng
các cá nhân trốn thuế, tránh thuế phổ biến như hiện nay. Qua tìm hiểu và
nghiên cứu, tôi xin đưa ra một vài “thủ đoạn” để một cá nhân gian lận thuế
thu nhập cá nhân.
Thứ nhất, thanh toán mọi thứ bằng tiền mặt. Cơ quan quản lý thuế
hiện nay chưa nắm bắt được thông tin của người nộp thuế và cũng không
có cơ chế quản lý phần thu nhập bằng tiền mặt của các cá nhân. Việc
quản lý thuế thu nhập chỉ có thể dễ dàng nếu được ghi nhận trong hóa
đơn, chứng từ hoặc được ghi nhận bởi trung gian như ngân hàng. Tuy
nhiên, cơ chế thanh toán tiền mặt hiện nay vẫn vô cùng phổ biến. Việc
thanh toán bằng tiền mặt khiến cơ quan thuế không thể xác định được thời
điểm thu nhập phát sinh cũng như giá trị phần thu nhập phát sinh. Phần


thu nhập này chỉ có thể được biết đến nếu được ghi trong hóa đơn, chứng
từ hoặc do cá nhân tự kê khai khiến cơ quan thuế vô cùng khó khăn trong
việc xác định thu nhập thực nhận của cá nhân.
Ví dụ: Hiện nay, lương của cán bộ, công chức đã được thanh toán qua
tài khoản ngân hàng, điều này giúp cho cơ quan thuế dễ dàng biết được

thu nhập của cán bộ, công chức đó. Tuy nhiên, những khoản phụ cấp, tiền
thưởng, tiền bồi dưỡng cán bộ,… lại thường được thanh toán trực tiếp bằng
tiền mặt khiến cho việc quản lý phần thu nhập này là vô cùng khó khăn,
hay nói chính xác hơn là hiện nay chưa thể quản lý được phần thu nhập
này. Như vậy, các cán bộ, công chức này đã “trốn” được một phần thuế thu
nhập cá nhân.
Hay lương của nhân viên các công ty, doanh nghiệp cũng thường được
trả bằng tiền mặt. Khi ký hợp đồng lao động với doanh nghiệp, cá nhân
thường sẽ chỉ thỏa thuận về phần lương thực nhận của bản thân và
phương thức nhận lương thường là tiền mặt. Như vậy bài toán về thuế lại
bị đẩy ngược lại cho doanh nghiệp, người lao động đã “tránh” được phần
thuế thu nhập cá nhân.
Thứ hai, làm tăng thêm những khoản giảm trừ.
Luật thuế thu nhập cá nhân có quy định về các khoản giảm trừ gia
cảnh và giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo. Hơn nữa
cũng vẫn bởi nguyên nhân là cơ quan thuế không nắm được thông tin của
người nộp thuế, cơ chế tự kê khai tự nộp thuế khiến các thông tin về thu
nhập của cá nhân không chính xác mà cá nhân lại có thể dễ dàng xin xác
nhận về người phụ thuộc tại Uỷ ban nhân dân để được giảm trừ gia cảnh,
hoặc đơn giản hơn là tham gia vào các hoạt động từ thiện, hoạt động nhân
đạo, xin giấy xác nhận để được giảm trừ khi nộp thuế. Đây có lẽ là một
cách phổ biến được những người có thu nhập cao như chủ các doanh
nghiệp, người nổi tiếng,… áp dụng để giảm bớt khoản thuế thu nhập cá
nhân phải nộp.
Thứ ba, “mượn” mã số thuế của người khác để phân tán thu nhập của
mình.
Đây là một “thủ đoạn” gian lận thuế vô cùng phổ biến hiện nay, ví dụ
điển hình là một vụ việc đã được đăng trên báo điện tử vnexpress như sau:
“Muôn kiểu lách thuế thu nhập cá nhân
Người lương cao né nghĩa vụ nộp thuế bằng cách gửi lương cho đồng nghiệp thu nhập

thấp. Trong khi đó, một số cá nhân trộm mã số thuế của người khác để phân tán khoản thu của
mình.
Chị Hoa đang công tác trong lĩnh vực xây dựng tại Hà Nội . Kể từ khi ngành này khó
khăn, lương của chị chỉ còn 2 triệu đồng mỗi tháng. Chị đang nuôi một con nhỏ, vì vậy thu
nhập trên 5,6 triệu đồng một tháng chị mới phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Biết được tình
trạng của chị, một đồng nghiệp trong công ty có thu nhập lên tới 50 triệu đồng một tháng do
nhận được hợp đồng làm thêm ngoài đã mang lương đến "gửi" chị để tránh phải nộp thuế ở
bậc cao.
"Nếu họ không đem gửi lương thì sẽ phải mất tới chục triệu tiền thuế, còn khi gửi lương
cho nhiều người thì thu nhập sẽ bị phân tán bớt, chỉ phải nộp thuế ở bậc thấp hơn. Nhiều


người khác trong công ty cũng đang được anh này gửi gắm khoản thu nhập kếch xù hằng
tháng", chị Hoa cho hay.
Sắp tới đây, khi thu nhập từ 12,6 triệu đồng trở lên mới bắt đầu phải nộp thuế, chị dự
đoán sẽ có thêm nhiều đồng nghiệp gửi lương hàng tháng cho mình.
Bên cạnh trường hợp tự nguyện cho người khác dùng tên mình để lách thuế, cũng có
những cá nhân bị trộm mã số thuế để kê khai, khấu trừ thuế mà không biết.
Chị Vân nhà ở Gia Lâm chia sẻ, khi học đại học do tin bạn chị đã cho mượn chứng
minh thư, đến khi đi làm công ty yêu cầu làm mã số thuế để trả lương chị mới tá hỏa khi phát
hiện người bạn này đã lấy chứng minh thư của mình để đăng ký mã số thuế kê khai vào bảng
lương doanh nghiệp do anh này làm chủ. "Khi đó, tôi rất lo là bỗng dưng mình phải nộp thuế
ở cả 2 nơi", chị Vân bức xúc.
Theo ông Nguyễn Văn Phụng - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế (Bộ Tài chính),
thực tế có không ít trường hợp cá nhân đi đăng ký mã số thuế thu nhập mới phát hiện ra tên
mình được kê khai đóng thuế ở tận Sơn La, Lai Châu. Mục đích của việc mượn danh, ăn cắp
mã số thuế chính là để trốn thuế hoặc giảm số thuế thu nhập phải nộp, ông nhận định.
Ngoài ra, hiện có tình trạng kê khai chồng chéo người phụ thuộc để được tăng mức
giảm trừ nhằm tránh nộp thuế. Ví dụ, nếu gia đình có vợ chồng làm ở hai địa bàn khác nhau
sẽ có thể "ăn gian" khi cả vợ và chồng đều khai chung bố, mẹ hoặc con cái là người phụ

thuộc.
Trao đổi với VnExpress.net, bà Tạ Thị Phương Lan - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Thuế
(Tổng cục Thuế) cho biết, việc quản lý mã số thuế dựa trên cơ chế quản lý qua ứng dụng công
nghệ thông tin của ngành thuế.
"Từ tháng 10/2012, hệ thống này đã được triển khai trên toàn quốc, tức cơ quan thuế
có thể nắm được thu nhập của một mã số thuế trên toàn quốc. Do vậy, trường hợp một cá
nhân mượn trộm mã số thuế để khai thuế ở đâu đó, khi tổng hợp nếu thu nhập đến ngưỡng
phải nộp thêm thuế thì cơ quan quản lý sẽ yêu cầu người đó đến quyết toán phần nộp thêm, từ
đó phát hiện ra mã số thuế được sử dụng tại đâu, do đơn vị chi trả thu nhập nào kê khai. Lúc
này sẽ nảy sinh câu hỏi lý do gì mà đơn vị lại sử dụng mã số thuế đó để kê khai thuế, khấu trừ
thuế", bà Lan nói.
Vị này thông tin thêm, năm vừa qua ngành Thuế cũng phát hiện một số trường
hợp chính đơn vị chi trả thu nhập lợi dụng mã số thuế của người khác để khai khống chi
phí. Đơn vị đó sẽ bị truy thu thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan
đến phần khai dối.
"Trên thực tế, sẽ không có cá nhân nào lại đi lấy mã số thuế của người khác để khai cho bản
thân. Ví dụ như đi ký hợp đồng, tên mình ở hợp đồng thì không thể lấy mã số thuế của người
khác, trong trường hợp này chỉ có thể là tổ chức chi trả lợi dụng", lãnh đạo Tổng cục Thuế
khẳng định.
Tuy nhiên, bà cũng khuyến cáo các cá nhân nên có ý thức bảo vệ mã số thuế cá nhân đề
phòng người khác lợi dụng. Hiện nay, chỉ cần vào trang tncnonline.com.vn, gõ số chứng minh
thư hoặc hộ chiếu của bất kỳ ai cũng có thể biết được mã số thuế của người đó. Như vậy, nếu
chẳng may bị rơi giấy tờ thì thông tin mã số thuế sẽ dễ dàng bị người khác biết được.
Với trường hợp các cá nhân cùng kê khai một người phụ thuộc, bà Lan cho biết từ
1/7/2013 khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực,
cơ quan thuế sẽ tự động cấp mã số thuế cho người phụ thuộc. Khi đó, nếu cá nhân khác lại sử
dụng người phụ thuộc đó thì hệ thống sẽ nắm được và từ chối. Còn những vụ việc gửi lương
như chị Hoa phản ánh, bà Lan nhận định rủi ro phần nhiều sẽ thuộc về người nộp thuế, tức
người nhận gửi lương bởi họ không chịu thuế mà lại nhận hộ cho người khác. "Lúc này, thu



nhập của họ chưa đến mức nộp thuế nhưng có thể cộng với nguồn thu nhập ở đâu đó bị đến
ngưỡng, cơ quan thuế sẽ báo rằng phải nộp thuế thêm và cá nhân không thể cãi được vì cho
người khác gửi", lãnh đạo Tổng cục Thuế cảnh báo.”16
Tương tự ví dụ trên, thực tế có rất nhiều trường hợp lấy tên, mã số thuế của những
người thân không có thu nhập (người phụ thuộc) để chia bớt phần thu nhập của cá nhân nhằm
“trốn” hoặc giảm thuế, bởi lẽ trong Điều 19 Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành quy định
mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 9 triệu đồng/ tháng trong khi mức giảm trừ
cho mỗi người phụ thuộc chỉ có 3,6 triệu đồng/ tháng. Do đó, việc chia thu nhập sang cho
những người khác sẽ giúp cho người nộp thuế bớt đi gánh nặng về thuế thu nhập cá nhân.
Thứ tư, với cá nhân là chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể không trả
lương cho các cổ đông cá nhân tham gia hoạt động quản lý doanh nghiệp
(thuế suất tối đa đối với tiền lương, tiền công chịu thuế thu nhập cá nhân ở
mức 35%) để cổ đông nhận được cổ tức cao hơn (doanh nghiệp chỉ đóng
thuế thu nhập doanh nghiệp 25% trên thu nhập trước thuế và cổ đông cá
nhân đóng 5% thuế thu nhập cá nhân trên cổ tức nhận được).
Ngoài những “thủ đoạn” nêu trên, vẫn còn có rất nhiều thủ đoạn khác để một cá nhân có
thể gian lận thuế thu nhập cá nhân mà nguyên nhân chủ yếu giúp cá nhân có thể “lách luật” lại
nằm ở chính các cơ quan có thẩm quyền: cơ quan quản lý thuế không nắm bắt được thông tin
của người nộp thuế.
3. Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng gian lận
thuế thu nhập cá nhân
Có ba nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng cá nhân có thể gian lận
thuế thu nhập cá nhân:
Thứ nhất, nguyên nhân từ phía cơ quan quản lý thuế: không nắm bắt
được thông tin về người nộp thuế. Để loại bỏ được nguyên nhân này thì
cần có sự phối hợp giữa các cơ quan chính quyền địa phương và cơ quan
thuế. Nên số hóa các dữ liệu về cá nhân để vừa tiện quản lý cư trú, vừa
tiện quản lý về thuế. Ngoài ra cơ quan thuế cần phải tăng cường kiểm tra,
kiểm soát để giảm đến mức tối đa những trường hợp “trốn” thuế, “tránh”

thuế, có chế tài xử phạt đối với các đối tượng khai man, giấu thông tin
nhằm gian lận thuế. Giải pháp này về lâu dài còn có thể xóa bỏ được cơ
chế tự khai tự nộp hiện hành, xóa bỏ hiện tượng không khai hoặc khai
không đúng sự thật của các đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên đây là một giải
pháp lâu dài và cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng.
Thứ hai, do cơ chế thanh toán tiền mặt. Thanh toán bằng tiền mặt
khiến việc quản lý thuế trở nên vô cùng khó khăn vì không phải khoản
thanh toán nào cũng được thể hiện trên hóa đơn, chứng từ. Để hạn chế
tình trạng trên, nên thay đổi thói quen thanh toán tiền mặt, thay vào đó là
thanh toán thông qua ngân hàng, các tổ chức tín dụng để việc quản lý, xác
định thu nhập thực nhận của cá nhân trở nên đơn giản hơn, cũng như
tránh được tình trạng “mượn” tên, mã số thuế của người khác để giảm bớt
thu nhập chịu thuế của mình. Cũng có thể thực hiện kê khai và nộp thuế
thông qua cơ quan chi trả, thu nhận, các tổ chức tín dụng,… các cơ quan
này sẽ có trách nhiệm thu và chuyển số thuế thu được vào kho bạc nhà
16 Huyền Thư (2013), Muôn kiểu lách thuế thu nhập cá nhân, báo điện tử VNExpress,
/>

nước. Như vậy, việc quản lý thuế cũng trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra đối
với các đối tượng có thu nhập không ổn định, khó kiểm soát, có thể thực
hiện hình thức khoán thuế thu nhập cá nhân.
Thứ ba, do ý thức của người nộp thuế. Phải tăng cường công tác tuyên
truyền Luật thuế thu nhập cá nhân trên các phương tiện truyền thông để
mọi người trong xã hội hiểu rõ được ý nghĩa, vai trò của hệ thống thuế nói
chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng đối với sự phát triển của xã hội, từ
đó giúp cho họ có nhận thức đúng đắn và coi nộp thuế là trách nhiệm, là
nghĩa vụ của người dân yêu nước. Các văn bản Luật và nghị định, thông tư
hướng dẫn Luật phải được thể chế hết sức đơn giản, rõ ràng, nhất quán,
giúp cho các tổ chức, các cá nhân hiểu rõ được luật thuế thu nhập cá nhân,
từ đó họ nâng cao ý thức, trách nhiệm của họ đối với xã hội.


KẾT LUẬN
Tóm lại, thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế mà nhà nước sử dụng để
điều tiết một phần thu nhập của các cá nhân vào ngân sách Nhà nước với
mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và thực hiện công bằng
xã hội. Đây là một loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập thực
nhận của cá nhân trong một năm, từng tháng hoặc từng lần. Thuế thu
nhập cá nhân trên thế giới thông thường đánh vào cả cá nhân kinh doanh
và cá nhân không kinh doanh. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có
lưu ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua
việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt. Để góp phần
điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng
xã hội về thu nhập và góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
mà hiện nay luật thuế thu nhập cá nhân quy định về áp dụng thuế suất
theo hai hướng: đối với các khoản thu nhập thường xuyên - thu nhập từ
kinh doanh, tiền lương, tiền công thì việc áp dụng biểu thuế suất lũy tiến
từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế lũy
tiến toàn phần. Thực tiễn thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
cho thấy vẫn còn rất không ít bất cập cần phải được giải quyết. Tình trạng
gian lận thuế thu nhập cá nhân còn phổ biến, cần có các công tác tuyên
truyền xã hội, cũng như cải cách nghiệp vụ chuyên môn để việc chấp hành
Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam được cải thiện, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội.
Trên đây là bài làm của em, với hiểu biết pháp lý còn hạn chế mà thực tiễn khách quan
lại đa dạng phong phú, nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự đánh giá, nhận xét của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007
của Quốc Hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009
2. Luật số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân, có hiệu lực kể
từ ngày 01 tháng 7 năm 2013
3. Luật số 71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội sửa
đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 01 năm 2015.
4. Nghị định số 65/2013/NĐ – CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân, có hiệu
lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013.
5. Nghị định số 91/2014/NĐ – CP ngày 01 tháng 10 năm 2014 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định quy định về thuế, có
hiệu lực từ ngày 15 tháng 11 năm 2014.
6. Nghị định số 12/2015/NĐ – CP ngày 12 tháng 02 năm 2015 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các
Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế,
có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội.
8. Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Hà
Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, La Thị Tuyết
Anh (2011), Thực tiễn thi hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng
hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Tạ Minh Hảo
(2013), Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp,
Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Diệu

Uyên (2009), Nhận diện những hành vi trốn thuế, gian lận thuế thu nhập phổ biến trong
thực tế hiện nay, các biện pháp phòng ngừa và xử lý, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hồ Thị Hải (2014),
Một số vấn đề pháp lý về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp
hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội.
13. Cổng thông tin điện tử Bộ tài chính,
/>%40%40%3F_afrLoop%3D4995718493900385%26_adf.ctrl-state%3D145cise4j4_4


14. Tạp chí nghiên cứu khoa học kiểm toán, Một số ý kiến về Luật thuế thu nhập cá nhân,
Trang thông tin Kiểm toán Nhà nước />15. Huyền Thư (2013), Muôn kiểu lách thuế thu nhập cá nhân, báo điện tử VNExpress,
/>


×