Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.77 KB, 25 trang )

1

MỞ ĐẦU
Dưới sự lãnh đạo, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, gần
70 năm Quốc hội và nhân dân ta luôn luôn coi việc xây dựng, bảo vệ chính quyền của mình là
nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn. Từ khi giành được chính quyền về tay nhân dân, ở mọi giai đoạn
phát triển của cách mạng, nhân dân ta luôn coi nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng, tăng cường, kiện
toàn Nhà nước là nhiệm vụ hàng đầu; phấn đấu để Nhà nước ta thực sự là trụ cột của hệ thống
chính trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, qua 30 năm đổi mới, trong bối cảnh tình hình quốc tế phức tạp và biến đổi khó
lường; tình hình trong nước, bên cạnh những thuận lợi, nhân dân ta cũng gặp không ít những
khó khăn, thách thức, song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện các
Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
căn bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân tiếp tục được cải thiện. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố
và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được tăng cường. Độc lập,
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế
được mở rộng. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao.
Cùng với sự phát triển về mọi mặt nêu trên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp
tục được xây dựng và hoàn thiện. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”.1 Báo cáo chính trị Đại Hội XII của Đảng ta tiếp tục khẳng
định: Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước
tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm.Việc xác định mục tiêu
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong Văn kiện Đại hội XI không chỉ khẳng


định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, H, 2011, tr.246


2

nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, mà còn đánh dấu một giai
đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy nghiên cứu vấn đề nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc
trong tình hình hiện nay.
NỘI DUNG
1. Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân ở nước ta.
1.1.Cơ sở lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
* Thời kỳ cổ đại:
Xô-crat (469-399 TCN) là một nhà triết học truyền khẩu nổi tiếng. Ông cho rằng, công lý
ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành; sự công minh và sự hợp pháp đều là một; nếu không
tuân thủ pháp luật thì cũng không thể có nhà nước và trật tự pháp luật; công dân của nhà nước
nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ vững mạnh.
Pla-Ton (427-374 TCN) là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ, Ông là tác
giả nhiều công trình khoa học, đã để lại nhiều tư tưởng về nhà nước pháp quyền có giá trị: quan
niệm của ông, hoạt động xét xử là để bảo vệ pháp luật, nhà nước sẽ ngừng tồn tại nếu như trong
nhà nước ấy tòa án không được tổ chức một cách thỏa đáng.
A-ri-xtôt (384-322 TCN). Ông đã tiếp tục phát triển và làm sâu sắc thêm các quan điểm
chính trị pháp lý của Pla-tôn. A-ri-xtôt- cho rằng yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính

trị trong các đạo luật là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền.
Ông lên án việc cầm quyền không tuân thủ pháp luật, những mưu toan thống trị bằng bảo lực.
Những tư tưởng về nhà nước pháp quyền trên của các nhà tư tưởng thời kì
cổ đại đều có nguồn gốc sâu xa từ sự mơ ước của con người về chiến thắng của công lý đối với
bạo lực, của chính nghĩa đối với gian tà, của cái thiện đối với cái ác; từ thực trạng đời sống xã
hội lúc bấy giờ là vua có toàn quyền, không chịu trách nhiệm pháp lý với ai cả.
* Thời kỳ trung và cận đại:
Jôn-lốc-cơ(1632-1704) là nhà tư tưởng người Anh. Theo ông, các quyền của con người là
tự nhiên và không bị tước đoạt; nhà nước được lập lên là để bảo vệ các quyền của con người, bảo


3

vệ và không được xâm phạm đến pháp luật. Từ đó ông lập luận sự cần thiết phải đề cao pháp
luật. Ông cho rằng: ở đâu không có pháp luật thì ở đó không có tự do, vì pháp luật là công cụ cơ
bản quyết định việc giữ gìn và mở rộng tự do cá nhân, bảo đảm cho cá nhân tránh khỏi sự tùy
tiện và độc đoán của người khác; mối nguy hiểm chính của sự tùy tiện và xâm phạm từ phí quyền
lực nhà nước đối với các quyền tự do của con người là bắt nguồn từ đặc quyền của người cầm
quyền; việc điều hành nhà nước phải dựa trên các đạo luật do nhân dân tuyên bố và hiểu rõ về nó;
chủ quyền của nhân dân tối cao hơn, quan trọng hơn chủ quyền của nhà nước do họ lập ra. Do
đó, nhà cầm quyền không được thi hành chính sách chuyên chế và độc tài đối với nhân dân của
mình.
Sác-Lơ-lui Mông-te-xki-ơ(1698-1755) là nhà luật pháp người Pháp nổi tiếng. Ông cho
rằng sự tồn tại của chế độ chuyên chế dựa vào việc làm cho con người khiếp sợ. Đó chính là
nhà nước của sự độc đoán và tùy tiện. Trong nhà nước đó không có pháp luật; hoặc nếu có pháp
luật thì cũng không được tuân thủ trong thực tế, bởi không có những quy định bảo vệ pháp luật.
Từ đó, ông lập luận sự cần thiết phải có pháp luật và tuân thủ nghiêm chỉnh theo pháp luật, sự
cần thiết phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo ông, nếu quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nằm trong tay một người hay một cơ quan
thì con người sẽ không có tự do. Còn nếu như quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp thì

tòa án sẽ trở thành kẻ đàn áp và tất cả sẽ bị hủy diệt. Như vậy, ông đã đề cập lý thuyết về sự
phân công quyền lực nhà nước bắt nguồn từ bản chất dân chủ và nhân đạo.
Can-tơ (1724-1804) là nhà triết học nổi tiếng người Đức. Dựa trên hệ thống triết học của
mình Can-tơ cho rằng: lý trí thực tế hay lý trí tự do của mỗi người chính là nguồn gốc của các
đạo luật có tính pháp quyền và hợp đạo đức, pháp luật là để bảo đảm các quan hệ văn minh
giữa con người. Nhà nước đó là sự hợp nhất của nhiều người biết phục tùng các đạo luật có tính
pháp quyền nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và được xây dựng trên nguyên tắc toàn bộ hoạt động
của mình phải dựa trên pháp luật, nếu không sẽ bị mất tín nhiệm của các công dân-những người
cấu thành nó.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền mà trong đó pháp luật giữ địa vị tối cao trong đời sống
nhà nước và các lĩnh vực hoạt động xã hội. Pháp luật đó phải bắt nguồn từ ý chí của nhân dân,
phải được nhà nước và mọi người tôn trọng. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền mà trong đó
con người là giá trị cao quý, nhà nước bảo đảm cho con người quyền tự do cơ bản, sự an toàn
pháp lý.


4

1.1.2. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin bàn về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
Trong tư tưởng của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin, khái niệm nhà nước pháp quyền
chưa được sử dụng. Nhưng những tư tưởng cốt lõi của nhà nước pháp quyền thì đã được đề cập
sâu sắc theo quan điểm khoa học và cách mạng: đó là một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp
pháp; một hệ thống pháp luật dân chủ triệt để phát chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con
người. Nói cách khác trong khi đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, một nhà nước kiểu mới C.
Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin đã kế thừa phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong điều
kiện mới.
Trước hết, từ tiêu chí “đề cao dân chủ, pháp luật và tính nhân văn của pháp luật” như là
những giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền, C. Mác, Ph.Ăngghen đã nêu những tư tưởng sâu
sắc về nhà nước pháp quyền trong các tác phẩm “gia đình thần thánh”, “sự khốn cùng của triết

học”, “Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, và đặc biệt trong tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”. C. Mác, Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, một xã hội mà
trong đó “tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”2. Và giải phóng
con người là mục tiêu của nhà nước pháp quyền kiểu mới; đó là một nhà nước tổ chức được đời
sống chung của nhân dân, trong đó bảo đảm được sự phát triển tối đa và phát triển “toàn diện con
người” .
Về mặt nhà nước C.Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt để, dân chủ là do
nhân dân tự quy định, là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân, là từ “nhân dân
của nhà nước” sang “ Nhà nước của nhân dân”. Dân chủ là xuất phát từ con người và pháp luật
cũng vì con người. Trong xã hội mới sẽ tạo ra điều kiện cơ bản để giải phóng các cá nhân; “bởi
lẽ xã hội sẽ không thể giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng một cá nhân riêng
biệt”. Do vậy, xã hội phải được xây dựng trên cơ sở pháp luật.
Những tư tưởng cơ bản của C. Mác, Ph.Ăngghen đã được V.I Lênin tiếp thu và phát triển
trong quá trình xây dựng một nhà nước kiểu mới, trong đó xác định rõ mục đích của chính quyền
Xô Viết là thu hút những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một nền dân
chủ rộng rãi nhằm giải phóng con người và phát triển toàn diện con người trong xã hội mới. Người
cho rằng không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội sẽ không thực hiện được theo 2 nghĩa sau
đây:
2

C. Mác, Ph. Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb, CTQG, H. 1995, Tr 628


5

Thứ nhất, giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân
chủ.
Thứ hai, Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không
dẫn được nhân loại đi đến thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ.

Về mặt pháp luật. V.I Lênin khẳng định rõ vai trò của pháp luật về pháp chế trong quản lý
xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải “căn cứ vào luật lệ của mình là điều kiện cần và đủ cho chủ
nghĩa xã hội thắng lợi triệt để”. Khi chuyển sang chính sách kinh tế mới, Người nhấn mạnh
những hình thức quan hệ mới được xác lập trong quá trình cách mạng và trên cơ sở của chính
sách kinh tế do chính quyền thực hiện, phải được thể hiện trong pháp luật mà được bảo vệ về
mặt tư pháp. Có thể nói ở đây Lênin là người đã sáng tạo ra khái niệm pháp chế xã hội chủ
nghĩa và là người trực tiếp chỉ đạo xây dựng tổ chức viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm
pháp chế nghiêm minh và thống nhất.
1.1.3. Tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền của Chủ Tịch Hồ Chí Minh

Ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn cho nước ta
hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Để thực hiện được ước nguyện ấy, Bác Hồ đã ra nước ngoài, đặt chân đến
rất nhiều nước, nghiên cứu các cuộc cách mạng diễn ra ở Mỹ, Pháp, Nga… đọc các tác phẩm
của các nhà tư tưởng lớn, đặc biệt là các tác phẩm của C.Mác, V.I. Lênin. Cuối cùng Người đi
đến kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng hưởng được cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự
do bình đẳng giả dối như đến quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam” 3. Từ kết luận
đó, Người đã xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản, Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917, kiểu nhà nước theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với đặc
điểm Việt Nam, tức là lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, lập nên nhà nước dân tộc độc
lập, dân chủ cộng hòa.
Tư tưởng về nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển qua một
loạt tác phẩm của Người như: “Yêu sách của nhân dân An Nam” (1919), “Đông Dương và
Triều Tiên” (1921), “Lời phát biểu tại đại hội Tua” (1920), “Bản án chế độ thực dân Pháp”
3

.Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.2, Nxb chính trị quốc gia. H. 1995, tr.280.



6

(1925)… Thông qua các tác phẩm đó người phê phán chế độ thực dân Pháp nói riêng và bóc
trần bản chất của nhà nước thực dân phong kiến đã bóc lột tận xương tủy dân tộc Việt Nam;
đồng thời suy nghĩ về xây dựng một chế độ xã hội mới, nhà nước mới của dân.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc về xây dựng một nhà nước mới ở Việt Nam đã thành hiện thực.
Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp 1946 đã thể hiện tập trung tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước độc lập, tự chủ, công hòa, chủ quyền quốc gia dân tộc-nhà
nước thực sự của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là nhà nước do nhân
dân tổ chức ra thông qua phổ thông đầu phiếu; là nhà nước trong đó nhân dân là người có
quyền tổ chức quản lý đất nước, kiểm soát hoạt động của nhà nước; là nhà nước phụ thuộc nhân
dân, đem lại lợi ích cho nhân dân; là nhà nước cần, kiệm, liêm, chính, tin dân và được dân tin,
dân mến.
Tư tưởng của Bác còn tập trung đề cao vai trò pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý
xã hội. Ngay từ năm 1919, trong bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi những người đứng
dầu các nước thắng trận họp Hội nghị Véc-Xây, Nguyễn ái Quốc đã đề cập đến những vấn đề
liên quan đến pháp quyền như:
Điều 1: Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị tù chính trị phạm.
Điều 2: Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được
quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án
đặc biệt làm công cụ khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam.
Điều 7: Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Để dễ phổ biến và tuyên
tuyền rộng rãi cho người Việt Nam, Người đã chuyển bản yêu sách thành “Việt Nam yêu cầu
ca” trong đó có câu:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành.
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” 4
Trong những lời nêu trên đã chứng minh là Người đã chú ý rất sớm đến pháp luật, đến

công lý, đến quyền con người. tư tưởng “trăm điều phải có thần linh pháp quyền” là một tư
tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, chứng tỏ Người đã nhận rõ tầm quan trọng tối thượng
của nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng phải là pháp luật của dân chủ. Khi bàn
4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia. H. 1995, tr.438


7

đến bản chất pháp luật của nhà nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nó là ý chí của giai
cấp công nhân và của dân tộc, nó bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Người
nói: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng
rãi cho nhân dân lao động” 5. Vì vậy, Người nói rõ quan điểm của mình có cơ sở tư tưởng để
định ra pháp luật là phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực lượng lao động làm nền tảng
để xây dựng nhà nước, xây dựng xã hội. Ở chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện rất rõ tư
tưởng về xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến, Người đã hoạt động không mệt mỏi để
thành lập một nhà nước như vậy. Chủ trương “thành lập chính quyền cách mạng” ở các căn
cứ địa, khu giải phóng cách mạng tháng Tám; việc triệu tập Đại hội quốc dân Tân Trào cử ra
“ủy ban dân tộc giải phóng” đầu tháng Tám năm 1945, Bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố sự
ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.. đã chứng minh tư tưởng xuyên suốt của Hồ
Chí Minh về xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Trong tư tưởng của Người, một nhà nước mạnh, có trật tự kỷ cương phải được tạo ra
nhiều yếu tố, trong đó phải quản lý xã hội bằng pháp luật với kết hợp giáo dục đạo đức, nâng
cao giác ngộ cho nhân dân. Không quản lý bằng pháp luận, dẫn đến sơ hở, cán bộ dễ nảy sinh
lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của người khác, của cộng đồng và của xã hội, dẫn
đến hỗn loạn vô chính phủ. Khi xây dựng các đạo luật, Hồ Chí Minh lấy điểm xuất phát từ ý
nguyện và lợi ích của nhân dân. Người cho rằng công lý ở nơi dân, vì dân sẽ tạo ra công lý xã
hội, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”6
Việc định ra pháp luật là rất quan trọng, song vấn đề là luật pháp ấy phải được toàn xã

hội thi hành nghiêm túc, đã là pháp luật của xã hội thì không từ một ai, dù người đó có làm đến
chức to đến đâu hoặc người đó làm một công dân bình thường thì cũng đều phải thực hiện pháp
luật một cách nghiêm túc “Thẳng tay trừng trị kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
gì”. Điều đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là Người đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa
“pháp trị” và “Đức trị” để làm cho quần chúng nhân dân thấy được điều hay, lẽ phải đền thực
hiện nghĩa vụ với dân, với nước, tránh đi những điều xấu có hại cho dân, cho nước, đồng thời
động viên được nhân dân tham gia nhiều vào việc quản lý, điều hành nhà nước.
1.1.4. Tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng ta
Ngay từ ngày đầu Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh của mình đã khẳng
định phải có pháp luật để bảo hộ lợi ích của dân cày. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà
5
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.2, Nxb Chính trị quốc gia. H. 1995, tr.280.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.5, Nxb CTQG. H. 1995, tr.698.


8

nước kiểu mới ra đời, mặc dù đất nước mới trải qua cuộc chiến tranh chống thực dân pháp, sau
này chống đến quốc Mỹ, nhưng trong các Nghị quyết của mình, Đảng ta đều coi trọng xây dựng
chính quyền nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt từ khi tiến hành công
cuộc đổi mới, Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, từng bước hình thành tư duy mới về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhà nước thật sự của dân, do dân, vì
dân theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta có bước tiếp cận tư tưởng về nhà nước pháp quyền với tinh
thần đổi mới, cải cách. Đảng ta khẳng định: quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không bằng
đạo lý, phải thực hiện cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước để khắc
phục sự cồng kềnh, quan liêu, bệnh hình thức giấy tờ, tổ chức thực hiện kém hiệu quả.
Đại hội VII, khi bàn về phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng hệ

thống chính trị ở Việt Nam, đảng đã tiếp cận có phê phán, chắc lọc những ý tưởng tiến bộ vè
nhà nước pháp quyền trong lịch sử, nâng những giá trị đó lên tầm cao mới phù hợp với bản chất
tốt đẹp của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng khẳng định “Nhà nước XHCN là nhà nước của
dân, do dân, vì dân lấy liên minh giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng
cộng sản lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; nhà nước phải
có đủ quyền lực, đủ khả năng định luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp
luật… tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhà nước thống
nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”7.
Nghị quyết Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Đảng ta đã chính thức sử dụng
khái niệm nhà nước pháp quyền Việt Nam và xác định “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một trong 8 nhiệm vụ chủ yếu.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8, (Khóa VII), Đảng ta đã đề cập quan điểm, chủ
trương, nhiệm vụ xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước: tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của cơ quan lập pháp; cải cách một bước nền hành chính nhà nước; đổi mới tổ chức
và hoạt động của cơ quan tư pháp; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

7

ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H. 1991, tr.9.


9

Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (Khóa VIII), Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa một số vấn đề cơ
bản về xây dựng nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Đó là phát
huy quản lý nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ cán bộ nhà nước.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung
các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất... Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các
cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. ”8.
Như vậy, Đảng ta từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp năm 1992
và nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản
lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Đã có
nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp
luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước.
1.2. Bản chất, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
1.2.1. Bản chất
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, đồng
thời thống nhất chặt chẽ với tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc.
1.2.2. Đặc trưng
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản,
được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên
8

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, H.2011, tr.247



10

tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục
thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thư ợng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của
nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao
trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ
cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo
đảm quyền con người, quyền công dân được thể chế hoá thành luật và được Nhà nước ta tổ
chức thực hiện có kết quả.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và thực hiện đầy đủ
các điều ư ớc quốc tế mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa.
Qua những nội dung trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng, trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đã tiếp thu được những tinh hoa, những
giá trị toàn nhân loại. Đó là các chế định pháp lý, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như những giá trị xã hội cao quý
nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, tính tối cao của pháp luật
trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.3. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
những năm qua
1.3.1. Về ưu điểm
Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn
đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất
lượng và thực chất hơn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc
hội có nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc


11

hội.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo
hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ
năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng.
Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục
hành chính thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức bộ
máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường) được tập
trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc tăng thẩm quyền
cho toà án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, đề cao vai trò của luật sư
trong tố tụng được thực hiện bước đầu có kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng
tốt hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất
lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham
nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm
chế.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động nhà nước ta cũng đang bộc lộ nhiều khuyết
điểm, hạn chế. Đó là:
1.3.2. Về khuyết điểm, hạn chế
Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ
chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức

năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới của đất nước.
Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ
chức và công dân.
Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu;
phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm. Cải
cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ.


12

Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án
tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa còn nhiều.
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu,
tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do chính những đặc điểm của nó quy
định, đòi hỏi về mặt nhận thức luận, một điều tưởng như đơn giản, thông thường mà lại rất hệ
trọng sau đây: chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí nhưng không bao giờ được xem thường nổ
lực chủ quan và ý chí của lực lượng những con người xây dựng chế độ mới. Cũng như vậy,
chống chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng không có một chút gì với việc xem thường kinh
nghiệm và đầu óc thực tế, cách làm thiết thực bắt nguồn từ sự thấm nhuần quan điểm thực tiễn.
Chống chủ nghĩa giáo điều, sách vở, nhưng không vì thế mà xem thường, coi khinh lý luận.
Trong điều kiện Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền, lãnh đạo xã hội và nhà nước, hơn
nữa là chế độ nhất nguyên chính trị và một Đảng lãnh đạo, nhất thiết phải giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, không lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ và phương pháp hoạt
động trong mô hình tổ chức bộ máy, trong quan hệ lãnh đạo và quản lý, không rơi vào tình
trạng hình thức hoá nhà nước và nhà nước hóa Đảng, đây là một trong những trở ngại rất lớn và
có tính phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.

2. Những giải pháp cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
hiện nay.
2.1. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nâng cao chất lượng đại
biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách; có cơ chế để đại biểu
Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Cải tiến, nâng cao hoạt động của Hội
đồng Dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng các kỳ họp của Quốc
hội, chất lượng công tác xây dựng pháp luật; thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát
các vấn đề quan trọng của đất nước.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành
chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý; xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ. Thực hiện phân


13

cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của
Trung ương. Nâng cao năng lực dự báo, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế, các
chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quản lý và sử dụng có
hiệu quả tài sản quốc gia, hệ thống kết cấu hạ tầng, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an
toàn xã hội của chính quyền các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục
hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân...
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống
tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn
thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ
chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, mở rộng thẩm quyền xét xử đối với các khiếu kiện hành
chính; viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức toà án, bảo đảm các điều kiện
để thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư

pháp. Tăng cường cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt
động tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương, nâng cao chất lượng
hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực hiện thí điểm chủ
trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường; nghiên cứu về tổ chức chính
quyền đô thị, hải đảo.
2.1.2. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, thực hành tiết kiệm.
Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng, nếu không làm tốt sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; gây thiệt hại lớn đối với tài sản của Nhà nước, xã hội, tập thể và công
dân, xâm phạm quyền và lợi ích của công dân; làm tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức, đảo lộn
những chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội; làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ XHCN; dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động gây mất ổn định chính trị,
đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ.
Thật vậy, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cảnh báo về bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi đó là một thứ giặc độc ác ở
trong lòng, là “kẻ thù của nhân dân”. Người vạch rõ: tham ô, lãng phí nảy nở từ bệnh quan liêu,
“ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí; nơi nào bệnh quan liêu càng nặng


14

thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô”9.Theo Người, “muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì
trước mắt phải tẩy sạch nạn quan liêu”10. Bệnh quan liêu là một thứ bệnh rất nguy hiểm, chủ
yếu có trong các cấp lãnh đạo của cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội. Quan liêu sẽ dẫn
đến mất dân chủ, độc đoán, chuyên quyền; đặc biệt, quan liêu xa rời thực tiễn, xa rời quần
chúng nhân dân, xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng, là nguy cơ lớn đối với Đảng cầm quyền.
Để phòng chống bệnh tham ô, lãng phí, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác tuyên
truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên về nâng cao đạo đức cách mạng, thực hiện tốt “cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư”; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu, Đảng ta luôn chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí. Tại Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), Đảng ta nêu rõ quan điểm coi
tham nhũng, lãng phí như một nguy cơ, thách thức lớn đối với công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước trong nhiều năm qua cũng đã thể hiện rõ quyết tâm
chính trị đẩy lùi, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần
2) khóa VIII, Văn kiện Đại hội lần thứ IX và X của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3
(khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí. Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đã có Pháp lệnh Phòng, chống tham
nhũng (năm 1998, sửa đổi năm 2000), Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí,... Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc gia phòng chống tham nhũng đến
năm 2020; Chủ tịch nước phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Trên
cơ sở các quy định về khung pháp lý, các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ,
ngành, địa phương đã và tiếp tục ban hành các quy định theo thẩm quyền, tạo hành lang pháp lý
cho công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nhìn chung, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta trong những năm qua
có sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và trong phòng ngừa, xử lý hành vi
tham nhũng, lãng phí. Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
luôn được đẩy mạnh, gắn với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin và
quyết tâm của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào công tác này.
9

Hồ Chí Minh, Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1981, tr.41.
Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí, quan liêu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2008, tr. 21.
10


15


Với quyết tâm chính trị đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, các cơ
quan chức năng của Nhà nước, Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo xây dựng thể chế, hoàn thiện
cơ chế, chính sách tạo ra hành lang pháp lý cho nhiệm vụ này. Các giải pháp đấu tranh phòng
ngừa được tập trung vào những vấn đề như: Xác định trách nhiệm người đứng đầu; kê khai tài
sản và minh bạch thu nhập; cải cách thủ tục hành chính…, ý thức của nhân dân về phòng chống
tham nhũng, lãng phí được đề cao; các cơ quan thông tin đại chúng phát huy tốt vai trò và trách
nhiệm, góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh công luận để đẩy mạnh thực hiện. Các cơ quan
chuyên trách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được kiện toàn, từng bước nâng cao chất
lượng hoạt động. Đến nay, kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta có
sự chuyển biến tích cực, bước đầu đã xử lý được một số vụ án tham nhũng lớn; các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể đã quan tâm lãnh đạo thực hiện công tác này. Kết quả
này góp phần bước đầu củng cố niềm tin của nhân dân, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Tuy vậy, cuộc đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn còn nhiều hạn chế,
giữa quyết tâm chính trị với việc tổ chức triển khai thực hiện còn khoảng cách lớn; công tác
tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa sâu rộng; một số cơ chế,
chính sách, quy định về quản lý kinh tế - xã hội và công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí
chậm được bổ sung, sửa đổi, dẫn đến hiệu quả thấp trong tổ chức thực hiện. Công tác tự kiểm
tra phát hiện vẫn là khâu yếu, việc xử lý có nhiều khó khăn; các hành vi tham nhũng ngày càng
tinh vi, phức tạp hơn. Một số vụ án tham nhũng xử lý chậm, kéo dài, gây tâm lý hoài nghi trong
nhân dân về tính nghiêm minh của pháp luật. Tình trạng sa sút phẩm chất, nhũng nhiễu, gây
phiền hà của một bộ phận cán bộ, công chức trong thi hành công vụ chậm được khắc phục; hiện
tượng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “lên chức nhanh” chưa được quan tâm chỉ đạo
làm rõ; sự yếu kém trong quản lý, điều hành, dẫn đến các sai phạm, gây thất thoát lớn tiền, tài
sản của Nhà nước ở một số doanh nghiệp, trong đó có yếu tố vụ lợi. Theo khảo sát dư luận xã
hội của Ban Tuyên giáo Trung ương thì tham nhũng, lãng phí vẫn là nhóm vấn đề đứng đầu về
sự quan tâm, bức xúc nhất của người dân. Trong khi toàn Đảng, toàn dân đang nỗ lực vượt qua
những khó khăn, thách thức để đưa đất nước phát triển, thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất.

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng


16

phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục
diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành
của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa
sự ổn định, phát triển của đất nước”11. Biểu hiện tham nhũng, lãng phí diễn ra rất phức tạp, tinh
vi, dưới mọi hình thức, trong tất cả các lĩnh vực như: Quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản,
phê duyệt dự án, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, cấp phát ngân sách, tổ chức cán bộ,... Thậm
chí “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc
phục”12. Nhiều vụ việc tham nhũng gây thất thoát lên đến hàng nghìn tỷ đồng, diễn ra cả trong
các cơ quan cấp cao, cơ quan bảo vệ pháp luật, chủ yếu được các phương tiện thông tin đại
chúng phanh phui. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã
hội”13. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011) nêu rõ: “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất
khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”14.
Như vậy, việc Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm là rất quan trọng, nhưng điều có ý
nghĩa lớn hơn là phải biết phòng ngừa, biết khắc phục, sửa chữa kịp thời những tồn tại, khuyết
điểm trong chặng đường nhiệm vụ sắp tới. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020 của Đảng nêu rõ: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của công
tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước” 15. Yêu cầu đặt ra cần phải ngăn chặn, tiến tới xóa bỏ
tận gốc tệ nạn tham nhũng, lãng phí, tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức luôn giữ đúng kỷ cương, liêm chính.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là công việc phức tạp, có nhiều

khó khăn, liên quan trực tiếp đến thói quen, lợi ích cá nhân, lợi ích của mỗi cơ quan, đơn vị. Do
đó, để góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí cần tập
trung vào những vấn đề cơ bản sau:
11
12
13
14
15

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 173.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 174.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 174.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 65.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 145.


17

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, tạo hợp lực đẩy mạnh công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
Những năm qua, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta sôi nổi thực hiện Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và bước đầu thu được những kết quả
rất khích lệ. Để cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả, về phương
pháp tiến hành, mỗi cán bộ, đảng viên cần ghi nhớ sâu sắc những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về phòng, chống tham ô, lãng phí, thực hành tiết kiệm; đồng thời phải dựa chắc vào các
bài học kinh nghiệm đã được rút ra trong Cuộc vận động trong những năm qua. Phải tạo được
sự đồng tâm nhất trí, huy động được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia; coi việc
chống tham nhũng, lãng phí cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận.
Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các đối tượng

nâng cao nhận thức và kiến thức về pháp luật phòng, chống tham nhũng của Nhà nước ta; nắm
rõ Chương trình hành động của Chính phủ về phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí. Gắn chặt chẽ công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng,
lãng phí với việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
theo Chỉ thị của Bộ Chính trị và Hướng dẫn của Ban Bí thư khóa XI.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí trong tình hình mới.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng xác định phải quyết tâm tạo sự chuyển biến quan trọng,
cơ bản, rõ nét, vững chắc trong việc đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Vì vậy, phải tạo được
sự “vào cuộc” của toàn hệ thống chính trị và của toàn dân, trong đó sự lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện của Đảng đóng vai trò quyết định. Đảng ta xác định phòng, chống tham nhũng, lãng phí là
một trọng tâm công tác lớn của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức, biện pháp cụ thể, phù hợp.
Thực hiện tự phê bình và phê bình thường xuyên trong Đảng để kịp thời phát hiện, uốn
nắn, ngăn chặn những biểu hiện sai phạm của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, tạo điều kiện để
các tổ chức trong cơ quan, đơn vị và chính quyền, nhân dân địa phương nơi cư trú thực hiện tốt
vai trò giám sát cán bộ, đảng viên về phẩm chất đạo đức, lối sống. Kiên quyết phê phán, xử lý
nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, hoặc có biểu hiện dung túng, bao
che các vụ việc tham nhũng, lãng phí, theo đúng quy định hiện hành của pháp luật.


18

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý và giải pháp phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.
Cơ chế quản lý rõ ràng, giám sát chặt chẽ với những giải pháp hữu hiệu là cơ sở quan
trọng để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời, sự công
khai minh bạch, đánh giá công bằng và xử lý nghiêm minh sẽ là những điều kiện tốt để giáo
dục, ngăn ngừa sai phạm, giúp cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh, tự tin trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công
tác quản lý; trong đó phải công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây
dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách Nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử
dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài sản công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, công
tác tổ chức, cán bộ,… Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định kiểm soát thu
nhập, minh bạch tài sản, xử lý tài sản tham nhũng, đưa ra các giải pháp kiên quyết, mạnh mẽ và
cứng rắn hơn.
Hoàn thiện quy trình xác định trách nhiệm của người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị
xảy ra tham nhũng, lãng phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ, đảng viên tham
nhũng. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí;
kỷ luật nghiêm những người bao che, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí, hoặc lợi dụng
sự việc để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ.
Thứ tư, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và của toàn dân trong phòng, chống
tham nhũng, lãng phí.
Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, việc phát huy sức mạnh của toàn hệ
thống chính trị và của nhân dân có ý nghĩa to lớn, quyết định đến sự thành bại cuộc đấu tranh
chống “giặc nội xâm” này. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI ghi rõ: “Mọi cán bộ lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và
từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”16.Vì vậy, tập trung nâng cao vai trò và hiệu lực
giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp; đồng thời, phát huy vai trò của công luận,
các phương tiện thông tin đại chúng và của toàn dân để kịp thời phát hiện, ngăn chặn tham
nhũng, lãng phí.
16

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 252, 253.


19


Đối với các tổ chức, cơ quan Nhà nước, phải có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, có
quyền hạn và trách nhiệm riêng và phải được thực hiện đúng. Nâng cao năng lực hoạt động của
các cơ quan chuyên trách và các cơ quan có thẩm quyền làm nòng cốt trong công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Các nhân sự được lựa chọn vào tổ chức chống tham nhũng của
Nhà nước phải dựa trên tiêu chí nghiêm ngặt về cả đức và tài. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc, Ban thanh tra nhân dân, các cơ quan thông tấn, báo chí để kịp thời phát hiện, xử lý
nghiêm minh các vụ tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác.
Thứ năm, tăng cường trao đổi, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một trong những vấn đề nóng bỏng, quyết liệt và
mang tính cấp bách, không chỉ ở nước ta mà diễn ra ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế, vấn đề tham nhũng cũng mang tính chất xuyên quốc gia. Vì vậy, để
đạt được hiệu quả cuộc đấu tranh như mong muốn, chúng ta cần phải tăng cường trao đổi, học
tập kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Do vậy, cần phải tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của các
chính phủ trên thế giới, các tổ chức quốc tế, nhất là các nước trong khu vực; tranh thủ sự tư
vấn, giúp đỡ quốc tế đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
(đặc biệt là những vấn đề có liên quan đến phòng ngừa và chống tham nhũng, tiêu cực); đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ hoạch định về chính sách; tham vấn về
cải cách hành chính; thực hiện công khai, minh bạch hóa theo quy định của Chính phủ,… bảo
đảm sự đồng bộ về mọi mặt để nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng; chú trọng hợp
tác quốc tế trong việc điều tra, giải quyết, xử lý các vụ việc tham nhũng lớn, xuyên quốc gia.
Trong đó có hợp tác với ngân hàng ở nước ngoài (nếu có nghi vấn); phối hợp điều tra, truy bắt
tội phạm tham nhũng trốn ra nước ngoài theo đúng luật pháp quốc tế.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) nhằm ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Đây thực sự là một cơ hội quý để mỗi người luôn nỗ lực học tập, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về phòng, chống tham
nhũng, lãng phí vào công việc thực tế hằng ngày. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải có quyết
tâm chính trị cao, có tác phong, phương pháp khoa học, hiệu quả. Phải nêu cao tinh thần cảnh

giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh không để những phần tử cơ hội, biến chất, các thế lực thù


20

địch lợi dụng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở nước ta hiện nay để chống
lại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.
2.3. Xây dựng cải cách hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của mục tiêu: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trên thực tế, đời sống xã hội ngày càng phát triển đặt ra đòi hỏi phải quản lý đất nước
“không phải bằng đạo lý, mà phải bằng pháp luật”, và chính điều đó đặt ra yêu cầu cao đối với
sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Nước ta
hiện nay, đồng thời phải hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước với đời sống xã hội dựa trên cơ
sở tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện thống nhất các chức năng của nhà nước và
phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trên mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước
cũng như các lĩnh vực của đời sống xã hội vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam hầu như mới chỉ là sự “mở đầu”
của một thời kỳ mới còn nhiều điều chưa đáp ứng yêu cầu của cuộc sống xã hội. Trong khi đó,
nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một đối tượng rất phức tạp đang vận động, đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới để
điều tiết. Cho nên, hệ thống văn bản pháp luật còn tiếp tục phát triển nhằm phản ánh hết thực tế
phức tạp, từng bước khắc phục “kẻ hở” trong các quy phạm pháp luật do trình độ kỹ thuật lập
pháp hạn chế. Những quy phạm pháp luật mới chưa đủ sức điều tiết các lĩnh vực đời sống xã
hội trong trạng thái không ngừng phát triển, nhất là trước yêu cầu giao lưu, hội nhập kinh tế-xã
hội khu vực và thế giới. Tất cả các nhân tố ấy đều ảnh hưởng không tốt đến hiệu lực của pháp
luật, và quan trọng hơn là cản trở đến quá trình thực hiện dân chủ hoàn thiện các chế định xã
hội dân sự vốn là nhu cầu thực tế.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước ta theo tiêu chí Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, những yêu cầu đòi hỏi mới đang đặt ra cho

việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
càng trở nên bức thiết. Bên cạnh đó yêu cầu nhà nước pháp quyền còn đòi hỏi hệ thống văn bản
pháp luật cũng như từng quy phạm pháp luật nói riêng không những phải bảo đảm hành lanh
pháp lý tính định hướng phát triển cơ sở kinh tế-xã hội, góp phần cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần cảu nhân dân, mà còn là cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống kiến trúc thượng tầng


21

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là củng cố hệ thống chính trị, trong đó trọng tâm là bộ
máy nhà nước.
Cải cách thủ tục hành chính là một việc làm đang được đẩy mạnh ở nước ta. Nhiệm vụ
cải cách nền hành chính quốc gia trong điều kiện hiện nay đang tiếp tục đặt ra các yêu cầu bức
xúc về cải cách mạnh mẽ hơn nữa thủ tục hành chính theo hướng xoá bỏ triệt để cơ chế “xincho”; hạn chế các trường hợp phải “cấp phép”, đơn giản hoá thủ tục giải quyết các yêu cầu của
người dân, tiến tới thực hiện trên thực tế nguyên tắc pháp lý cơ bản của xã hội nước ta; công
dân được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh
và thống nhất. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật phải trở thành đạo đức hàng đầu,
thành nếp sống tốt đẹp của mọi người. Pháp luật vừa là hình thức pháp lý của tự do và dân chủ,
vừa là công cụ cơ bản để đảm bảo tự do và dân chủ. Do vậy, chỉ có trong khuôn khổ của Hiến
pháp và pháp luật, tự do dân chủ mới có ý nghĩa và giá trị thực tế. Điều này có nghĩa là tự do
dân chủ phải gắn liền mật thiết với kỷ cương và trật tự. Tuân thủ nghiêm chỉnh, triệt để pháp
luật, thực hiện quy định của pháp luật, sống và làm việc có kỷ cương, kỷ luật là đòi hỏi của nhà
nước pháp quyền và xã hội công dân. Củng cố kỷ luật, kỷ cương, trật tự xã hội không chỉ là
nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý, mà còn là nghĩa vụ đạo đức của mọi cán bộ, công dân.
2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm của Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Đảng lãnh đạo tuyệt đối việc tổ chức xây dựng và hoạt động của nhà nước và pháp luật,
bảo đảm chặc chẽ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước pháp quyền Việt Nam, bảo đảm
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều 4 Hiến pháp 1992 đã ghi rõ: “Đảng cộng sản Việt

Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam,… là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã
hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Phương thức
lãnh đạo của Đảng là bằng quyết định tập thể “thông qua tổ chức đảng chứ không thông qua cá
nhân đảng viên”; Ngày nay, với các yêu cầu mới của công cuộc đổi mới, đặc biệt là các nhiệm
vụ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ đẩy mạnh các quá
trình dân chủ hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, để tăng cường nhà nước theo hướng nhà
nước pháp quyền, vấn đề phân định sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền và sự quản lý, điều hành
của nhà nước là hết sức cần thiết. Đảm bảo quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt
Nam, đồng thời đảm bảo quyền chủ động của nhà nước theo đúng quan điểm của V.I. Lênin:


22

Đảng không chỉ ra nghị quyết mà còn phải theo dõi hoạt động của nhà nước và cho ý kiến chỉ
đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích mặt tốt, uốn nắn lệch lạc; đảng lãnh đạo toàn diện
các mặt hoạt động của nhà nước và xã hội, không buông lỏng mặt nào, nhưng không bao biện
làm thay công việc quản lý điều hành của nhà nước.
Trọng tâm hiện nay là Đảng tập trung lãnh đạo xúc tiến cải cách hành chính và cải cách
tư pháp; đổi mới mạnh mẽ hệ thống hành pháp cả về tổ chức, cán bộ, cơ chế hoạt động; xây
dựng quy chế công chức, chế độ trách nhiệm công vụ, đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại
cán bộ viên chức trong bộ máy nhà nước; tiếp tục kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của hệ
thống tư pháp, bảo đảm tăng cường được ý thức pháp luật, tăng cường thanh tra, xử lý nghiêm
minh, kịp thời, đúng luật mọi hành vi phạm pháp.
3. Trách nhiệm của quân đội nhân dân Việt Nam đối với việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là công cụ
bạo lực sắc bén của Nhà nước ta, luôn có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống; tích cực tham gia
bảo vệ, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội; tham gia lao động sản xuất xây dựng kinh tế và
có nhiệm vụ quốc tế cao cả. Khái quát các nhiệm vụ của Quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói

Quân đội ta là đội quân chiến đấu và đội quân công tác. Vì vậy, tham gia xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng được xác định là một trong những nội dung, nhiệm
vụ quan trọng của Quân đội ta.
Quân đội nhân dân Việt Nam phải thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách, các quy định trong Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước ta ban hành; cụ thể
hóa các nội dung trong Hiến pháp và pháp luật thành những nội dung cơ bản của điều lệnh, điều
lệ, thành các quy định trong Quân đội. Quân đội vừa là một trong những lực lượng gương mẫu
chấp hành luật pháp của Nhà nước, vừa là lực lượng tuyên truyền, giáo dục nhân dân hiểu biết
và thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật ấy.
Trong những năm qua, Quân đội ta luôn làm tốt vai trò của đội quân chiến đấu và đội
quân công tác; đã thực hiện tốt “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với nhân dân, tạo ra mối
quan hệ tốt đẹp giữa Quân đội với nhân dân, làm tăng thêm giá trị cao đẹp của “Bộ đội cụ Hồ”
trong lòng nhân dân, nên Quân đội ta đã cùng với các lực lượng khác giải quyết tốt các “điểm
nóng” ở nhiều nơi, mang lại sự bình yên cho đất nước.


23

Hiện nay, đứng trước những đòi hỏi khách quan của tình hình mới, đòi hỏi
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quân đội ta đang ra sức
xây dựng Quân đội theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại”. Chỉ
có xây dựng theo phương hướng đó, mới làm cho Quân đội ta thực sự là công cụ bạo lực sắc
bén, là cánh tay đắc lực, là “bàn tay sắt” của Nhà nước ta. Từ đó làm tăng thêm quyền lực thống
trị của Nhà nước, làm cơ sở “vật chất” và “tinh thần” vững chắc để Nhà nước ta phát huy hết uy
lực, quyền lực, răn đe và sẵn sàng đánh trả các thế lực đi ngược lại Hiến pháp và luật pháp của
Nhà nước, ngược lại lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động ở
nước ta. Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
chống “phi chính trị hoá Quân đội”, trên cơ sở đó xây dựng Quân đội ta thực sự là một Quân
đội cách mạng; tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đồng thời, nâng cao
trình độ chính quy, trình độ tinh nhuệ cả về kỹ thuật và chiến thuật, từng bước hiện đại hóa về

vũ khí, trang bị v.v. qua đó, khẳng định sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm
chứng minh cho sức mạnh quyền lực của Nhà nước ta.
Quân đội ta phải vừa tích cực đề cao tinh thần cảnh giác, vừa duy trì nghiêm túc chế độ
sẵn sàng chiến đấu; giải quyết tốt các mối quan hệ, đồng thời thường xuyên phối hợp chặt chẽ
với các tổ chức, lực lượng khác, nhất là lực lượng Công an nhân dân; có kế hoạch, phương án
tác chiến cụ thể, kịp thời ứng phó khi có tình huống xảy ra. Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân là lực lượng chủ yếu, là “bàn tay sắt” của Nhà nước ta. Tình hình chính trị – xã hội ở nước
ta có được ổn định hay không, chủ quyền lãnh thổ quốc gia và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa
của chúng ta có còn hay mất là phụ thuộc rất lớn và trực tiếp vào hai lực lượng này. Do vậy, hai
lực lượng này càng mạnh bao nhiêu, phối hợp với nhau càng chặt chẽ bao nhiêu thì càng làm
cho sức mạnh của Nhà nước ta tăng lên bấy nhiêu, và như thế Nhà nước ta càng có điều kiện
thuận lợi trong việc thực hiện chức năng chính trị giai cấp của mình. Ngoài ra, Quân đội ta còn
phải làm tốt công tác hoạt động phối hợp với các tổ chức, đoàn thể, lực lượng khác như các tổ
chức bảo vệ, dân quân tự vệ, hội cựu chiến binh, các tổ chức thanh niên v.v. để xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng cơ sở chính trị vững chắc, tạo lập các địa bàn
chiến lược, phục vụ tốt hơn nữa cho yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Quân đội ta, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Trong bối cảnh tệ tham nhũng đang trở thành quốc nạn ở nước ta, nhiều tệ nạn xã hội,
nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ


24

nghĩa. Một mặt, Quân đội ta phải là lực lượng tiên phong trong thực hiện công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, pháp lệnh
“Phòng, chống tham nhũng” của Chính phủ. Mặt khác, tích cực phát hiện, đưa ra ánh sáng
những kẻ cố tình vi phạm, kiên quyết chống lại các tệ nạn đó, làm trong sạch nội bộ Quân đội
và bộ máy Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những năm gần đây, do khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão, đã làm
cho các ngành, các lĩnh vực không ngừng phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, kéo theo sự

phát triển cũng như sự nảy sinh hàng loạt vấn đề đòi hỏi các tổ chức, các lực lượng phải nghiên
cứu giải quyết. Đặc biệt là đòi hỏi của việc xây dựng, thể chế hoá pháp luật phù hợp với tình
hình mới, vừa làm cơ sở pháp lý để xét xử các vụ việc xảy ra, vừa để tạo ra “hành lang thông
thoáng” cho các lĩnh vực của đời sống xã hội hoạt động và phát triển. Quá trình đó Quân đội ta
cũng phải tham gia xây dựng hệ thống luật pháp, nhất là những vấn đề liên quan, ảnh hưởng tới
lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc, góp phần ngày càng hoàn thiện hệ thống luật pháp nước ta, trên cơ sở
đó hoàn thiện từng bước việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
KẾT LUẬN
Việc tiếp tục không ngừng phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, đặc biệt làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân là một yêu cầu khách quan, nhằm làm rõ
mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật trong một cơ chế Đảng lãnh đạo, sẽ góp phần quan
trọng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta
hiện nay. Đây là hệ thống các quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam, là sự kế thừa và tiếp tục phát triển lý luận và quan điểm đó về xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của thời kỳ hiện nay trong xu
thế hội nhập quốc tế. Nhằm xây dựng, hoàn thiện một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là một trong những
vấn đề cấp thiết, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách quan của thời kỳ mở cửa, hội nhập, hợp tác và
phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống chính trị của
nước ta, tạo điều kiện quan trọng cho sự thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là quá trình xây dựng nhà nước


25

của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, là quá trình nâng cao
vai trò làm chủ đất nước của nhân dân ta.



×