Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Hạt gạo làng ta - Trần Đăng Khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.37 KB, 4 trang )

HẠT GẠO LÀNG TA
( Sách Tiếng Việt 5 – Tập 2 – trang 139)
Kính tặng chú Xuân Diệu
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay...
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy...
Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mĩ
Trút trên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông...
Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn


Vục mẻ miệng gầu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất.
Hạt gạo làng ta.
Gửi ra tiền tuyến,
Gửi về phương xa.
Em vui em hát,
Hạt vàng làng ta.
Em vui em hát,
Hạt vàng làng ta.
Tr n Đăng Khoa - 1969ầ
Khi làm bài thơ này, Trần Đăng Khoa đang học cấp 1 nhưng bằng sự
hiểu biết đời sống nông thôn và nhờ tài năng đặc biệt, bài thơ được viết ra
một cách sâu sắc, rung động, giàu ý nghĩa nhưng lại rất trẻ con.
" Hạt gạo làng ta.
Có vị phù sa,
Của sông Kinh Thầy.
Có hương sen thơm,
Trong hồ nước đầy…"
Ở lứa tuổi ấy mà biết nghĩ như thế là sâu sắc lắm. Từ một thực tế có
tính khoa học là cây lúa hút chất dinh dưỡng dưới bùn, đất ra hoa trổ bông,
kết hạt ( như ai cũng biết) thì nhà thơ bằng sự tinh tế của tâm hồn còn nghe
được, cảm nhận được " vị phù sa". " hương sen thơm" trong hạt gạo. Và hơn
thế nữa có cả tình người, lòng người ấp ủ:
"Có lời mẹ hát,
Ngọt ngào hôm nay. "
Làm ra hạt gạo gian khổ biết chừng nào. Ca dao cổ có câu thấm thía:
" Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."
Đó là cách phát biểu trực tiếp, có tính chất luân lí, hơi nghiêng về lí trí.
Còn trong bài thơ này , Trần Đăng khoa để thực tế nói lên:
" Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu"
Bão dập, nắng lửa, mưa dầm, thiên nhiên của đất nước Việt Nam đới
khắc nghiệt này đã đổ vào đầu bà con nông dân bao nhiêu nhọc nhằn để
làm ra hạt gạo , mà cụ thể nhất là bà mẹ của mình:
"Nước như ai nấu,
Chết cả cá cờ.
Cua ngoi lên bờ,
Mẹ em xuống cấy. "
Bốn câu thơ có sức chứa lớn về nội dung, về hình thức biểu hiện. Nghĩ
bằng cách nghĩ của trẻ con, tác giả mới so sánh cái nước do mặt trời hun
nóng lên ở ruộng với nước nóng mà ta đun nấu lên; nước nóng đến mức
"chết cả cá cờ" thì phải là dưới con mắt và suy nghĩ của trẻ con mới nhìn
thấy được. Vì sao vậy? Cá cờ là loài cá còn gọi là cá thia lia, thân đuôi nhiều
màu sắc sặc sỡ, các cậu bé ở nông thôn mà bắt được là thường đem về nuôi
ở chai, lọ thủy tinh như ở thành phố người ta nuôi cá vàng.
Nước óng chết cả cá, như chết mất con cá cờ thì quả là tiếc đứt ruột.
Phải có con mắt trẻ con, tâm lí trẻ con mới viết được hai câu thơ:
"Nước như ai nấu,
Chết cả cá cờ. "
" Cua ngoi lên bờ" không sống ở nông thôn không có thực tế ruộng đồng thì
không có câu thơ đó. Nóng quá, cua phải ngoi lên bờ, nhưng bất ngờ đến
sửng sốt:
" Cua ngoi lên bờ,

Mẹ em xuống cấy…"
Hai câu thơ, hai hình ảnh đối nghịch nhau gây một chấn động tình cảm
mạnh trong lòng người đọc. Có phải nói gì nhiều về những vất vả của người
mẹ để làm ra hạt gạo? Hai câu thơ đó đã nói lên quá nhiều.
Kể ra bài thơ dừng ở đây là được rồi, là đúng với lứa tuổi của người
viết. Nhưng trong thời điểm cả nước dồn sức đánh Mĩ, trẻ con cũng già đi
trước tuổi. Các em không được sống cái hồn nhiên cái tuổi bắt dế, nuôi
chim của mình. Trần Đăng Khoa cũng vậy mà còn hơn thế nữa. Vì thông
minh hơn người, em tiếp cận không khí chính trị, không khí xã hội một cách
nhạy bén:
"Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà
Những năm cây súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn,
Vàng hơn lúa đồng.
Bát cơm mùa gặt,
Thơm hào giao thông…"
Băng đạn vàng như lúa đồng, có lẽ đó là ý thơ hay nhất trong cả bài và
cũng là câu thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ viết về người nông dân
miền Bắc trong những năm đánh Mĩ. Câu thơ này hay về sự điển hình, hay
về sự so sánh độc đáo, mới lạ và chính xác. Phải sống trong những năm
tháng ấy mới có sự liên tưởng về bông lúa vàng trĩu hạt với những băng đạn
vàng rực, cũng nặng trĩu trong tay người đánh giặc.
Trần Đăng Khoa vừa miêu tả hạt gạo nghìn đời, vừa nói đến hạt gạo
những năm đánh Mĩ: gian khổ và nghĩa tình. Tác giả biết chọn lọc những
hình ảnh có sức rung động. Câu thơ:'
"Bát cơm mùa gặt,
Thơm hào giao thông…."
Vừa nói lên được hoàn cảnh vừa nêu được khí thế đất nước của ngày ấy.

------------www.tieuhoc.info chọn bình – 07/2009----------

×