Tải bản đầy đủ (.docx) (172 trang)

Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.8 KB, 172 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HẰNG

TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH:
NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
MÃ SỐ: 60 31 02 03

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Lê Thị Hằng


3

3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu


Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng lập hiến là một bộ phận
quan trọng. Tư tưởng ấy được định hình trong 30 năm Người hoạt động ở nước
ngồi, được bổ sung và phát triển trên cơ sở trực tiếp chỉ đạo xây dựng các bản
hiến pháp dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa của
tư tưởng lập hiến trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Với tính chất là
hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về lập hiến kiểu mới ở Việt Nam, tư tưởng
lập hiến Hồ Chí Minh đã luận giải hàng loạt nội dung cơ bản nhất và cốt lõi nhất
về xây dựng hiến pháp. Đó là quan điểm về vai trò, quyền lập hiến, các nội dung
và điều kiện lập hiến. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, trong các luồng tư
tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, chỉ có tư tưởng lập hiến Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh là duy nhất đúng đắn, tiến bộ và phù hợp với Việt Nam. Tư
tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng cho việc xây dựng các bản
hiến pháp dân chủ trong lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam.
Là người khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ cương
vị Chủ tịch nước trong suốt 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu cho nền
lập hiến cách mạng Việt Nam. Dấu ấn của Người thể hiện sâu sắc trong quá trình
chỉ đạo xây dựng Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 với tư cách Trưởng ban Dự
thảo hai bản Hiến pháp nói trên. Đặc biệt, Hiến pháp 1946 đã đánh dấu mốc
quan trọng trong nền lập pháp của Việt Nam, được các nhà nghiên cứu và thực
thi pháp luật đánh giá là “rất Việt Nam, mang đậm dấu ấn dân tộc và sắc thái
phương Đơng, đồng thời có vận dụng nhiều kinh nghiệm của Pháp và một phần
của Mỹ về tổ chức nhà nước, thực sự biểu hiện tư duy sáng tạo của Hồ Chí
Minh, của Đảng và nhân dân về vấn đề nhà nước” [36, tr.217].
Nhận thức rõ những giá trị lớn lao của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh,
trong q trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã tổ chức triển


4


4

khai nghiên cứu và vận dụng có hiệu quả tư tưởng của Người. Nếu như Hiến
pháp 1980 gần như mô phỏng hồn tồn mơ hình Hiến pháp Xơ viết thì đến Hiến
pháp 1992, trên nhiều mặt, đã trở lại giá trị Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1992 đến
nay đã qua hai lần bổ sung, sửa đổi vào năm 2001 và gần đây nhất là năm 2013.
So với lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, Hiến pháp 2013 được đánh giá là có
nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với xu thế của thế giới, đánh dấu một bước tiến
mới trong lịch sử lập hiến của đất nước. Nhiều điểm mới, tiến bộ trong Hiến
pháp năm 2013 là sự kế thừa và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của nước ta.
Hiện nay, để nhận thức, tiếp tục hoàn thiện và thực thi Hiến pháp 2013
hiện nay, việc nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, đặc biệt nhận thức rõ
hơn các giá trị về tính nhân văn, tính khoa học của bản hiến pháp dân chủ; về mơ
hình tổ chức quyền lực nhà nước, kinh nghiệm, bài học về cách thức tổ chức xây
dựng hiến pháp, về vận dụng, học tập kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn Việt
Nam sẽ góp phần sáng tỏ soi sáng nhiều vấn đề đang và sẽ đặt ra cả trong nhận
thức lý luận và thực tiễn.
Bên cạnh đó, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh dù chứa đựng nhiều nội dung
và giá trị to lớn, nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu trực
tiếp, tồn diện, có hệ thống về tư tưởng lập hiến của Người. Đây là điểm cần tiếp
tục bổ sung trong nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: Tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ nội dung và giá trị của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu



5

-

5

Làm rõ nội hàm các khái niệm: Hiến pháp, lập hiến, tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh; cơ sở, quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh.

-

Phân tích có hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng lập hiến Hồ Chí
Minh.
Luận giải giá trị của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên
cứu
Nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh và những giá trị của tư tưởng
này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung:
Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều nội

dung từ soạn thảo, ban hành, sửa đổi và thực thi hiến pháp. Trong khuôn khổ
luận án, tác giả trình bày những nội dung cơ bản nhất, gồm: vai trò lập hiến,
quyền lập hiến; nội dung cơ bản của hiến pháp với hai vấn đề cốt lõi là Chính thể
Dân chủ Cộng hịa, quyền và nghĩa vụ cơng dân; các nhân tố đảm bảo lập hiến.
- Thời gian: Tồn bộ q trình hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến
Hồ Chí Minh từ năm 1911 đến năm 1969

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
các quan điểm của Đảng, Nhà nước về lập hiến, các lý thuyết lập hiến phù hợp
với đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp chuyên ngành


6

6

và liên ngành để thực hiện đề tài, cụ thể là phương pháp lịch sử, phương pháp
logic phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp khái quát hoá - trừu tượng hoá, phương pháp phỏng vấn chuyên
gia, v.v., để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Luận án làm rõ tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh một cách có hệ thống: từ
nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển, đến nội dung và giá trị của tư
tưởng, cũng như có sự phân tích, đánh giá sâu về nội dung và giá trị của tư tưởng
này. Trong đó, qua tư liệu biên bản các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Ban
sửa đổi Hiến pháp được khai thác tại các Trung tâm lưu trữ, tác giả trình bày,
luận giải một số nhận thức mới về nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, từ
đó có những nhận định, đánh giá sâu sắc và đầy đủ hơn về giá trị của tư tưởng
này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung những nhận thức mới về tư tưởng lập hiến Hồ

Chí Minh, từ đó góp phần khẳng định vai trị nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, tư tưởng lập hiến của Người nói riêng đối với Đảng và cách mạng Việt
Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với những kết quả đạt được, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh; góp
phần cung cấp luận cứ khoa học cho đổi mới tư duy lập hiến, xây dựng và thực
thi hiến pháp ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết


7

7

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh
Nghiên cứu về các vấn đề chung của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có
một số cơng trình tiêu biểu sau:
Là một trí thức lớn, một luật gia được đào tạo từ thời Pháp thuộc, từng có
thời gian làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, được làm việc trực tiếp với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ Đình Hịe có những
luận giải về tư tưởng Hồ Chí Minh trong Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh
(2001). Tác giả cho rằng “Tư tưởng hiến chính của Nguyễn Ái Quốc nảy mầm là
do sự kết hợp công lý và pháp lý Đông Tây, qua sự quan sát thực tế chế độ dân

chủ ở cả các nước Tây Phương lẫn đất nước của Lênin. Quý hơn nữa, do đó mà
vững vàng hơn: tư tưởng pháp quyền dân chủ ở Ông Nguyễn bắt rễ sâu vào
truyền thống “lệ làng” của dân tộc ta”[44, tr. 342]. Tác giả cho rằng, những mầm
mống của tư tưởng hiến chính của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện trong các tác
phẩm Bản yêu sách nhân dân An Nam; Nhời hơ hốn cùng Vạn Quốc hội với
việc sắp đặt một nền hiến pháp theo những lý tưởng dân quyền. Từ giữa những
năm 20 của thế kỉ XX (khi trở về Trung Quốc hoạt động) đến năm 1945, Nguyễn
Ái Quốc suy nghĩ định hướng cho một kiểu hiến pháp thích hợp Việt Nam, chứ
khơng nhất thiết kiểu Cộng hịa Xơ viết: từ hình thức chính quyền công nông
trong Đường Kách mệnh (1925) sang ý niệm chính quyền nhân dân (1941). Giai
đoạn định hình rõ nét tư tưởng hiến chính từ khi Người trở về Tổ quốc, thể hiện
trong việc xây dựng chính quyền ở những vùng giải phóng, ở các quy tắc bảo vệ
và bảo đảm quyền và lợi ích của tồn dân, hình thức chính quyền dân chủ trực
tiếp tự nhiên tiến lên dân chủ đại diện, mà theo tác giả “đó là mầm mống của
một chế độ pháp quyền dân chủ tư sản kiểu mới” [44, tr. 347]. Tác giả đánh giá
sự kiện Đại hội quốc dân Tân Trào và Hội nghị Diên Hồng kiểu mới là bước cuối


8

8

cùng của q trình sáng tạo tư duy “hiến chính dân tộc dân chủ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh” [44, tr. 348].
Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh của Bùi Ngọc Sơn là một trong số ít
cuốn sách trình bày có hệ thống và phân tích những vấn đề cơ bản trong tư tưởng
lập hiến Hồ Chí Minh: nguyên tắc của hiến pháp; quyền lập hiến và sửa đổi hiến
pháp; tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề dân quyền. Tác giả cho rằng, trong
tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có những tư tưởng, quan điểm mang tính chất
chỉ đạo cho việc tổ chức quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa quốc

quyền với dân quyền, đó là: đồn kết dân tộc, chủ quyền nhân dân, định hướng
xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Quyền lập hiến thuộc về nhân
dân và lập hiến bằng tổ chức Tổng tuyển cử để nhân dân bầu ra Quốc hội, và
Quốc hội sẽ soạn thảo ra hiến pháp, tức là bằng con đường Quốc hội lập hiến.
Việc sửa đổi Hiến pháp, theo tác giả, có thể nhìn nhận tư duy của Hồ Chí Minh
từ điều 70 của Hiến pháp 1946; “chủ thể đề nghị sửa đổi hiến pháp được trao cho
cơ quan lập pháp” [109, tr. 85], với điều kiện có 2/3 tổng số nghị viên yêu cầu.
Về vấn đề dân quyền, tác giả khẳng định đó là một đối tượng điều chỉnh quan
trọng của hiến pháp và nêu một số quyền công dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
được ghi nhận trong Hiến pháp 1946: các quyền chính trị, các quyền tự do cá
nhân, các quyền kinh tế - xã hội, các quyền văn hóa. Điều tác giả lưu ý là các
quyền này trong Hiến pháp được thiết kế theo nguyên tắc dân quyền xuất phát từ
nhân quyền, nên đó là những quyền tự nhiên của con người. Về quyền lực nhà
nước, tác giả trình bày về sự chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và
bước đầu có sự đánh giá, so sánh với mơ hình tổ chức nhà nước khác. Quốc hội
do nhân dân bầu ra là cơ quan đại diện tồn dân, cơ quan có quyền lực nhà nước
cao nhất, quyết định vấn đề quan trọng nhất [109, tr. 101]. Chủ tịch nước có
quyền hành lớn và “mang những đặc thù của loại hình chính thể cộng hịa dân
chủ nhân dân” [109, tr. 112]. Chính phủ là cơ quan trọng yếu trong chính thể nhà
nước, “thực hiện quyền hành pháp, do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm và
báo cáo cơng tác với Quốc hội” [109, tr. 124]. Tịa án là “cơ quan giữ vị trí độc


9

9

lập trong hệ thống cơ quan nhà nước, thực hiện quyền xét xử” [109, tr. 127]. Qua
sự phân tích đó, tác giả khẳng định tính dân tộc và dân chủ sâu sắc của bộ máy
nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ở chương 1 cuốn sách Hiến pháp năm 1946 – Bản Hiến pháp đặt nền
móng cho nền lập hiến Nhà nước Việt Nam của Đỗ Ngọc Hải [39], tác giả trình
bày khái quát tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh thể hiện qua các tác phẩm Bản
yêu sách của dân An Nam, Nhời hơ hốn cùng Vạn Quốc hội, Chánh cương vắn
tắt, Chương trình cách mạng của Mặt trận Việt Minh, Chương trình Mười điểm,
Tun ngơn độc lập. Từ đó, tác giả rút ra một số nhận xét: khái niệm hiến pháp
có rất sớm ở Hồ Chí Minh từ năm 1919, ngay cả khi Người chưa tìm thấy con
đường đi cho dân tộc, nhưng đã nhận thấy vai trò, tác dụng của hiến pháp trong
quản lý xây dựng đất nước; phải tự lập ra hiến pháp mới đáp ứng được yêu cầu
nhân dân và phù hợp với điều kiện lịch sử đất nước mình; nội dung hiến pháp
phải thể hiện học thuyết Mác- Lênin, thể hiện hiến pháp cộng hịa dân chủ. Tiếp
đó, tác giả phân tích tư tưởng lập hiến của Hiến pháp 1946 là sự thể hiện cụ thể
của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: hiến pháp vì dân, ban hành hiến pháp là để
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, mọi người dân được hưởng lợi; hiến
pháp phải ghi lấy thành tích vẻ vang của cách mạng được thể hiện trong Lời nói
đầu; hiến pháp là yếu tố trước tiên của một nhà nước dân chủ, nhà nước pháp
quyền và là khuôn mẫu cho tổ chức, hoạt động của nhà nước dân chủ. Hồ Chí
Minh lựa chọn sáng suốt những đại biểu soạn thảo Dự thảo Hiến pháp và “vai trò
chọn người trong Ủy ban dự thảo Hiến pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là yếu tố
cơ bản dẫn tới thành cơng của Ủy ban dự thảo” [39, tr. 61]. Trong bài viết Hồ
Chủ tịch với những tư tưởng lập hiến trong Hiến pháp năm 1946, Đỗ Ngọc
Hải đã phân tích rõ hơn và khẳng định trong bốn nội dung tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh, thì “tư tưởng lập hiến vì dân là trọng tâm, cơ bản. Vì tất cả những tư
tưởng sau chỉ để phục vụ cho tư tưởng thứ nhất. Nó phù hợp với quan điểm khoa


10

10


học của chủ nghĩa Mác - Lênin: Tất cả mọi khoa học phải vì con người, phục vụ
con người” [40, tr. 6].
Trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992 do Võ Khánh Vinh chủ biên [155], có đề cập đến một số quan
điểm về lập hiến Hồ Chí Minh: sự cần thiết của hiến pháp; điều kiện ra đời của
bản hiến pháp là độc lập dân tộc và chế độ dân chủ; mối quan hệ độc lập dân tộc
và dân quyền, trong đó độc lập là nền tảng thực hiện dân quyền, muốn có dân
quyền thì trước hết dân tộc phải độc lập, bởi vậy trước hết phải tập trung cho
việc giành độc lập, dân quyền được thực hiện từng bước để phục vụ cho việc
giành độc lập; quan điểm về chính thể nhân dân và “thực hiện chính quyền mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Tác giả nhận định Hồ Chí Minh là người khởi
xướng tư tưởng lập hiến dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Đó là tư tưởng lập hiến
duy nhất đúng cho xã hội Việt Nam, được khảo chứng và phát huy trong thực
tiễn. Tác giả nêu lên một số nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946, là sự kết tinh
và hiện thực hóa tư tưởng lập hiến kiểu mới Hồ Chí Minh: ba ngun tắc trong
Lời nói đầu; tổ chức chính quyền dân chủ với sự phân công nhiệm vụ cho từng
cơ quan và thiết kế nhiều cơ chế kiểm tra, giam sát lẫn nhau giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước; tư tưởng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ; ghi nhận quyền cơ bản của con người mà trước đó người dân Việt Nam chưa
được thụ hưởng.
Trong Lịch sử lập hiến cách mạng Việt Nam của Phan Đăng Thanh và
Trương Thị Hòa [116], các tác giả nêu lên những nét đặc trưng của tư tưởng
pháp quyền - lập hiến Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam: sự cần thiết
của hiến pháp; về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; về tự do, nhân quyền
và dân quyền; về tổ chức và hoạt động của nhà nước; về biểu tượng quốc gia:
quốc kỳ, quốc ca. Bên cạnh đó, các tác giả chỉ ra một số quan điểm về lập hiến
của Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển của tư tưởng lập hiến mácxít: Đảng
Cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo toàn xã hội; Nhà nước chun chính vơ sản
được tổ chức theo ngun tắc tập quyền chứ không phải phân quyền và nhà nước



11

11

thống nhất quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân; các tổ chức xã hội, đoàn thể
quần chúng phải được chú ý củng cố và phát huy vai trò trong hệ thống chính trị.
Các tác giả dành một mục phân tích nội dung và tính chất lập hiến của Tun
ngơn độc lập: đề cao quan hệ quốc tế bình đẳng, đề cao nguyên tắc quốc gia
thống nhất, chủ quyền dân tộc và tự do dân chủ; xây dựng chế độ nhà nước cộng
hòa, bảo đảm quyền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho công dân Việt Nam.
Những tư tưởng trong Tun ngơn “cũng chính là sự tổng kết hùng hồn tư tưởng
lập hiến của Hồ Chí Minh và nhiều nhà cách mạng yêu nước Việt Nam khác, tích
lũy trong suốt q trình đấu tranh lập hiến liên tục suốt gần nửa thế kỷ trước
ngày lịch sử 2-9-1945” [116, tr. 105]. Qua việc trình bày sự phát triển tư tưởng
lập hiến trong nửa đầu thế kỉ XX ở Việt Nam, các tác giả khẳng định các luồng
tư tưởng lập hiến “muôn màu, muôn vẻ”, không ngừng đấu tranh, cọ xát với
nhau, trong đó, đi theo con đường đấu tranh lập hiến xã hội chủ nghĩa, đi theo
chủ nghĩa Mác - Lênin thì chỉ có Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Nhận thức về Hiến pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Võ Thị Thúy Hà
[38] trình bày khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về hiến pháp. Hiến pháp
phải đảm bảo các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, phải ghi nhận được những
giá trị cơ bản nhất và quyền cao quý nhất của con người. Hiến pháp phải đề ra
được các nguyên tắc thực hiện quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc hiệu lực của hiến pháp thể hiện rõ nét ở
quy định về thủ tục lập hiến và sửa đổi hiến pháp, việc giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước đối với cơ quan và cá nhân có thẩm quyền.
Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh về một bản hiến pháp dân chủ, của Trần
Ngọc Đường [33], trình bày ba nội dung trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, nước phải có độc lập, quốc gia có chủ quyền là điều kiện tiên quyết
của hiến pháp và hiến pháp tuyên bố về mặt pháp lý một nhà nước độc lập, có
chủ quyền, là phương tiện bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước. Thứ hai, hiến


12

12

pháp phải là một bản hiến pháp dân chủ, dân chủ là điều kiện đủ cho sự ra đời
của hiến pháp, dân chủ thể hiện ở trong nội dung và cách thức ban hành, đồng
thời là phương tiện để nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ. Thứ ba,
“Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” bằng sức mạnh
“thần linh pháp quyền” của hiến pháp.
Đi sâu, tập trung phân tích những nội dung cụ thể của tư tưởng lập hiến
Hồ Chí Minh về các vấn đề vai trị, vị trí của hiến pháp; chủ quyền nhân dân; mơ
hình chính thể; tổ chức quyền lực nhà nước; về quyền con người, có một số bài
viết, cuốn sách đáng chú ý
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của hiến pháp của Tào Thị Qun [106]
phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của hiến pháp đối với việc khẳng định
chủ quyền của quốc gia, quy định thể chế nhà nước và đảm bảo quyền cơng dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng hiến pháp của Hà Thị Thùy
Dương [25] nêu lên một số vấn đề có tính ngun tắc trong xây dựng một bản
hiến pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh: kế thừa những điểm tích cực trong các
bản hiến pháp trước; phản ánh tình hình hiện tại và xu thế phát triển của đất nước
trong tương lai; đảm bảo đầy đủ quyền con người, quyền công dân; đảm bảo bản
hiến pháp phải thực sự của nhân dân; quá trình xây dựng hiến pháp phải là q
trình làm việc rất cơng phu cẩn thận, nghiêm túc.
Vấn đề chủ quyền nhân dân được các nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Dung, Trần Ngọc Đường, Nguyễn Xuân Tế, Đào Trí Úc….khẳng định trong tư

tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến và “bằng quyền lập
hiến, nhân dân trao cho nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” [18, 114], cũng như có sự phân biệt giữa hoạt động lập pháp và hoạt động
lập hiến, tức là quyền lập các quyền với các quyền đã được lập ra. Việc sửa đổi
hiến pháp cũng phải được quyết định bởi nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền
lập hiến thông qua bầu Quốc hội lập hiến và thực hiện trưng cầu dân ý. Và chỉ


13

13

khi nào thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến thì mới đảm bảo tính
hiệu lực tối cao của hiến pháp.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, các tác giả khẳng định
nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Nhà nước chỉ là cơ quan đại diện được nhân dân trao quyền, cán bộ, công
chức là “công bộc” của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân phải được thể
hiện trực tiếp ở phương thức cơ bản thiết lập bộ máy nhà nước là bầu cử trực
tiếp, theo ngun tắc “phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Quan
điểm này được Nguyễn Đình Lộc phân tích hệ thống trong cuốn sách Tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, [71] với những nội dung:
khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ nhân dân; nêu cao tinh thần phụ trách
trước dân, khơng được hao phí sức dân, phải làm mực thước cho dân; phải yêu
dân, kính dân, khơng quan liêu, tham nhũng, chống quan liêu tham nhũng; dựa
trên ý thức làm chủ Nhà nước của cơng dân; Nhà nước và nhân dân phải có quan
hệ cơng bằng, “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Hồng Chí Bảo trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính
thể dân chủ và nhà nước pháp quyền để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
[5], nêu lên trong một chính thể dân chủ, thì nhân dân là chủ; cán bộ, đảng viên

cũng như nhiệm vụ của chính quyền và đồn thể là phụng sự nhân dân. Dân đã
có quyền làm chủ thì cũng phải thi hành nghĩa vụ của người chủ. Để thực thi dân
chủ và quyền làm chủ của dân trong thực tế, Hồ Chí Minh đề cao sức mạnh của
luật pháp, của pháp chế và pháp quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Trong chương 3 cuốn sách Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước
pháp quyền của Bùi Ngọc Sơn, từ nêu dẫn chứng lịch sử, tác giả làm rõ vai trò
Hồ Chí Minh với tiến trình xác lập chính thể Cộng hòa dân chủ nhân dân ở Việt
Nam. Năm 1930, Hồ Chí Minh xác định sau khi giành độc lập sẽ tổ chức Chính
phủ cơng - nơng - binh, thực chất là việc tổ chức quyền lực nhà nước theo chính
thể cộng hịa Xơ-viết. Tuy nhiên, sau khi về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng,


14

14

quan điểm về chính thể nhà nước của Hồ Chí Minh đã có những điều chỉnh phù
hợp, từ hình thức chính phủ cơng - nơng - binh sang hình thức chính phủ nhân
dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Tác giả phân tích: Cộng hịa dân chủ
nhân dân thuộc loại hình chính thể cộng hịa dân chủ, …là một loại hình chính
thể của Nhà nước vơ sản, có những dấu hiệu đặc thù khác về bản chất so với
hình thức chính thể cộng hịa dân chủ tư sản [106, 212]. Điểm khác nổi bật là tổ
chức quyền lực nhà nước phải được đặt trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc,
quyền lực thống nhất vào nhân dân thì quyền lực nhà nước cũng có sự thống
nhất và phải có sự phân cơng minh bạch giữa các cơ quan nhà nước. Bên cạnh
đó, đây là hình thức chính trị của chun chính vơ sản, bảo đảm sự phát triển của
xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Thị Lan Phương trong Luận án Hồ Chí Minh với việc xây dựng
thể chế chính trị Việt Nam Dân chủ cộng hòa, [105] đưa ra và phân tích năm
quan điểm của Hồ Chí Minh về thể chế chính trị dành cho Việt Nam: Mơ hình

thể chế chính trị dành cho Việt Nam sau ngày độc lập là thể chế cộng hòa dân
chủ nhân dân, nhà nước không thể chuyên quyền và phi pháp quyền, chủ thể
quyền lực là nhân dân, nhà nước gồm ba nhánh quyền lực được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung quyền lực, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Tư tưởng ấy được hiện thực hóa trong q trình Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng
thể chế chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua việc chỉ đạo thiết lập mơ hình
chính quyền trước Cách mạng tháng Tám; chỉ đạo soạn thảo, ban hành hai bản
Hiến pháp, tham gia xây dựng và trực tiếp thực hiện chế định Chủ tịch nước, chỉ
đạo xây dựng các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Với vấn đề xây dựng nhà nước, các tác giả đều thống nhất tư tưởng xuyên
suốt của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp từ việc Người
chủ trương thành lập chính quyền cách mạng ở các khu giải phóng, triệu tập
Quốc dân đại hội Tân Trào cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam đến đọc
bản Tun ngơn độc lập; tổ chức Tổng tuyển cử và soạn thảo hiến pháp. Tổ chức


15

15

quyền lực nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và được thể hiện rõ nét trong hai
bản Hiến pháp 1946, 1959, cũng như trong thực tiễn xây dựng nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa là: quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân,
có sự phân công, phối hợp giữa các nhánh: lập pháp, hành pháp, tư pháp, thơng
qua việc phân định rạch rịi nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước;
ngăn ngừa sự lạm quyền của cơ quan nhà nước. Trong đó, Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến việc xây dựng một nền hành chính mạnh, một Chính phủ mạnh và dám
chịu trách nhiệm trước nhân dân. Có thể nêu một số cuốn sách, bài viết nghiên
cứu vấn đề này như:
Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, [18] các

tác giả luận giải về một số quan điểm cơ bản về nhà nước pháp quyền theo tư
tưởng Hồ Chí Minh: nhà nước được tổ chức theo hiến pháp do nhân dân thông
qua; một nhà nước dân tộc, tập trung mọi quyền lực vào Quốc hội nhưng vẫn có
sự phân công quyền lực giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó
thủ lĩnh của đảng cầm quyền là người đứng đầu hành pháp và tư pháp độc lập;
một nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân và “nếu Chính phủ làm hại đến
dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Trần Đình Huỳnh và Lê Thị Thanh trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước, pháp luật và hành chính nhà nước, phân tích tổ chức bộ máy Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xác lập trong bản Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp 1959. Các tác giả cho rằng là Người chủ trì xây dựng bản Hiến pháp
đầu tiên, thông qua những quy định về cơ cấu nhà nước, nhiệm vụ, chức năng
của các nhánh quyền lực nhà nước, Hồ Chí Minh giải quyết thỏa đáng mối quan
hệ giữa cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Điểm đặc
sắc trong tư duy Hồ Chí Minh là rất coi trọng hoạt động hành chính và đã chủ
trương xây dựng hành chính mạnh, quy định rõ trách nhiệm của thành viên
Chính phủ từ Chủ tịch nước đến từng Bộ trưởng và các nhân viên cơ quan nhà
nước.


16

16

Đức Vượng trong bài viết Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây
dựng chính quyền trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp năm 1959 [138] nêu vấn
đề: Toàn bộ vấn đề chính quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong
Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Theo
quan điểm của Người, hiến pháp của nhà nước ta phải thể hiện cho được nguyên
tắc tập trung dân chủ trong việc bầu cử và điều hành của bộ máy chính quyền; có

sự phân định rõ ràng chức năng, quyền hạn của từng cơ quan; phải thể hiện cho
được tinh thần đồn kết và tinh thần cần, kiệm, liêm, chính của hoạt động chính
quyền nhà nước.
Nguyễn Văn Thảo trong bài viết Thiết kế bộ máy nhà nước theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, in trong Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, [151, tr. 111-135] cho rằng tư tưởng về thiết lập một chính quyền mạnh,
sáng suốt của nhân dân, hoạt động vì lợi ích của nhân dân là tư tưởng nhất quán
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đã thiết kết một bộ máy nhà nước thể
hiện tập trung ở các định chế Hiến pháp 1946, được hoàn thiện trong Hiến pháp
1959. Bộ máy nhà nước gồm: Quốc hội (Nghị viện nhân dân) là cơ quan cao
nhất của đất nước nhưng không phải là cơ quan tập trung mọi quyền lực, Chính
phủ là cơ quan hành chính cao nhất, Tịa án thực hiện quyền xét xử theo nguyên
tắc độc lập.
Luận giải vấn đề phân công quyền lực nhà nước, Nguyễn Minh Tuấn [140,
tr. 214-227] cho rằng trong Hiến pháp 1946 có cơ chế phân quyền tương đối
được thể hiện theo chiều ngang và chiều dọc nhằm chống độc quyền, chuyên
chế, bảo vệ chính quyền nhân dân. Nội dung bản Hiến pháp cho thấy có sự thống
nhất quyền lực, nhưng chưa rõ về quyền lực tuyệt đối, các nhánh quyền lực vẫn
có tính độc lập tương đối, khơng có bất kỳ một cơ quan nào nào, dù thẩm quyền
cao đến đâu có thể nắm toàn bộ quyền lực. Phân quyền theo chiều dọc làm cho
chính quyền địa phương được chủ động theo từng cấp, đồng thời minh thị cơ chế
chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu mắc sai lầm. Việc kiểm soát quyền lực


17

17

được thực hiện bằng kiểm soát bên trong giữa các cơ quan nhà nước, đặc biệt
giữa Nghị viện nhân dân với Chính phủ; kiểm sốt bên ngồi bằng hàng loạt các

quyền hiến định, được thừa nhận, bảo đảm và bảo vệ.
So sánh những thay đổi tổ chức bộ máy nhà nước từ Hiến pháp 1946 đến
1959, có quan điểm đánh giá đó là sự thay đổi cần thiết, phù hợp với tình hình
đất nước “Sự thay đổi ở đây là thay đổi cả nội dung nhiệm vụ nhà nước, thay đổi
cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, thay đổi cả những quy định về chức năng
quyền hạn của Chủ tịch nước” [123, tr. 82] và “Điều đó chứng tỏ rằng, Hồ Chí
Minh ln ln thấm nhuần tinh thần đổi mới và thực hiện sự đổi mới trong quá
trình xây dựng nhà nước và pháp luật ở nước ta” [123, tr. 83]. Có tác giả cho
rằng, đã có sự phát triển về mặt lý luận và thực tiễn về tổ chức bộ máy nhà nước
trong giai đoạn thực hiện Hiến pháp 1959 trên ba điểm: nguyên tắc chỉ đạo việc
tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước; mơ hình tổng thể của bộ máy nhà nước;
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước [17,
tr. 23]. Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng bộ máy nhà nước của Hiến pháp
1959 có nhiều quy tắc thể hiện những nguyên tắc của việc tổ chức và hoạt động
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các quy định của việc phân công, phân nhiệm
rạch rịi giữa các cơ quan, sự kìm chế và đối trọng giữa các thiết chế quyền lực
nhà nước khơng cịn trong nội dung các quy định của Hiến pháp, mà nhường chỗ
cho các quy định thể hiện sự tập trung quyền lực vào các cơ quan đại diện do
nhân dân bầu ra. [17, tr. 26-27].
Vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh đã được một số cơng trình đề cập đến. Các tác giả thống nhất
nhận định với Hồ Chí Minh, quyền con người là một nội dung cơ bản của hiến
pháp. Quyền con người gắn bó chặt chẽ với quyền dân tộc và quyền dân tộc,
quyền con phải được thể chế hoá bằng hiến pháp - đạo luật cơ bản của đất nước.
Trong các bản Hiến pháp do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo, quyền và
nghĩa vụ công dân được trang trọng đặt ngay ở chương đầu tiên, khẳng định đó


18


18

là những quyền vốn có, tự nhiên của con người chứ không phải là sự ban phát từ
nhà nước. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: quyền và nghĩa vụ cơ bản của
cơng dân chỉ có thể được thực hiện khi có một bộ máy nhà nước vững mạnh, nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Phạm Ngọc Anh
chủ biên, [1], các tác giả trình bày một cách hệ thống những nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người: các quyền chính trị - dân sự, quyền
kinh tế, văn hóa xã hội, quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; các quyền theo giới,
lứa tuổi, dân tộc: quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền các dân tộc thiểu số trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trên thực tế, những quyền con người chính đáng
đó đã được ghi nhận trang trọng trong hai bản Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm Trưởng ban soạn thảo, cũng như trong các bản Hiến pháp về sau của
Việt Nam.
Phạm Ngọc Dũng trong Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin về xây dựng nhà nước pháp quyền, [24], khẳng định đảm bảo
quyền con người là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh. Nhà nước pháp quyền
theo quan điểm của Người là nhà nước trước hết phải bảo vệ quyền con người.
Bài viết Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền cơng dân
của Hồng Văn Hảo phân tích tư tưởng lập pháp vì con người của Hồ Chí Minh
được thể hiện trong Yêu sách của nhân dân An Nam và cụ thể hóa qua những
quy định cụ thể về các quyền bình đẳng, quyền chính trị, quyền tư hữu tài sản…
trong các điều khoản của các bản Hiến pháp Việt Nam. Tác giả đánh giá cao
những giá trị quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 “mặc dù ra
đời trong hồn cảnh hết sức khó khăn, nhưng Hiến pháp 1946 đã long trọng ghi
nhận những giá trị quyền con người mà nhân dân ta đã giành được, xem nó là
nội dung cốt lõi của Hiến pháp dân chủ” [138, tr. 223].
Trên thế giới, các nghiên cứu về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, trong đó
có tư tưởng lập hiến cịn khá ít ỏi. Tsuboi Yoshiharu trong tham luận “Khảo cứu



19

19

lại Hồ Chí Minh” cho rằng Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa
và giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời của mình là những
giá trị của nền Cộng hịa. Từ sự phân tích nhận thức Hồ Chí Minh về tinh thần
nền Cộng hịa Pháp, tác giả cho rằng “có lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị
duy nhất ở Đông Á nhận thức một cách đúng đắn nhất tinh thần nền Cộng hịa và
Ơng đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam.” [129].
Geetesh Sharman trong bài Đấng cứu tinh của hịa bình, độc lập và hạnh
phúc, [35] khẳng định nhân dân ln là tâm điểm của q trình tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong lời nói và việc làm của Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh đến độc lập
và phúc lợi của nhân dân; luôn đề ra và thực thi những chính sách, chiến lược
theo hướng coi nhân dân là nhân tố quyết định. Người đã đồng hóa cái cốt lõi
của tồn bộ kinh nghiệm với triết lý của mình và do đó triết lý chính trị theo định
hướng vì nhân dân hoàn toàn thực dụng và thực tiễn. So với các vĩ nhân của thời
kỳ hiện tại thì những lý tưởng và chính sách của Hồ Chí Minh dễ hiểu hơn đối
với quyền lợi của nhân dân.
Mark Sidel trong cuốn sách một cuốn sách “The Constitution of Vietnam A Contextual Anlysis.” (Hiến pháp Việt Nam - Phân tích bối cảnh) [74] đánh giá
Hiến pháp 1946 là một bản Hiến chương cho độc lập và thống nhất. Khác biệt so
với các hiến pháp xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1946 đã cố gắng xây dựng
tính đại đồn kết dân tộc rộng rãi trước một Chính phủ non trẻ [74, tr. 27]. “Hiến
pháp 1946 không đặt ra các lý thuyết kinh tế, không sử dụng một cách dập
khuôn các tư tưởng cộng sản, cũng như sự chiến thắng của chuyên chính vơ sản.
Hiến pháp 1946 khơng giống Hiến pháp của nền Đệ tứ Cộng hịa Pháp năm 1946
nhìn từ các quy định cụ thể... Giống như Bản Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp
1946 chịu ảnh hưởng của các nhà nước Alglo-Saxon, đặc biệt là Hoa Kỳ”. [74, tr.

27-28]. Những điểm mà Mark Sidel đánh giá là tiến bộ của Hiến pháp 1946 đó là
quyền bầu cử ứng cử, quyền bảo đảm sở hữu tài sản, phúc quyết và bãi miễn; tổ
chức quyền lực nhà nước đã trao cho Chủ tịch nước vị trí đặc biệt và quy định về
bỏ phiếu khơng tín nhiệm với Bộ trưởng, Nội các; tính dân chủ trong quy trình
tư pháp. Theo tác giả, Hiến pháp 1946 có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo


20

20

thống nhất quốc gia dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng cách xác lập
khuôn khổ tổ chức một nhà nước và thu hút tối đa sự ủng hộ của mọi tầng lớp
trong xã hội đối với Nhà nước mới [74, tr. 33-34]. Những điểm hạn chế là Hiến
pháp 1946 khơng có quy định nào trực tiếp về bảo hiến, quyền lực quá lớn của
Ban Thường vụ, thiếu cơ chế bảo đảm tính độc lập của Tịa án, Hiến pháp không
được công bố nên một số hoạt động thực thi chính sách sau đó có dấu hiệu vi
hiến như vấn đề thực thi chính sách ruộng đất.
Jean-Marie Crouzatier, một giáo sư luật của Pháp cho rằng Hiến pháp đầu
tiên ở Việt Nam khơng có chút nào của các bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Hiến
pháp 1946 có mục tiêu phù hợp với tối đa nguyện vọng của đa số người dân
trong các quy định về quyền chính trị, kinh tế, xã hội; bảo đảm vai trò của người
dân thơng qua quyền phúc quyết tồn dân, bảo đảm tư hữu tài sản, thiết lập chế
độ chịu trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, thiết lập một Nghị viện có
nhiệm kỳ ngắn tối thiểu (3 năm) [59, tr. 56].
Trái với quan điểm trên, Stein Tonnesson trong bài viết “Ho Chi Minhs
First Constitution (1946) - Hiến pháp đầu tiên của Hồ Chí Minh (1946) [113]
cho rằng bản hiến pháp đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khơng có vị trí
đáng kể trong lịch sử Việt Nam. Giải thích điều này, tác giả đưa ra 5 lý do. Thứ
nhất là những khiếm khuyết về nội dung của bản hiến pháp: vấn đề chủ quyền

nhân dân; khơng có sự phân chia quyền lực giữa các ngành lập pháp, hành pháp
và tư pháp; thiếu vắng cơ chế bảo hiến. Thứ hai, về quy trình lập hiến đã khơng
tập hợp được tồn bộ các yếu tố và lực lượng chính trị cốt lõi, có ảnh hưởng ở
Việt Nam vào thời điểm đó và thể hiện trong hiến pháp. Thứ ba, hiến pháp Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc, có thể nói là sao chép cả quy trình lập hiến và nội
dung của bản Hiến pháp Đệ tứ Cộng hòa Pháp năm 1946. Thứ tư, hiến pháp
không được trưng cầu dân ý. Thứ năm, hiến pháp được xây dựng trong một giai
đoạn lịch sử đặc biệt của phong trào cộng sản quốc tế, nên Đảng Cộng sản theo
đuổi chính sách dân tộc thay vì giai cấp.


21

21

Mặc dù có những quan điểm trái chiều, nhưng các bài viết giúp chúng ta
có một cái nhìn đầy đủ hơn, đa chiều hơn về hiến pháp Việt Nam, cũng như các
vấn đề khi nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được thể hiện qua Hiến
pháp 1946.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về giá trị tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh
Đến nay các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh chủ
yếu mới nêu và phân tích về phần nội dung tư tưởng, ít cơng trình đi sâu khảo
cứu về phần giá trị. Tuy nhiên, trong các cuốn sách, bài viết về hiến pháp, đặc
biệt là Hiến pháp 1946, các tác giả phần nào đề cập giá trị tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh ở việc đặt nền móng chủ nghĩa lập hiến mới và chế độ chính trị mới ở
Việt Nam, sự sáng tạo về mơ hình nhà nước, đề cao chủ quyền nhân dân, quyền
công dân... được thể hiện trong nội dung và cách thức xây dựng bản Hiến pháp
này.
Từ tư tưởng lập hiến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến Hiến pháp 1946
của Ngơ Văn Thâu trình bày sự phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh từ

những năm Người ra đi tìm đường cứu nước đến bản Hiến pháp 1946, trong đó
tác giả tập trung phân tích ba nguyên tắc được ghi trong Hiến pháp 1946 “là sự
thể hiện tập trung nhất tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh. Đấy là những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và cách mạng, là những phạm trù lập
hiến của các nước phương Tây, của Liên Xơ được khái qt hóa và vận dụng vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam trên cơ sở phát huy truyền thống yêu nước, căm
thù giặc ngoại xâm, nhân ái, đoàn kết của nhân dân ta” và “ba nguyên tắc ấy là
một thể thống nhất, có quan hệ nội tại cần được nghiên cứu, vận dụng” [119, tr.
16].
Bài viết Bác Hồ với Quốc hội và bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam
Dân Chủ cộng hòa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá cao Hiến pháp
1946 dưới sự điều hành của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mặc dầu đất nước đang hết


22

22

sức bộn bề với muôn vàn công việc khẩn cấp, Ban dự thảo Hiến pháp đã họp
nhiều phiên dưới sự chủ tọa trực tiếp của Bác. Với trí tuệ uyên bác, với quan
điểm lấy dân làm gốc, Bác đã đưa vào bản Hiến pháp đầu tiên ở nước ta những
điều luật ngang tầm với nền chính trị tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ và nhiều
điều cịn có giá trị nóng hổi tính thời sự đến ngày hơm nay” [138, tr. 22].
Bài “Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về hiến trị, đức trị” của Lê
Văn Hịe [43], từ sự phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về lập pháp, lập hiến tác
giả kết luận: Tư tưởng hiến trị, pháp trị dân chủ của Hồ Chí Minh thể hiện tính
khoa học, sáng tạo sâu sắc. Tư tưởng ấy mãi mãi là kim chỉ nam cho sự nghiệp
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam cùng với công cuộc xây dựng nhà
nước và pháp luật hiện nay.
Trong bài Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam, Đào

Trí Úc, khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập ra nhà nước Việt
Nam mới sau khi Việt Nam giành độc lập năm 1945, đồng thời là người sáng lập
về chủ nghĩa lập hiến Việt Nam hiện đại. Trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh,
các yếu tố dân chủ, hiến pháp và pháp luật, quyền con người gắn bó với nhau vì
hiến pháp được coi là tiền đề, nền tảng pháp lý cho quyền lực chính trị của nhân
dân và bảo đảm quyền tự do, thực sự con người. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là tiền
đề quan trọng cho việc xây dựng và phát triển một nền chính trị trên nền tảng
hiến pháp” [131, tr. 3].
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam, [102] Bùi
Đình Phong rút ra một số giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh. Về giá trị lý luận, tác giả nêu ba điểm: giá trị nhân văn, tất cả vì con
người; giá trị khoa học thể hiện ở việc chắt lọc quan điểm lập hiến của Anh,
Pháp, Mỹ, Nga và từ thực tiễn Việt Nam; giá trị cách mạng trong việc xóa cái ác,
trau dồi cái thiện. Về giá trị thực tiễn, tác giả cho rằng cần vận dụng tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh trong xây dựng con người, tăng cường giáo dục văn hóa làm
người, nâng cao năng lực lãnh đạo cầm quyền và phẩm chất đạo đức của Đảng,


23

23

cán bộ đảng viên và mỗi công dân trong quá trình vận hành bộ máy nhà nước
pháp quyền.
Phân tích giá trị mơ hình nhà nước trong Hiến pháp 1946, các nhà nghiên
cứu về cơ bản thống nhất nhận định: tổ chức quyền lực Hiến pháp 1946 là sự thể
hiện rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.
Hồ Chí Minh lựa chọn mơ hình tập quyền, quyền lực cao nhất thuộc về các cơ
quan dân cử, nhưng có sự phân cơng rành mạch, hợp lý giữa các nhánh quyền
lực. Người không áp dụng mơ hình phân quyền như các nước tư sản, không tạo

ra sự phân lập giữa các quyền theo kiểu quyền lực đối chọi quyền lực. Điểm nổi
bật trong mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1946 là đề cao vai
trò của Nghị viện nhân dân, nhấn mạnh vai trò của Nghị viện trong giám sát
Chính phủ, đề cao tính độc lập của hệ thống Tịa án, phân quyền rõ nét và hợp lý
cho chính quyền địa phương.
Trong Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh [44], Vũ Đình Hịe cho rằng
“Hiến chính Hồ Chí Minh mà Cách mạng tháng Tám xác nhận và thực thi bằng
bản Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bằng
hệ thống Quốc hội và Hội đồng nhân dân - Ủy ban hành chính xuất hiện dồn dập
- là một Hiến chính dân tộc dân chủ, mang đậm sắc thái đất nước và con người
Việt Nam” [44, tr. 348]. Tác giả nhận định cái bất biến trong tư tưởng hiến chính
Hồ Chí Minh là quyền tự do, bình đẳng của con người, cái bất biến trong tình
cảm và lý trí của Người là nhân đạo và chính nghĩa, là u nước, thương nịi. Cốt
lõi trong tư tưởng của Người là Nhân nghĩa, là Pháp lý tự nhiên, pháp lý nhân
bản, chứa đựng tư tưởng hiến chính sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều
này tiếp tục được tác giả khẳng định và làm rõ ở cuốn sách cùng tên xuất bản sau
đó “Hai bản Hiến pháp 1946, 1959 được xây dựng trên những nguyên tắc dân
chủ đặc sắc, chưa từng thấy ở đâu, là một Nhà nước toàn dân, một nền pháp
quyền toàn dân và một mơ hình cao q Đảng tồn dân. Ngay cả những luận
điểm Nhà nước - pháp quyền, xã hội cơng dân, đến nay thế giới mới nêu thì trên


24

24

thực tiễn cách mạng Việt Nam, khơng có gì xa lạ với Bác Hồ chúng ta” [45, tr.
741].
Trong một số bài viết của mình, Nguyễn Đăng Dung so sánh thể chế nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hiến pháp 1946 với các thể chế nhà

nước Xô viết, Cộng hòa Đại nghị, Tổng thống Cộng hòa để thấy rõ sự sáng tạo
tài tình của Hồ Chí Minh trong thiết lập thể chế nhà nước độc đáo, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam. Tác giả khẳng định “Có thể nói, Hồ Chủ tịch và các đồng chí
của Người đã tìm ra một mơ hình đặc thù của nhà nước Việt Nam phù hợp với
điều kiện ở một dân tộc phương Đơng muốn thốt khỏi chế độ thực dân nửa
phong kiến, muốn xây dựng một cuộc sống đầy đủ, ấm no cho nhân dân, độc lập
có chủ quyền cho quốc gia của mình và khơng phải phụ thuộc vào các nước
mạnh khác” [19, tr. 19]. Với việc sáng tạo một chính thể cộng hịa đặc biệt, Hồ
Chí Minh đã đặt nền móng cho sự hình thành một loại hình của chính thể lưỡng
tính cộng hịa hiện đại. Tác giả cho rằng giá trị lớn nhất của mơ hình tổ chức nhà
nước của Hiến pháp 1946 là quy định về bản chất dân tộc, không phân biệt giai
cấp của nhà nước.
Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam, Nguyễn Anh Tuấn chủ biên, từ sự phân tích đặc điểm mơ hình chính
thể Cộng hòa nhân dân, các tác giả đánh giá “Xét một cách tổng thể, chính thể
cộng hịa nhân dân là một chính thể đặc thù, sản phẩm của sự sáng tạo độc đáo
của Hồ Chí Minh từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tính chất đặc thù của chính
thể Cộng hịa dân chủ nhân dân mà Chủ tịch sáng tạo ra khơng ngừng được phát
huy trong q trình hồn thiện mơ hình tổ chức quyền lực Nhà nước Việt Nam”
[126, tr. 82-83].
Trong chương 3 cuốn sách Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp kinh nghiệm
Việt Nam và thế giới, các tác giả dành một mục để phân tích những giá trị của
Hiến pháp 1946 là tạo ra mơ hình tổ chức nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
khơng hồn tồn giống bất kì mơ hình nhà nước nào: cơ sở nhà nước là toàn dân


25

25


tộc không phân biệt giai cấp và tài sản, một cơ cấu nhà nước với bộ máy hành
pháp mạnh; so với bản hiến pháp sau này là bản Hiến pháp có nhiều dấu ấn chủ
nghĩa hợp hiến hơn cả thể hiện cách tiếp cận gần với quyền con người nhất, điều
khoản về quyền tư hữu tài sản, suy đốn vơ tội và quy định về sự phân quyền
nhằm hạn chế quyền lực, chống lại sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước
nhằm bảo vệ nhân quyền. Các tác giả phân tích vai trị điều hành của Hồ Chí
Minh với sự ra đời của bản Hiến pháp 1946, đặc biệt trong việc tập hợp nhân tài
soạn thảo hiến pháp. Từ đó các tác giả rút ra bài học: “Muốn cách mạng thành
công việc áp dụng các học thuyết và kinh nghiệm của các nước trên thế giới vào
Việt Nam phải có sự vận dụng sáng tạo và ngược lại, khơng có sự vận dụng sáng
tạo đều tạo ra những cơ sở cho sự thất bại” [20, tr.246-247].
Bùi Ngọc Sơn nêu những vấn đề cần tiếp tục kế thừa và phát triển tư
tưởng lập hiến trong điều kiện hiện nay. Đó là tư tưởng về một nền pháp quyền
với việc tăng cường các thiết chế giám sát quyền lực ở các cơ quan lập pháp, tư
pháp; với việc xây dựng đạo đức và hình thành tư duy phục vụ trong cơng
quyền. Bên cạnh đó, từ sự phân tích các nội dung, một số điểm hạn chế trong
Hiến pháp 1992, tác giả nêu lên yêu cầu phải trở lại giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
về bảo đảm thực sự quyền lập hiến thuộc về nhân dân, các vấn đề về dân quyền,
về triết lý thần linh pháp quyền, về Chính phủ và một nền tư pháp. Đối với việc
xây dựng Chính phủ trong một nền pháp quyền, tác giả nêu lên các yêu cầu: cơ
cấu phải tinh gọn, thẩm quyền phải mạnh, Chính phủ phải tồn tại trong mơi
trường đạo đức trong sạch, Chính phủ phải minh bạch và tăng cường ý thức trách
nhiệm trong hoạt động của mình. Đối với việc xây dựng nền tư pháp độc lập, tác
giả nhấn mạnh các yếu tố: cần tổ chức tòa án theo cấp xét xử, cải tiến thủ tục tố
tụng, tăng cường và nâng cao chất lượng cũng như có sự quan tâm đúng mức
đến đời sống của các thẩm phán, thiết lập hệ thống những thông số để đánh giá
về mức độ độc lập của toà án [109].
Đối với vấn đề quyền con người, các nhà nghiên cứu khẳng định: Hồ Chí
Minh có cách tiếp cận sáng tạo về quyền con người, có sự kết hợp hài hịa giữa



×