Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

luận văn sư phạm Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.16 KB, 81 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới WTO. Nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế tế
giới. Cơ cấu xã hội cũng đang trong quá trình biến đổi. Phân hóa giàu nghèo,
phân tầng xã hội diễn ra phức tạp. Tình hình trên đã và đang tác động đến sinh
viên về ý thức chính trị, tâm trạng, đạo đức, lối sống… Quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới đang làm cho
những tác động đó ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn.
Trải qua hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong mọi lĩnh
vực đã tác động tích cực đến thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho họ tiến bộ về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sông, trình độ học vấn, khoa học công nghệ. Họ đã kế tục
xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nét nổi bật của sin viên là ý chí
vươn lên, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, ham mê nghiên cứu
ứng dụng khoa học công nghệ.
Đại bộ phận sinh viên giữ vững đạo đức cách mạng, sống trong sạch, giản
dị, lành mạnh biết vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Họ sống có hoài bão, lý
tưởng, niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Họ tích cực học tập, rèn luyện
đạo đức, Giám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công bằng, lên án cái xấu, cái ác,
tham nhũng, lãng phí…những tấm gương cao đẹp hi sinh thân mình vì hạnh phúc,
lý tưởng độc lập dân tộc được sinh viên học tập và làm theo. Điều đó cho thấy, thế
hệ trẻ của nước ta hiện nay vẫn ý thức rõ trách nhiệm trước Tổ quốc.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, những thách thức của hội
nhập kinh tế thế giới, đặc biệt những âm mưu của các thế lực thù địch đang tác
động mạnh mẽ đến sinh viên, khiến cho không ít người chạy theo lối sống thực
dụng xa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có thái độ
thờ ơ, bàng quang trước các vấn đề chính trị, xã hội của đất nước. Một số sinh
viên bỏ bê việc học, ham chơi, lười lao động. Rất nhiều sinh viên ra Thành phố
học tập nhiễm các thói hư tật xấu. Đa số những sinh viên đó thường nghiện net
1
bỏ bê học hành, xa vào các tệ nạn lô đề, cờ bạc, rượu chè… Và khi hết tiền thì


họ rất dễ nảy sinh trộm cắp, dần dần tha hóa đạo đức và thậm trí trở thành tội
phạm xã hội. Nghiêm trọng hơn là có một số sinh viên ham chơi đua đòi bạn bè
rủ rê gây nghiện hút, mại dâm…Những hiện tượng đó trước hết là nguy cơ đe
dọa chính tương lai bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành
mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Bên cạnh đó là sự lợi dụng,
chống phá của các thế lực thù địch. Vì vậy hơn bao giờ hết cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay đặc biệt là đối tượng sinh viên nói
chung và sinh viên trường ĐHSP Hà Nội nói riêng.
Việc tuyển chọn sinh viên vào các trường sư phạm, việc tuyển dụng giáo
viên đang nặng về trình độ học lực, xem nhẹ lòng yêu nghề, chưa chú trọng rèn
luyện kỹ năng sư phạm và nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo. Người giáo
viên sẽ là tấm gương cho học sinh học tập, noi theo. Họ không những là người
giáo dục kiến thức mà còn trực tiếp là người giáo dục đạo đức. Đào tạo được đội
ngũ thầy cô giáo có phẩm chất đạo đức tốt thì mới có thể giáo dục được thế hệ
học sinh có phẩm chất đạo đức tốt, trở thành công dân tốt có ích cho xã hội. Vì
vậy, cần phải đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên trường sư phạm nói chung và sinh viên trường ĐHSP Hà Nội nói
riêng. Và đặc biệt chú trọng đến nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di
sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất
nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Bên cạnh đó Hồ Chí Minh
là một trong số hiếm các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến vấn
đề đạo đức một cách toàn diện và quy định cụ thể các chuẩn mực đạo đức cách
mạng đúng với từng đối tượng người, ngành nghề, giới tính. Người luôn quan
tâm đặc biệt đến thế hệ trẻ và xây dựng một hệ thống nội dung giáo dục đạo đức
riêng cho học sinh, sinh viên.
2
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn

hiện nay” là đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình với những hy vọng nâng
cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức cho sinh viên ĐHSP Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Bàn về giáo dục đạo đức đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học nổi tiếng trong nước như sau:
- Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn văn Phúc: "Những vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay". Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội -2003.
Tác phẩm nghiên cứu về những tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức của con
người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng và những biến đổi cả tích cực
lẫn tiêu cực của đạo đức trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới. Từ đó đưa ra những
vấn đề của đạo đức trong giai đoạn hiện nay, và các biện pháp phát huy những mặt
tích cực cũng như khắc phục những hạn chế của đạo đức trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm Quốc Thành với “Tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức
cho cán bộ đảng viên“. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội -2004. Tác phẩm bàn về
vai trò, tầm quan trọng của yếu tố đạo đức đối với người casv bộ Đảng viên.
Yêu cầu cần phải bồi dưỡng đạo đức cho cán bộ Đảng viên trước những biểu
hiện xuống cấp về đạo đức, tham nhũng, lạm dụng chức quyền,… của một số
cán bộ Đảng viên. Từ đó đặt ra yêu cầu cho người cán bộ Đảng viên cần phải
rèn luyện đạo đức và cụ thể là đạo đức cách mạng. Để có thể phục vụ đất nước,
phục vụ nhân dân.
- GS.La Quốc Kiệt với “Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” Nxb.CTQG, Hà Nội
-2003. Tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức, tư tưởng của con người trước những
biến đổi của điều kiện kinh tế xã hội. Những tư tưởng tích cực, lành mạnh, phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bên cạnh đó là những tư tưởng lệch lạc, đi
ngược lại với lợi ích chung của nhân dân, của dân tộc. Vai trò, tầm quan trọng
và yêu cầu cần thiết phải bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người.
3
Nói chung vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng hiện đã và đang được Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội ta quan tâm. Cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề

này nhưng mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau và là những vấn đề
chung về đạo đức. Đề tài , “Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo
dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay” sẽ đi sâu vào đối tượng cụ thể đó chính là sinh viên trường ĐHSP Hà Nội –
thế hệ trẻ chủ nhân tương lai của đất nước và sau này cũng là những nhà giáo –
người sẽ trực tiếp giáo dục đạo đức cho những thế hệ sau.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh từ đó đề xuất những biện pháp
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên trường ĐHSP Hà Nội.
- Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh
viên trường ĐHSP Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Tìm hiểu nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Khảo sát tình hình thực trạng việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên trường ĐHSP Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh
viên trường ĐHSP Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
- Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng
hợp, điều tra, thống kê.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường ĐHSP Hà Nội trong giai đoạn
hiện nay.
4
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Sinh viên trường ĐHSP Hà Nội.

6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
5
CHƯƠNG I: TƯ TUỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
1.1. Các khái niệm.
1.1.1. Đạo đức.
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris,
nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos,
cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm thì
“đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử của con
người trong cộng đồng, trong xã hội”.
Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc
cổ đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong
xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện
của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, “đạo đức chính là những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo”.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin, đạo đức xét đến cùng
là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó
phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã
hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [7,
tr.371]. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì
góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những
người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của
những người cộng sản”. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa
học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không

thể đạt tới.
Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui
tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ
xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
6
Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã
hội và quan hệ với tự nhiên.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự
giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội,
với tự nhiên và với cả bản thân mình. [25

]
Theo đạo đức học thì đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau, với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá
khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội. [5, tr 816]
Theo Hồ Chí Minh: Đạo đức là toàn bộ những quan điểm về thiện ác,
lương tâm, danh dự, trách nhiệm, về lòng tự trọng, về công bằng hạnh phúc và
về những qui tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với người, cá
nhân với xã hội. Người cho rằngđạo đức là cái gốc của người cách mạng và
Người đã khái quát lên những phẩm chất đạo đức chung, cơ bản nhất của con
người Việt Nam trong thời kỳ hiện đại là: trung với nước, hiếu với dân; yêu
thương con người; Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư; tinh thần quốc tế
trong sáng. Trong đó, những phẩm chất như: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công
vô tư được Người quan tâm nhiều nhất, bởi những phẩm chất này gắn liền với
đời sống của mỗi người, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói và việc làm,

giữa suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng,
cũng như với bản thân; trong sinh hoạt đời thường, cũng như trong hoạt động
nghề nghiệp, nó chi phối nhiều phẩm chất khác của con người.
Như vậy, từ những quan điểm trên về đạo đức của các nhà nghiên cứu ta
có thể rút ra kết luận về khái niệm của đạo đức như sau: đạo đức là hệ thống
những qui tắc chuẩn mực về hành vi, cách ứng xử giữa con người với con người
và giữa con người với tự nhiên. Thể hiện ý thức tự giác của mỗi người thông
qua hành động của họ. Và được đánh giá và điều chỉnh bởi dư luận xã hội.
7
1.1.2. Đạo đức Hồ Chí Minh.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một người cộng sản mẫu mực, kiên
định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ nghĩa
yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công
nhân cách mạng.
Đó là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời và
sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
công nhân, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh
là đạo đức cách mạng, đạo đức hành động vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức của người cách mạng là trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý
trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng…
Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là ở
hành động, ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét
trong 3 mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong 3 mối
quan hệ đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi, chuẩn mực
đạo đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với chính bản thân hay không? Thái
độ của mình đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng chí, đồng đội, cấp

trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng, với Nhà nước, đối
với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý đối với công việc hay
không? Điều đó xác định đạo đức của mỗi con người.
Trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai - Giám đốc Sở công an Khu XII,
Người viết:
Tư cách người công an cách mạng là:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
8
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo [12, tr.406-407].
Đạo đức được xác định trong mối quan hệ với mình, với người và với
công việc.
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải chỉ là
những lý tưởng cao xa mà còn là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của
mỗi người hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập, trong
lao động và trong chiến đấu.
Mặt khác, ở đây Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo
đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời
thường tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách
mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường. Vì vậy, không thể bào chữa cho
khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi không
liên quan gì với cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của Đảng, của
cách mạng, của Tổ quốc, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược
với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện
trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ
lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công

tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi
từ gia đình tới ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế.
Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn
mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống
xã hội và mỗi con người.
Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý nghĩa
cơ bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời Người
cũng chỉ rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công nhân, nông
9
dân, TN, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an … Song đối tượng Người
chú ý nhiều nhất là đạo đức của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và
cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất,
ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác–Lênin. Đó là
kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai
cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc
cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu
ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng
vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [13, tr.320-321]. Đạo đức cũ - đạo đức
thực dân, phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người,
tàn phá con người. Còn đạo đức mới là vì nước, vì dân; là “dĩ công vi thượng”.
Đây là đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “không vì danh vọng của cá nhân, mà
vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [12, tr.252].
Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví đạo đức đối với
người cách mạng như là sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí
Minh, nhiệm vụ cách mạng hoàn toàn không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ cũng
khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi người cách mạng
phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ
“thắng không kiêu, bại không nản”. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức

cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [16, tr.283].
Người cán bộ đảng viên lại càng cần phải có đạo đức cách mạng. Vì “không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [12, tr.253].
Theo Người, lãnh đạo không phải là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo,
thuyết phục. Để lôi kéo thuyết phục con người, trước hết phải từ cái tâm, cái đức
của con người, phải miệng nói, tay làm, phải đầu tàu gương mẫu. Người dạy
muốn hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thì cán bộ đảng viên phải mực thước, phải
“Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [14, tr.568].
10
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” thì
mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc và xây dựng thành công CNXH trên đất
nước ta. Người cũng nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và
cống hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH.
Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối
hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và
“chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt
này, thiếu mặt kia. Nói chuyện tại Đại hội SV Việt Nam lần thứ II, Người cho
rằng: “TN phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh
tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì
ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví
như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [16,
tr.172]. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình
độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ
những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ
với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó, người ta đánh
giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được

làm và về nghĩa vụ phải làm.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm
vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người
viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
11
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của
mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay
kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối
hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người
vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là
gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
* Tính thống nhất và phạm vi đề cập của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức
Tư tưởng đạo đức của Người là sự thống nhất giữa chính trị và đạo đức
giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức, giữa đức và tài, giữa đạo đức cách
mạng và đạo đức đời thường.
Tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao quát mọi đối tượng,
tầng lớp nhân dân, đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trên mọi
quan hệ xã hội với phạm vi rộng, hẹp khác nhau.
* Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam thời đại
mới
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền

thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với
dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của
Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức
cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng
12
trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Hai là, yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất
đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người
cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành".
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt
họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái không phân biệt
một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong
tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm
khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng
ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt
ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó
là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng
người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm
cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải
đập cho tơi bời".

Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. - Theo Hồ Chí Minh thì: Cần
tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta".
13
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không
phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù, quí trọng sức lao động.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong
sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham
sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự
cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển
điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", đặt việc chung lên trên
hết.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. Đó là, tinh thần đoàn kết
quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản

đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách
mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc;
là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên
thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời
đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
1.1.3. Giáo dục đạo đức
14
* Đạo đức
Đạo đức là một hệ thống những quy tắc, những chuẩn mực mà qua đó
con người tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình vì hạnh phúc của cá
nhân, lợi ích của tập thể và cộng đồng.
* Giáo dục
Hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp
tác động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và
lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục
tiêu chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.
* Giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là quá trình biến chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi
bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản
thân thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục.
+ Mục tiêu giáo dục đạo đức
Chuyển hóa những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những
phẩm chất đạo đức nhân cách cho học sinh, hình thành ở sinh viên thái độ đúng
đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen
chấp hành các quy định của pháp luật.
+ Chức năng giáo dục đạo đức
Làm cho sinh viên thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, sống và làm việc theo
pháp luật, sống có kỷ cương, nền nếp, có văn hóa trong các mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người với nhau.
+ Giáo dục đạo đức cho sinh viên
- Mục đích: Giúp sinh viên nhận thức được các chuẩn mực đạo đức của xã
hội, rèn luyện kỹ năng, hành vi theo các chuẩn mực đó và hình thành thái độ, ý
thức trong sinh viên về đạo đức.
15
- Nội dung: Lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu hoà bình, có tinh
thần cộng đồng và quốc tế, có tinh thần lao động sáng tạo, có thái độ xây dựng
và bảo vệ môi trường
- Phương pháp: Phương pháp tác động vào nhận thức tình cảm: đàm thoại,
tranh luận, kể chuyện, giảng giải, khuyên răn; phương pháp tổ chức hoạt động
thực tiễn: giao việc, rèn luyện, tập thói quen…; phương pháp kích thích tình
cảm và hành vi: thi đua, nêu gương, khen thưởng, trách phạt…
1.2. Những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ chí minh về giáo dục
đạo đức cho sinh viên
1.2.1.Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sinh viên với sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước theo quan điểm Hồ chí minh
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về sinh viên, thanh niên
Lúc sinh thời Hồ Chí Minh luôn coi thanh niên, sinh viên là lực lượng
rường cột của đất nước, tương lai của dân tộc. Người có niềm tin lớn lao vào các
thế hệ thanh niên,sinh viên và thấy được khả năng sáng tạo to lớn của họ đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh thường nói và viết về thanh niên, sinh viên
rất ngắn gọn, đơn giản nhưn rất sâu sắc, mục đích là làm cho mọi thanh niên,
sinh viên đều có thể hiểu và thấy được trách nhiệm của mình để tham gia vào
công cuộ giải phóng dân tộc xây dựng đất nước.
Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên có ước mơ, hoài bão, có ý chí và nghị lực,
khát khao với lý tưởng cao đẹp và sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Thanh niên, sinh viên

là lớp người ở lứa tuổi đôi mươi, đang thời kì sung sức, lứa tuổi ham hiểu biết, khám
phá, tự thể nghiệm mình, có khả năng để thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao quý xủa xã
hội. Đồng thời cũng là lứa tuổi có tính nhạy cảm với cái mới, cái đẹp và cái tiến bộ,
mà ít chịu ảnh hưởng của những tiêu cực và thành kiến của quá khứ. Nhung thanh
niên còn thiếu kinh nghiệm do chưa từng trải. Chính vì vậy, nếu được giáo dục tốt,
phù hợp với tính cách, tâm lý, tạo ra sụ say mê nghề nghiệp, say mê với lý tưởng sống
cao đẹp thì họ sẽ phá huy được tính năng động sáng tạo họ sẽ có những đóng góp to
16
lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân,
các cấp, các ngành, đoàn thể cần phải quan tâm chăm sóc, vun trồng để họ trở thành
những công dân hữu ích cho đất nước.
Hồ Chí Minh đã xác định, thanh niên, sinh viên là một trong những lực
lượng luôn luôn hăng hái xung phong đi đầu, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn
gian khổ, nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao phó. Trong cách mạng
dân tộc dân chủ, họ luôn là lực lượng xung kích cống hiến tuổi thanh xuân cho
sự nghiệp đấu tranh, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa thanh niên, sinh viên là người đi đầu nắm bắt khoa học công nghệ, cải
tiến kĩ thuật, nâng cao năng xuất lao động, góp phần phát triển kinh tế và văn
hóa. Họ là nguồn xung lực mạnh mẽ của đất nước, là một trong những lực lượng
quan trọng của cách mạng.
Như vậy, qua các bài nói, bài vết của Hồ Chí Minh về thanh niên, sinh
viên Người đều cho rằng thanh niên, sinh viên là lực lượng có trí tuệ, năng động,
sáng tạo, giàu nghị lực và lý tưởng cao đẹp, họ có thể đảm nhiệm và hoàn thành
tốt mọi nhiệm vụ khó khăn, nặng nề khi csch mạng giao phó, kế thừa, phát huy
truyền thống đạo đức của dân tộc.
* Đánh giá của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của sinh viên – thanh niên.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước ở
Việt Nam cũng có sự quan tâm đến sinh viên – thanh niên. Phan Bội Châu từng
gửi gắm kì vọng vào thanh niên sang Nhật Bản du học trở về họ sẽ góp phần quan
trọng cách tân đất nước… Nhưng do điều kiện lịch sử hạn chế, do lập trường giai

cấp khác nhau nên các sĩ phu yêu nước chưa thấy hết và đánh giá đúng vị trí, vai
trò của thanh niên đối với sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc.
Được trực tiếp chứng kiến các phong trào yêu nước của dân tộc trong
những năm đầu thế kỷ XX như phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục,
Duy Tân, phong trào chống thuế Trung Kỳ… với sự tham gia đông đảo, nhiệt
tình cùa thanh niên, sinh viên, Hồ Chí Minh đã cảm nhận sâu sắc lòng yêu nước
và khát vọng giải phóng dân tộc của thế hệ trẻ Việt Nam. Ra đi tìm đường cứu
17
nước, Hồ Chí Minh đã mang trong mình niềm tin tưởng sâu sắc rằng, thế hệ trẻ
Việt Nam sẽ kế tục truyền thống của cha anh ta làm cách mạng đánh đuổi thực
dân pháp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Khác với các bậc
tiền bối và đương thời, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đứng trên
lập trường của giai cấp công nhân, kế thừa và phát triển sáng tạo di sản tư tưởng
tiến bộ của dân tộc và thời đại, với tầm nhìn chiến lược và phương pháp khoa
học người đã đánh giá một cách đúng đắn, khách quan, toàn diện về thanh niên -
sinh viên. Hồ Chí Minh cho rằng sinh viên - thanh niên là một bộ phận quan
trọng của dân tộc, là người chủ nhân tương lai của đất nước.
Ngay từ đầu những năm hai mươi của thế kỉ XX, đất nước còn chìm đắm
trong đêm trường nô lệ. Người đã nhận thấy rằng chỉ có dựa vào thanh niên -
sinh viên mới đủ sức giải phóng dân tộc đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Lúc
đó thực dân Pháp đã “nặn ra” những chính sách “ru ngủ” thanh niên, làm họ
quên đi nỗi nhục mất nước. Trong thư gửi thanh niên An Nam Người đã viết:
“Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên sớm
già của Người không sớm hồi sinh” [ 10, tr 01]
Từ nhìn nhận đó, Hồ Chí Minh đã quyết tâm hồi sinh cho thế hệ trẻ. Năm
1923, khi từ giã những người bạn trong Hội liên hiệp thuộc địa, Người đã nói:
“Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng, trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ,
tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc
lập” [9, tr 192].
Người đã nhận thấy thanh niên – sinh viên là một bộ phận ưu tú của dân

tộc mà sứ mệnh của họ là thúc đẩy cách mạng phát triển. Vì thế, khi từ Liên Xô
về Quảng Châu – Trung Quốc (1942), Người đã tìm hiểu và tiếp xúc với thanh
niên yêu nước trong nhóm Tâm Tâm xã và đã tổ chức ra một nhóm cách mạng
đầu tiên. Người đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), quy
tị tất cả những thanh niên Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết vào trong một tổ
chức, nhằm giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin cho họ, giúp họ hiểu vì sao phảo
làm cách mạng và làm cách mạng phải như thế nào. Những hội viên của Hội
18
Việt Nam Cách mạng Thanh niên sau khi được đào tạo sẽ trở về hoạt động trong
nước, làm nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, giác ngộ quần chúng
nhân dân, gây dựng phong trào cách mạng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Chứng tỏ tầm nhìn chiến lược và niềm tin lớn lao của Hồ Chí Minh vào thanh
niên. Người đẫ thấy được vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giành đọc lập, tự do cho Tổ quốc. Điều đó đã trở
thành hiện thực khi những hội viên của Việt Nam Cách mạng Thanh niên được
huấn luyện, đào tạo trở về nước làm hạt nhân truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
và gây dựng tổ chức cách mạng. Công lao to lớn của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên là đưa giai cấp công nhân nhanh chóng trở thành một lực lượng
chính trị độc lập, giác ngộ nhiều người Việt Nam yêu nước đi theo con đường
các mạng vô sản, làm phá sản mọi khuynh hướng của chủ nghĩa cải lương tư
sản, đẩy lùi tư tưởng quốc gia dân tộc tư sản. Hội đã giáo dục, rèn luyện, thử
thách lựa chọn ra những chiến sĩ ưu tú nhất để thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam vào đầu năm 1930. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội đã làm tròn vai trò, nhiệm vụ thức tỉnh
dân tộc Việt Nam vào những năm hai mươi của thế kỉ XX. Điều đó chứng tỏ
Hồ Chí Minh thấy được vị trí, vai trò của thanh niên – sinh viên, rất chú trọng
phát huy sức mạnh và vai trò của tuổi trẻ.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời nắm quyền lãnh đạo phong trào dân tộc,
thanh niên có lý tưởng cách mạng soi đường đã hăng hái, phấn khởi tham gia
tích cực vào các phong trào đấu tranh cách mạng, sẵn sàng chấp nhận, vượt qua

mọi khó khăn gian khổ kể cả hi sinh tính mạng đã cùng với Đảng với dân tộc
làm nên thắng lợi tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám 1945. Trong vòng 15
năm đấu tranh cách mạng, 1930 – 1945, đã có hàng ngàn thanh niên, sinh viên
trở thành những cán bộ trung kiên của Đảng, những anh hùng, liệt sĩ anh dũng hi
sinh trong thời kì này hầu hết là tuổi trẻ như: Trần Phú, Lý Tự Trọng, Nguyễn
Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn
Thụ…
19
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, thù trong giặc ngoài, cấu kết với nhau hòng tiêu diệt chính quyền non trẻ,
giặc đói, giặc dốt hoành hành. Trong bối cảnh đó, Hôc Chí Minh không những
chỉ ra khả năng to lớn của thanh niên – sinh viên trong cách mạng giải phóng
dân tộc mà còn chỉ ra vai trò và tiềm năng của tuổi trẻ trong sự nghiệp xây dựng
nước nhà.
Hồ Chí Minh chủ trương diệt giặc dốt, thực hiện phong trào bình dân học
vụ và đã đăng kí sắc lệnh thành lập trường Đại học nhân dân để giáo dục thanh
niên. Nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Ciệt Nam dân chủ cộng hòa,
tháng 9 năm 1945, Người đã gửi gắm niềm tin vào thế hệ trẻ: “Non ông Việt
Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
quang để sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các em”[11, tr 33]
Trong quá trình lãnh đạo dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh
luôn nhấn mạnh vị trí, ai trò xung kích của thanh niên trong hành động cách
mạng, Người chỉ rõ: “việc gì khó có thanh niên, ở đâu khó có thanh niên”. Theo
Hồ Chí Minh sự nghiệp cách mạng càng phát triển thì càng đòi hỏi thanh niên
thực hiện tốt hơn vai trò xung kích của mình. Người nói: “thời đại này là thời
đại vẻ vang của thanh niên. Mà thanh niên phải là những đội xung phog trên các
mặt trận chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật”[17, tr 390]
Từ đó lớp lớp thanh niên – sinh viên được đào tạo đông đảo, họ đã góp

phần to lớn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cả dân tộc, những người
lớn tuổi cần nhận thức đúng đắn lớp trẻ hôm nay, chăm lo, giáo dục, đào tạo và
tạo mọi điều kiện để họ làm tốt vị trí, vai trò của mình tong thời đại mới.
Trước lúc đi xa, Hồ CHí Minh tiếp tục khẳng định những phẩm chất tốt đẹp
cũng như vị trí vai trò quan trọng của thanh niên đối với sự trường tồn của đan tộc
20
và sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Người mong muốn Đảng, Nhà nước và
mỗi gia đình Việt Nam quan tâm, chú trọng giáo dục thanh niên – sinh viên.
Từ việc đánh giá vị trí, vai trò của thanh niên – sinh viên, Hồ Chí Minh
chỉ rõ sự cần thiết và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên – sinh viên nhằm giáo dục đào tạo họ thành con người mới của xã hội
chủ nghĩa, có đủ đức, đủ tài, phục vụ sự nghiệp cách mạng. Kế thừa, phát huy
truyền thống giáo dục, coi trọng nhân tài của dân tộc, Hồ Chí Minh đã coi việc
giáo dục thanh niên – sinh viên là vấn đề chiến lược, là nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng.
Trong giáo dục Người luôn coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên – sinh viên vì đó là gốc, là nền tảng của con người. Giáo dục có vai
trò quyết định của tri thức đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, giáo dục đào
tạo ra những nhà bác học, chuyên gia, kỹ sư trên các lĩnh vực của đời sống, xã
hội, nhờ đó họ mới có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới…
nhưng nếu hị không có đạo đức thì cũng không thể phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng. Các thế hệ cha anh đi trước đã đấu tranh và lao động mang lạ cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho các thế hệ sau. Tre già măng mọc thế hệ sau kế tục
sự nghiệp của thế hệ trước, đưa đất nước phát triển đi lên theo con đường cách
mạng mà toàn Đảng, toàn dân tộc đã lựa chọn, Người viết: “chúng ta cần ghi
chép và thường nhắc lại những sự tích ấy, để giáo dục nhân dân ta chịu dựng
gian khổ, vượt mọi khó khăn quyết tâm làm tròn nhiệm vụ xây dựng lại nước
nhà. Để giáo dục thanh niên ta rèn luyện một ý chí kiên quyết, quật cường, một
tâm lý quả cảm xung phong, tin tương vào tương lai của Tổ quốc, vào lực lượng

của nhân dân, hi sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung cua dân tộc” [14, tr 387]
Nếu không giáo dục đạo đức cho thế hệ sau được tốt thì họ có thể không
kế tục được sự nghiệp cách mạng thế hệ trước để lại. Vì vậy, Người coi nhiệm
vụ giáo dục đạo đức cho thanh niên – sinh viên là hết sức quan trọng.
Theo Hồ Chí Minh, việc trồng người ngoài nhiệm vụ quan trọng phục vụ
cho lợi ích cách mạng, còn phải đạt được mục tiêu sâu xa hơn là để mỗi con
21
người tự hoàn thiện mình vươn tới chân, thiện, mỹ. Đó chính là nhân tố then
chốt quyết định sự thành công của cách mạng, sự tiến bộ của xã hội và dân tộc.
Như vậy, thanh niên – sinh viên là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc ta là lực lượng quyết định vận mệnh của dân
tộc, sự phát triển của đất nước.
1.2.2. Những nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chăm lo giáo dục đạo đức
sinh viên để đào tạo họ thành những công dân tốt, cán bộ tốt cho nước nhà. Hồ
Chí Minh cho rằng, sinh viên là những thanh niên có học thức, có ước mơ, hoài
bão; có ý chí và nghị lực, khát khao với lý tưởng cao đẹp và sẵn sàng xả thân vì
nghĩa lớn. Sinh viên là lớp người ở lứa tuổi đôi mươi, đang thời kỳ sung sức; lứa
tuổi ham hiểu biết, khám phá, tự thể nghiệm mình, có khả năng để thực hiện
mục tiêu, lý tưởng cao quý của xã hội. Đồng thời cũng là lứa tuổi có tính nhạy
cảm với cái mới, cái đẹp và cái tiến bộ, mà ít chịu ảnh hưởng của những tiêu cực
và thành kiến của quá khứ. Nhưng sinh viên còn thiếu kinh nghiệm do chưa từng
trải. Chính vì vậy, nếu được giáo dục tốt, phù hợp với tính cách, tâm lý, tạo ra sự
say mê nghề nghiệp, say mê với lý tưởng sống cao đẹp thì họ sẽ phát huy được
tính năng động, sáng tạo họ sẽ có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp cách
mạng của của Đảng, của dân tộc. Qua các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, tư
tưởng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên của Người được thể hiện ở các
nội dung chủ yếu sau:
Một là, phải làm cho sinh viên nắm được vị trí, tầm quan trọng của đạo
đức cách mạng đối với mỗi người. Đạo đức là một trong hai thành phần cấu trúc

của nhân cách con người là đức và tài. Đạo giữ vai trò quan trọng hàng đầu, là
cái gốc của mỗi con người mà sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất
nước, không có đạo đức, không có căn bản, thì không làm nổi việc gì. Đạo đức
cách mạng của sinh viên, (ngày 21 tháng 10 năm 1964, nói chuyện với thầy cô
giáo, sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đức là
đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách
22
mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với
cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân”[18, tr 329]. Đạo đức là vấn đề
tiên quyết của việc xây dựng con người mới, sinh viên phải thấy rõ tầm quan
trọng của việc tu dưỡng đạo đức và năng lực để có đủ đức, đủ tài, phục vụ
cách mạng. Có đạo đức cách mạng làm nền tảng sinh viên mới hoàn thành được
nhiệm vụ học tập, rèn luyện hiện tại và nhiệm vụ cách mạng trong tương lai.
Đạo đức chính là những phẩm chất đòi hỏi sinh viên cần phải có để tham
gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đạo đức là gốc, là nền tảng của
con người, cũng như nguồn của sông, gốc của cây. Bởi vì, muốn làm cách mạng
thì trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai
cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc. Cái tâm, cái đức ấy phải được
thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày với dân với nước, với thầy, cô
giáo, với bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người xung quanh mình.
Theo Hồ Chí Minh, phải có cái đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có cái trí, thì cái
đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa Mác –
Lênin và đưa nó vào trong cuộc sống. Con người thực sự có đạo đức thì bao giờ
cũng khiêm tốn, chịu khó học tập, phấn đấu để bồi dưỡng năng lực, nâng cao tài
năng, trí tuệ của mình để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.
Hai là, Giáo dục phẩm chất Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm
chất bao trùm nhất, quan trọng nhất của mỗi con người. Chúng ta biết rằng khái
niệm trung, hiếu đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam và
phương Đông, là chuẩn mực đạo đức phong kiến mà Nho giáo đề ra. Trung của
Nho giáo là trung với vua, bó hẹp trong phạm vi quan hệ vua tôi, phải hết lòng

thờ vua trong bất kỳ điều kiện nào. Hiếu là hiếu với cha mẹ, phải kính trọng
thương yêu và hết lòng phụng dưỡng cha mẹ đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng
dục. Khái niệm trung, hiếu đó thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân,
được Hồ Chí Minh nâng cao phát triển với ý nghĩa mới, mối quan hệ mới giữa
cá nhân với cộng đồng, quốc gia, mang tính giai cấp công nhân sâu sắc để giáo
dục sinh viên. Trung với nước, hiếu với dân trước hết phải có tinh thần yêu nước
23
nồng nàn, phấn đấu hy sinh vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, làm sao cho “dân
giàu, nước mạnh". Đối với sinh viên, trung với nước, hiếu với dân, “trước hết
phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân”. Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân không phải là lý
thuyết, siêu hình mà được thể hiện cụ thể, thiết thực trong học tập, tu dưỡng,
trong mọi hoạt động của cuộc sống thường ngày. Nói chuyện với nam nữ
thanh niên, học sinh các trường Trung học ở Hà Nội, Hồ Chí Minh căn dặn: “-
Yêu Tổ quốc: việc gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống
lại.
Yêu nhân dân: việc gì hay người nào phạm đến lợi ích chung của nhân
dân, chúng ta kiên quyết chống lại”[14, tr 398]. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của sinh viên là học tập thật tốt, học để nâng cao nhận thức, học để nắm bắt
khoa học kỹ thuật, nắm vững chuyên môn nghiệp vụ. Nhưng mục đích của
học tập tốt cũng nhằm phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đó chính là sự
thể hiện trung với nước, hiếu với dân. Theo Người phải giáo dục cho sinh viên
“luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Không sợ khó khăn, gian khổ, hy sinh hăng hái thi đưa tăng gia sản xuất và anh
dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong trong mọi công tác. Theo Hồ Chí
Minh, mỗi sinh viên phải có lòng yêu nước nồng nàn, tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc, với giai cấp công nhân; phải căm thù sâu sắc lũ giặc cướp nước và bè
lũ phản động bán nước; phải quyết tâm phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và của dân tộc, đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp công nhân, của
dân tộc lên trên hết, trước hết. Người chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng là ra sức phấn

đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng; hết sức trung thành phục vụ giai cấp công
nhân và nông dân lao động”[16, tr 86]. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung
thành với cách mạng, với nhân dân. “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng,
cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất"[16, tr 285].

Có trung thành và quyết
tâm phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc thì mới dám
dũng cảm hy sinh quên mình vì nghĩa lớn; mới quyết tâm rèn luyện mình theo lẽ
24
sống cao cả và tình cảm cách mạng, thực sự “Tận trung với nước, tận hiếu với
dân".
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở sinh viên phải kính trọng và thương yêu
cha mẹ, Người đã mở rộng chữ hiếu, từ hiếu với cha mẹ, mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân đến hiếu với nhân dân nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa gia
đình và xã hội; giữa cha mẹ, anh, chị, em với đồng bào và đồng loại. Hiếu với
nhân dân là phải kính trọng, thương yêu nhân dân, học tập, lao động chiến đấu
vì nhân dân làm cho “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Phải
chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Sinh viên phải có thái
độ đúng đắn, đấu tranh chống lại mọi biểu hiện sai traí, gây phiền hà nhũng
nhiễu cho nhân dân, làm cho dân phấn khởi tin tưởng vào chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Ba là, Giáo dục lòng yêu thương con người, đó là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất của con người. Tình yêu thương đó là tình cảm rộng
lớn được thể hiện trong các mối quan hệ bạn bè, thầy trò, đồng chí, đồng
bào trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mỗi sinh viên trước hết phải nghiêm
khắc chặt chẽ với bản thân mình, rộng rãi, độ lượng với bạn bè, đồng chí đồng
học. Nó đòi hỏi phải tôn trọng “phải đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau như anh
em, chị em một nhà”. Nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân
Việt Nam (19-1-1955), Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Các cháu học tập, ăn ở tập thể

đông đảo, trai có, gái có. Các cháu phải thương yêu giúp đỡ nhau như anh em,
chị em; đồng thời phải kính trọng nhau như đồng học, đồng chí”[14, tr 456].
Mỗi sinh viên một quê hương khác nhau, có hoàn cảnh, phong tục tập qúan khác
nhau, tựu trường cùng học tập phải thấu hiểu và giúp đỡ nhau để không ngừng
tiến bộ. Tuy vậy, trong sinh viên vẫn cón sự ganh tị, phân biệt giữa nam và nữ,
chưa thật sự quan tâm giúp đỡ nhau. Nói chuyện tại trường Đại học Sư phạm
Hà Nội (21-10-1964), Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Các cháu trai, cháu gái chưa
thật sự coi nhau như anh em, chị em ruột thịt trong nhà. Trái lại, còn có ý
25

×