Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Giá trị lịch sử của pháp luật tố tụng phong kiến việt nam thế kỷ XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.74 KB, 23 trang )

Giá trị lịch sử của pháp luật tố tụng phong kiến Việt
Nam thế kỷ XV - XIX
Cùng với quá trình phát triển của nhà nước, pháp luật Đại Việt cũng từng bước
được các triều đại PKVN thiết kế và xây dựng, kết hợp hài hòa tính dân tộc & tính thời
đại. Điều đó đã tạo nên giá trị căn bản của pháp luật tố tụng trong cổ luật Việt Nam.
1. Giá trị lịch sử về lập pháp và kỹ thuật lập pháp
Thông qua nội dung mà các Bộ luật điều chỉnh, cho thấy, những đặc điểm tiến bộ
về lập pháp được đánh giá từ những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, Giá trị về lập pháp luôn có tính kế thừa và phát triển sáng tạo
Về tư tưởng lập pháp, nhà nước phong kiến Việt Nam đã xây dựng được Bộ luật,
Hội điển tiến bộ theo xu hướng hoàn thiện dần. Tư tưởng chủ đạo của nhà nước thời Lý
Trần xây dựng pháp luật là để “phép xử án được bằng thẳng rõ ràng”, thời Lê Sơ “đặt ra
pháp luật để quản trị quân dân”, ổn định nền kinh tế xã hội. Lê Thánh Tông thể hiện rõ
tư tưởng trọng pháp, dùng pháp luật và hình phạt nghiêm minh để hướng đến lễ nghĩa,
bảo vệ đạo đức thuần phong mỹ tục, nhân cách và phẩm giá con người. Thời Lê Trịnh và
triều Nguyễn coi trọng tính ứng dụng của luật bảo vệ nền chính trị an ninh, hòa bình cho
cộng đồng cư dân, cho quốc gia và xã hội. Hoàng đế Gia Long từng khẳng định quyết
tâm xây dựng luật pháp, xử lý nghiêm đối với các loại tội phạm:“Ta nhờ oai linh liệt
thánh, trấn áp hỗn loạn, đem lại sự thanh bình, chỉnh lý trật tự bờ cõi theo luật pháp, lấy
giáo hóa làm việc hàng đầu; tuy nhiên cũng quan tâm đặc biệt đến việc xử phạt” [HVLL
– Lời tựa]. Bởi tình trạng pháp luật hư nát, xảo trá hoành hành, xử án qua loa. “Mọi việc
đâm ra thiếu sót, xử án theo lý đơn giản, khiến người ngu coi thường luật pháp, không
biết theo đâu tránh đâu, kẻ ngoan cố thì dễ vô ý chơi đùa, việc xử án thì tự ý thêm bớt,
không còn căn cứ vào nền tảng nào cả, oan ức tràn lan, kiện thưa không có căn cứ. Ai có
lòng nhân mà không trắc ẩn”.


Trước đòi hỏi của thực tiễn, từ nguồn luật trong nước,“Tham chiếu luật Hồng Đức
và luật Thanh triều, rút lấy, thêm bớt, cân nhắc biên soạn thành Bộ luật tiện dụng”. Để
các quan viên vâng chiếu theo bộ luật, dùng pháp luật để trừng phạt xử tội kẻ gian manh,
chế ngự điều ác, đề phòng lỗi lầm, tránh bớt sai phạm, ngõ hầu tránh khỏi bị pháp luật xử


lý. Từ đó có thể đi vào con đường tự giáo hóa, xa rời sự trừng phạt và mọi việc sẽ trở nên
an thịnh.
Khi nghiên cứu cả ba bộ luật của ba triều đại khác nhau, QTHL, QTKTĐL, HVLL,
cho thấy, khi mà khoa học kỹ thuật điều tra trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa phát
triển thì ý tưởng và thành quả trong việc ban hành các bộ Hội điển, Điển chế riêng về tố
tụng, điều chỉnh các quan hệ về tư pháp, xử lý vi phạm ở Việt Nam thế kỷ XV – XIX là
thành công đáng ghi nhận. Hoàng đế Gia Long còn khẳng định: Luật lệ và pháp lệnh là
những phán quyết cho sự trừng phạt tội ác. Người xưa khi phán quyết sự việc còn căn cứ
vào các định chế xã hội, cùng với luật pháp. Giá trị của pháp luật chính là nhờ dân chúng
biết tôn trọng luật lệ, để cho mọi việc trở nên giản dị mà có thể khoan dung nhẹ nhàng.
Theo đó,“Pháp luật là công cụ giúp cho việc cai trị thêm tốt đẹp”. Đó là sự thực có tự
đời xưa. Cho nên luật lệ, pháp luật, quy thức nay cần phải gia tăng nhanh chóng [HVLL
– Lời tựa].
Về thành quả lập pháp, kế thừa pháp luật Lý Trần, học tập luật Đường Minh Thanh,
phát triển sáng tạo, phù hợp với yêu cầu đất nước. Từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông, từ
Trịnh Cương đến Trịnh Sâm, từ Gia Long đến Minh Mệnh, các vị vua chúa đều luôn chú
trọng đến xây dựng và ban hành pháp luật Quốc gia. Vua Lê Thánh Tông đã thực hiện
công cuộc cải cách quy mô toàn diện và thành công nhất trong lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam trong đó có lĩnh vực tư pháp tố tụng. Xét trong tiến trình lập pháp, thời Lê
Thánh Tông cũng đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử lập pháp tố tụng Việt
Nam với các bộ Điển chế chuyên sâu về tố tụng và các văn bản khác điều chỉnh hoạt
động của toàn xã hội, bổ sung cho QTHL trên nhiều phương diện. Theo đó, hai bộ tổng
luật Hiến chương và luật chuyên ngành về tố tụng và các luật khác là một chỉnh thể thống
nhất.


Bộ QTHL & HVLL, mặc dù phần nào có ảnh hưởng của pháp luật nhà Thanh,
mang đậm tư tưởng quân chủ tập quyền chuyên chế, nhưng trên hết thể hiện thành quả
của quá trình lập pháp, khẳng định tính tự tôn dân tộc, đảm bảo quyền lực tối cao của nhà
nước độc lập, thống nhất sau nhiều thế kỷ nội chiến phân quyền. Tiến bộ trong QTHL,

QTKTĐL, HVLL mang tính hài hòa giữa lợi ích nhà nước quân chủ chuyên chế với xã
hội cộng đồng làng xã của người Việt. Pháp luật quân chủ vẫn tôn trọng văn hóa truyền
thống, tục lệ của dân tộc, tín ngưỡng cổ truyền của người Việt, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Đại Việt.
Việc pháp điển hóa và ban hành bộ QTKTĐL là thành công đặc sắc nhất của pháp
luật PKVN trong lĩnh vực tố tụng. QTKTĐL là bộ luật chuyên ngành về tố tụng điều
chỉnh các hoạt động về nguyên tắc, thể chế, quy trình vận hành tố tụng và xét xử. Từ quy
định Thông lệ về khám tụng cho đến quy trình tố tụng trong các loại vụ việc chuyên sâu
được quy định rất chi tiết tỷ mỷ, các nhà lập pháp đã đưa ra rất nhiều tình huống và dự
liệu các cách xử lý. Tố tụng theo loại việc chuyên ngành, chuyên sâu có thể được coi là
một trong những giá trị đặc sắc, tiến bộ và sáng tạo nhất của pháp luật tố tụng PKVN
trong tiến trình lịch sử.
Thứ hai, Giá trị về kỹ thuật lập pháp tiến bộ khoa học & phát triển sáng tạo
Tiến bộ vượt hẳn trong kỹ thuật lập pháp khi nhà nước PKVN là một trong những
quốc gia đã ban hành Bộ luật tố tụng chuyên ngành đầu tiên trong khu vực châu Á và thế
giới. Bộ luật điều chỉnh hoạt động tố tụng chuyên sâu đã tạo vị thế mới cho thể chế tư
pháp PKVN. Tạo nên sự kết hợp hài hòa, liên thông, đồng bộ giữa luật nội dung, luật
hình thức và luật thủ tục; phần nào đảm bảo sự điều chỉnh nền kinh tế, chính trị, xã hội
phù hợp, có chế tài xử lý vi phạm; đảm bảo sự tôn nghiêm của luật pháp, hướng tới nền
pháp trị; bảo hộ cá nhân, gia đình, cộng đồng dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia thống
nhất và phát triển.
Các điều luật được cân nhắc từng câu, từng chữ ngắn gọn, rõ ý. Bộ luật đều do
những Đại thần có trình độ, uy tín xây dựng. Một Bộ luật điều chỉnh toàn bộ hoạt động
xã hội. Bộ luật đươc ban hành trên phạm vi cả nước theo chiếu chỉ của nhà vua hoặc chỉ


truyền của chúa. Nhà vua hoặc chúa là người trực tiếp xét duyệt nội dung, thông qua và
ban bố. Các nhà lập pháp tài năng uyên bác đã ghi danh trong lịch sử như: thời Lý có Lý
Thái Tông; thời Trần có Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn và Thượng Hoàng Trần
Minh Tông; thời Lê có vua Lê Thái Tổ, Nhân Tông, Thánh Tông, các Đại thần như

Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đàm Văn Lễ; thời Lê Trịnh
có Chúa Trịnh Sâm và Nguyễn Hoàn; thời Nguyễn có vua Gia Long Minh Mệnh, các Đại
thần như Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu. Các nhà lập pháp tài năng đã để lại
những trước tác pháp luật có giá trị bền vững. Đó là những Bộ luật, Hội điển, Điển chế
vừa thâu nạp được những tiến bộ của thời đại vừa bảo lưu những giá trị truyền thống và
kiến tạo những giá trị mới sáng tạo và tiến bộ. Các nhà lập pháp Việt Nam thời quân chủ
đã thiết kế những văn bản pháp luật tố tụng đặc sắc cả về hình thức, cấu trúc, nội dung và
ứng dụng
Tuy các triều đại phong kiến Việt Nam thế kỷ XV – XIX chỉ ban hành hai bộ Tổng
luật Hiến chương, một bộ luật chuyên ngành Tố tụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
nhưng thể hiện trình độ lập pháp tiến bộ có hiệu lực lâu dài, bền vững và rất nhiều quy
phạm đã đi vào cuộc sống dần trở thành pháp luật tập quán, được người dân mặc nhiên
thừa nhận. Thông tin trong từng điều luật vừa đủ để chuyển tải nội dung vừa dễ dàng áp
dụng. Cơ cấu một điều luật rất ngắn gọn, chỉ gồm các quy định, giả định, chế tài và hình
phạt áp dụng theo các cấp độ vi phạm. Không có sự chồng chéo, lặp lại và rườm rà,
không thiết lập các quy phạm theo kiểu hiểu nhiều nghĩa, tạo điều kiện cho việc áp dụng
pháp luật được chính xác, cụ thể, chặt chẽ.
Khi áp dụng để định tội danh và ra quyết định xử phạt, pháp luật cũng dự liệu các
hình phạt chính kèm theo hình phạt bổ sung nếu cần. Các chế tài thường cố định, chi tiết,
tỷ mỷ, biên độ khoảng cách giữa các mức xử phạt không quá rộng, đảm bảo cho quá trình
áp dụng chuẩn theo luật định, tránh sự tùy tiện. Việc xét xử và kết án đều dựa trên quy
định về chứng cứ, nhân chứng, vật chứng, biên bản khám nghiệm, văn án được đưa ra, ví
dụ: kiện tranh chấp ruộng đất thì phải có các chứng cứ như: văn tự, văn khế, chúc thư
làm bằng, cho đến việc tra xét án cũng phải có văn bằng biên chép làm chứng lý.


So sánh giữa QTHL với QTKTĐL và HVLL, có thể thấy tính ưu việt của QTHL
và QTKTĐL, thực sự là những bộ luật có giá trị lâu dài trong lịch sử pháp luật bởi tinh
thần đặc sắc Việt Nam; vừa học hỏi pháp luật Trung Hoa thời Đường Minh Thanh, vừa
thực sự sáng tạo, phù hợp với bản sắc dân tộc với cách tư duy giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu,

dễ áp dụng của văn hóa pháp luật truyền thống Việt Nam.“Đó là linh hồn trí não người
xưa kết đúc lại cho thế hệ của chúng ta qua bao lớp phế hưng của lịch sử” (Vũ Văn
Mẫu) [35, tr.5]. Đó còn là ngôi nhà cổ thực sự có giá trị mà có thể vì nhiều lý do chúng ta
đã bỏ lãng quên, để nó đổ sập xuống thật đáng tiếc thay (Trần Trọng Kim) và đến lúc nào
đó, có thể nó sẽ được phục hưng trở lại như một sự bảo lưu giá trị của một nền văn hóa
với Nhân Lễ Nhạc trong Luật lâu đời, nhân văn và sâu sắc, để đi tiếp chặng đường xây
dựng nền văn hóa pháp lý Việt Nam kết hợp truyền thống và hiện đại.
2. Giá trị lịch sử trong xây dựng hệ thống VBQPPL tiến bộ
Pháp luật của nhà nước phong kiến Việt Nam được phổ cập đến dân chúng là Bộ luật
Hiến chương và những Điển chế bổ sung có hiệu lực lâu dài từ 1428 đến 1788, từ 1815
đến 1884 – 1945 thể hiện tính kế thừa và phát triển bền vững, đảm bảo mục đích, tính
ứng dụng thực tiễn từ hình thức, nội dung đến ứng dụng hiệu quả. Đó là sự tiến bộ, khoa
học của pháp luật tố tụng nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung thời quân chủ PKVN
thế kỷ XV - XIX.
Thư nhất, Giá trị trong khoa học lý luận kết hợp quy phạm điều chỉnh
Khi nghiên cứu hai Bộ luật nổi bật nhất trong giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV - XIX
là QTHL và HVLL, cho chúng ta thấy, để điều chỉnh các hoạt động tố tụng xét xử, các
nhà nghiên cứu lập pháp đã xây dựng bộ luật hiến chương, đảm bảo tính chính thống lâu
bền về hiệu lực pháp lý và phong tục tập quán. Xét về hình thức, để điều chỉnh mọi góc
cạnh của đời sống xã hội, đòi hỏi cần có nhiều văn bản, để có sản phẩm mang tính khái
quát cao, QTHL với 722 điều và HVLL với 398 điều và 560 điều lệ đòi hỏi trình độ cao
của các nhà lập pháp.


Theo đánh giá của Oliver Oldman, chủ nhiệm Khoa luật Á Đông, Đại học Havard
về QTHL:“Đó là một sự nỗ lực thường xuyên đối với việc xây dựng một nhà nước dân
tộc mạnh và sự bảo hộ của những quyền tư hữu hợp pháp bởi hệ thống pháp luật tiến
bộ”[57, tr.19]. Giá trị của QTHL là ở tính lý luận, tính quy phạm và thực tiễn. Tất cả các
điều luật trong Bộ QTHL, QTKTĐL, HVLL đều đảm bảo các tiêu chí về nguyên lý pháp
luật, mục tiêu của dân tộc, theo kịp thời đại, đảm bảo tính xã hội, tính nhân văn bên cạnh

tính giai cấp, đẳng cấp. Thậm chí, bộ luật còn đạt yêu cầu hơn thế khi trong một điều luật
có nhiều giả định, quy định và chế tài cùng điều chỉnh và xử lý vi phạm. Và như vậy, lý
giải tại sao Bộ luật thời này lại ngắn gọn mà có thể điều chỉnh rất nhiều vấn đề trong hoạt
động xã hội như thế.
Quy phạm điều chỉnh của pháp luật phù hợp với những vấn đề cốt yếu của thể chế.
Cả trong QTHL và HVLL đều thiết kế theo cấu trúc tổ chức và hoạt động của nhà nước
và theo thẩm quyền Lục bộ. Lập pháp, hành pháp và tư pháp kết nối trong thiết chế của
bộ luật. QTKTĐL là chuyên sâu hơn về tư pháp, thủ tục tố tụng, xử lý vi phạm và quy
trình thực hiện của các bên nhằm chuyển tải những hiện tượng vi phạm luật Hiến chương
và các cách xử lý, các dự liệu khả năng xảy ra trong thực tiễn. Cổ luật tinh tế, sâu sắc và
thực dễ áp dụng. Cùng với văn bản HĐNGCCTT, TTĐL, NMTNP và các văn bản Hội
điển triều Lê Trịnh Nguyễn, nghiên cứu văn bản QTKTĐL cho thấy sự tiến bộ đặc sắc về
lý luận và quy phạm của pháp luật tố tụng PKVN. Những văn bản đó đến nay vẫn còn
nhiều giá trị ẩn chứa tiềm tàng để chúng ta có thể tiếp tục nghiên cứu học tập kế thừa
phát huy và phát triển sáng tạo.
Thứ hai, Pháp luật điều chỉnh và xử lý vi phạm về hình sự, dân sự, hành chính và
các lĩnh vực khác trong một bộ luật thuận lợi trong thực hiện thi hành và xử phạt
Tất cả các Bộ luật đều rất chú trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội cả về hình sự,
dân sự, hành chính, đồng thời quy định luôn các biện pháp chế tài áp dụng đối với các
chủ thể vi phạm pháp luật trong cùng một văn bản. QTHL cũng như HVLL và cổ luật
Trung Hoa đều quy kết tất cả các vi phạm với các chế tài chung là Ngũ hình: xuy, trượng,
đồ, lưu và tử. Do không có sự phân biệt thành những ngành luật như ngày nay nên cách


thiết kế các chế tài áp dụng đều căn cứ vào mức độ vi phạm để xử lý. Theo đó, nếu chế
tài là xuy hình, trượng hình, phạt tiền là dân sự hành chính; Nếu chế tài là xử biếm tư, hạ
phẩm trật, lưu nhiệm, cách chức, bãi chức là chế tài kỷ luật công vụ; Nếu chế tài là đồ
hình, lưu hình, tử hình là vi phạm mang tính hình sự và là tội phạm. Khi xét xử tội nhân,
có sự cân nhắc lỗi nặng nhẹ, căn cứ vào khung bậc chế tài để định tội danh, vì thế, có
những vi phạm thuộc hành chính công vụ, vi phạm nặng sẽ chuyển sang đồ lưu tử, bị xử

phạt như tội phạm hình sự (Điều 624, 636 – QTHL).
Điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực như hành chính quan chế, quân
sự an ninh, kinh tế, đất đai, thương mại, hợp đồng; các quan hệ theo thẩm quyền Lục bộ
như luật Lại, luật Hộ luật Lễ, luật Binh, luật Hình, luật Công; đồng thời quy định các chế
tài khi vi phạm trong cùng một văn bản thực sự có ý nghĩa trong vận hành và xử lý vi
phạm. Điều này hiện nay được bổ sung bằng Luật xử lý vi phạm hành chính song chưa
tạo nên sự kết nối đồng bộ giữa các lĩnh vực quản lý chuyên ngành và xử lý vi phạm.
Nghiên cứu tất cả các Bộ luật, cho thấy, các nhà lập pháp hết sức chú trọng đến
điều chỉnh các quan hệ dân sự, về quyền sở hữu ruộng đất, về tài sản và thừa kế. Đây
cũng chính là mục đích của Bộ luật nhằm bảo vệ các quyền lợi chính đáng của các tầng
lớp giai cấp. Pháp luật Lê Trịnh Nguyễn đều có những quy định, các chương, các Lệ về
điền sản, ruộng đất, điền trạch; để phù hợp với thời thế và yêu cầu của thực tiễn, còn có
các điều lệ, luật lệnh lệ bổ sung (Điều 346, 347, 354, 356, 358, 388, 381, 400 - QTHL).
Qua đó, thể hiện sự tiến bộ đi trước thời đại của pháp luật PKVN về kỹ thuật lập pháp.
QTHL có cả một chương Vi chế gồm 144 điều quy định về quan hệ hành chính công vụ
của quan lại. Tất cả sai phạm đều có quy định, kết tội, chịu án trừng phạt nghiêm minh,
phạt tiền hoặc các hình phạt khác, có tội mặc dù vi phạm có tính chất hành chính sự vụ
thông thường nhưng cũng bị quy kết tội trạng và áp dụng các hình phạt có tính chất trừng
trị rất nghiêm khắc (Điều 97, 98, 99,100, 120, 138, 140, 146, 147, 152, 154, 162, 163,
170, 181,183 - QTHL). Trong Lê triều chiếu lệnh thiện chính về chức vụ và trách nhiệm
của quan lại trong Lục Bộ. Trong HVLL, Luật về quan lại, chức chế, xử phạt quan chức
vi phạm khi thi hành công vụ hành chính tư pháp, quân sự an ninh ( Điều 6, 88, 312, 314,


315…- HVLL). Thể hiện tính pháp trị đối với quan chức nhà nước và người thi hành
công vụ khi vi phạm pháp luật. Ví dụ, theo luật, người giữ kho ăn trộm của công, xử
nặng hơn người thường bởi họ mang chức trách bảo vệ của công, ăn lương nhà nước nên
mức xử phạt tăng nặng.
Một trong những điểm tiến bộ của cổ luật trong tố tụng là sự“Hoán đổi hình
phạt”, theo quy luật giá trị sức lao động. Đó là cho phép chuộc tội bằng tiền, trừ tội Thập

ác, giết người, thông gian, trộm cướp, đánh người thành thương tật, còn các tội thường
phạm khác đều có thể hoán đổi thành tiền. Từ xuy, trượng, đồ, lưu, tử hình tạp phạm, đều
có thể“Chuộc hình phạt bằng tiền”; tử hình giảo trảm giam chờ, tạp phạm, án còn ngờ, ba
bậc lưu đều có thể chuyển thành đồ lao động khổ sai ở miền biên viễn, còn gọi là“Phép
nhuận đồ”. Theo đó, ba bậc lưu đổi thành 4 năm đồ, 2 bậc tử giảo trảm tạp phạm đổi
thành 5 năm đồ. Có thể nhận thấy“Chuộc hình phạt bằng tiền” là một trong những tiến bộ
đặc sắc của cổ luật khi xã hội đang trong mô hình kinh tế nông nghiệp, trọng nông. Sự
hoán đổi hình phạt theo quy luật giá trị sức lao động trong nền kinh tế thị trường cũng cần
phải nghiên cứu để ứng dụng. Điều này thực sự sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các bên, cả
bên nguyên, bên bị, bên tòa, các cá nhân, gia đình và xã hội. Trong lịch sử, Aristoteles đã
từng cho rằng đây là một phương cách tốt, có tính giáo dục và hiệu quả cao; cũng là một
biện pháp xử phạt có tính nhân văn, nhân đạo, thị trường, được thừa nhận trong bộ luật
Hammourabi của Lưỡng Hà cổ đại (1790 -1750) TCN; là luật Thục tội trong cổ luật
Trung Hoa, là chế tài chung trong The Salic Law thời trung cổ ở châu Âu. Việc xử lý vi
phạm từ mức nhẹ đến nặng, từ xử lý dân sự, hành chính quan chế đến hình sự theo mức
xử phạt tăng dần, tất cả đều có thể “Hoán đổi hình phạt”; áp dụng quy luật giá trị trong
hình phạt là một tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của PKVN trong sự so sánh với thế giới .
Thứ ba, Đảm bảo tính tiến bộ trong cơ chế vận hành tố tụng cả về cơ quan tố
tụng, người tiến hành tố tụng và các bên tham gia quá trình tố tụng
Quan lại hành chính tư pháp tố tụng thời phong kiến, nói chung, đem hết sức mình
phụng sự triều đình, thống nhất đồng bộ trong quản lý điều hành. Từ cấp địa phương cho
đến cấp trung ương đều tuân thủ nguyên tắc, thực hiện đúng thẩm quyền chức vụ của


mình, đồng thời chịu sự kiểm soát thường xuyên nghiêm ngặt của cấp trên trực tiếp.
QTHL,QTKTĐL quy định rõ ràng về trách nhiệm kiểm soát hoạt động tố tụng, trách
nhiệm cao nhất là Ngự sử đài, cơ quan xét xử và thanh tra được phép tấu trình lên nhà
vua xin ý chỉ. Với HVLL, có tới 4 cơ quan trung ương trong đó có cơ cấu tổ chức liên
ngành Tam pháp ty phụ trách việc xét xử phúc thẩm và chung thẩm. Việc thanh tra kiểm
soát hoạt động tố tụng cấp trung ương, có thẩm quyền cao nhất là Đô sát viện và Đại lý

tự, thực hiện cơ chế kiểm soát gắn với trách nhiệm và chế tài khi vi phạm.
Các cơ quan tố tụng theo quy định của QTHL, QTKTĐL, HVLL thực hiện giải
quyết các án phúc thẩm nhiều lần, kèm theo phải thực hiện kiểm soát thanh tra trực tiếp
để đảm bảo công bằng trong xét án và giảm thiểu xét xử nhiều tầng vượt cấp. Lựa chọn
người tiến hành tố tụng, theo quy định của pháp luật PKVN cũng hết sức ngặt nghèo. Để
được đảm nhận các chức danh quan trọng trong cơ quan tố tụng đều phải là người có tài
năng và đạo đức, lại phải trải qua thâm niên và kinh nghiệm, vượt qua 3 kỳ khảo khóa; 3
năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo; sau 9 năm thực hiện công việc tố tụng
mẫn cán mới được thăng bổ. Có thể nhận thấy, chế độ công vụ hành chính tư pháp thời
quân chủ ở Việt Nam là nghiêm minh, chặt chẽ.
Các bên tham gia quá trình tố tụng như: bên nguyên, bên bị, bên tòa, người làm
chứng, đối chất, phiên dịch, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người bị thiệt hại,
đại diện gia đình, chính quyền, từ cấp xã đến cấp huyện, phủ xứ, tỉnh; các cấp từ địa
phương đến trung ương, đều có quy định trong luật về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm;
nếu vi phạm đều phải chịu chế tài và phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu gây thiệt hại.
Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện các công việc tố tụng hết sức nhạy cảm và mang
tính quyền lực tập trung cao, ảnh hưởng đến con người, danh dự và tài sản, nhà nước
PKVN cũng cân nhắc và quy định trong Bộ luật những quyền lợi mà quan xét xử được
hưởng như ngoài lương bổng còn được hưởng tiền công vụ xứng đáng, tiền Dưỡng liêm,
Ngụ lộc, Huệ lộc, Lộc điền, nhưng không được phép vượt quá quy định. Luật cho phép
nha môn xử án thu “Tiền đảm lễ”, được tích phong khen thưởng bằng tiền kịp thời khi có
công trạng, thành tích.


Thứ tư, Pháp luật tố tụng và mang tính phổ cập toàn xã hội
Bộ luật có hiệu lực lâu dài bền vững và dần trở thành tập quán dân tộc
Khi ban hành Bộ luật, các nhà lập pháp đã đưa các đối tượng chủ thể được áp
dụng đa dạng và không giới hạn, từ các thường dân, nô lệ, trẻ nhỏ, người già, người lính
cho đến quan lại, hoàng thân, quốc thích, tạo cơ chế pháp lý bảo vệ mọi giai tầng trong
xã hội. Khi nghiên cứu QTHL, các nội dung, chế tài trong các điều luật theo xu hướng

điều chỉnh với đối tượng quan lại, chức sắc nhiều hơn. Nhưng đây chính là tính khoa học
và tiến bộ trong quá trình lập pháp khi đằng sau đối tượng quan lại, chức sắc đó là cả một
xã hội thu nhỏ với đủ các loại đối tượng chủ thể, và hơn nữa, khi các đối tượng quan lại
được trao quyền đại diện phải tuân thủ pháp luật thì cả xã hội buộc phải chấp hành tuân
thủ theo.
Pháp luật được phổ cập đến toàn thể dân chúng, dù hình phạt áp dụng là nghiêm
khắc nhưng lại đạt hiệu quả, điều này đòi hỏi mọi chủ thể cần am hiểu và tránh vi phạm
pháp luật. Trong tất cả các Bộ luật, một điểm chung nhất, đó là pháp luật quy định cho
phép và không cho phép, được làm và không được làm, khi vi phạm gây ra lỗi thì có chế
tài nghiêm trị, không phân biệt đối tượng là quan lại hay thường dân. Tất cả đều điều
chỉnh trong cùng một Bộ luật. Theo đó, QTHL và HVLL đều là các bộ tổng luật, vừa có
tính Hiến chương định khung cơ bản về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân
sự, an ninh, gia đình, hôn nhân, đất đai, tài chính; vừa hàm chứa sự điều chỉnh, xử lý khi
vi phạm nhẹ, xử phạt nghiêm khi vi phạm nặng. Chế tài hành chính, dân sự, hình sự,
trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự, trách nhiệm xã hội đạo đức, trách nhiệm cá
nhân, gia đình, cộng đồng…đều được phản ánh trong bộ luật Hiến chương và những nội
dung của luật có giá trị bền vững, lâu dài, ăn sâu bén rễ trong cộng đồng dân cư đến nay
vẫn chưa phai nhạt.
Dưới góc nhìn tố tụng, các chủ thể đều được phép khiếu kiện, tấu trình khi quyền
lợi, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của mình bị xâm phạm theo trình tự thủ
tục tố tụng đã được luật quy định. Để đi đến sự phán quyết bản án, cổ luật luôn có cách
tiếp cận đa chiều, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ, giữa địa vị và thân phận, giữa nam nữ


và độ tuổi, giữa cá nhân, gia đình và nhân thân; các chế tài đồ lưu đều để phục vụ xã hội,
quân đội hoặc làm ruộng khai hoang sinh cơ lập (xã đinh, quân đinh, dịch đinh, tượng
phường binh, chủng điền binh, cảo điền hoành). Để khuyến khích đạo nghĩa gia đình,
luật quy định giảm nhẹ chế tài xuy trượng khi con cháu chịu hình phạt thay ông bà cha
mẹ; vợ phạm tội không bị giam cấm thì giao cho chồng quản chế; xét xử chiếu cố giảm
nhẹ cho diện Bát nghị, người già trẻ em người tàn tật; phạm tội đồ lưu, đem theo vợ con

khi đến miền biên viễn khẩn hoang được cấp nông cụ trâu bò và được coi như dân
thường. Các chế tài không chỉ là xử lý vi phạm mà còn có ý nghĩa giáo dục tội nhân và
hỗ trợ họ lao động đem lại lợi ích cho xã hội cộng đồng.
3. Giá trị lịch sử về nội dung pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam bảo vệ
nhà nước, gia đình cá nhân và xã hội cộng đồng
Nhà nước sử dụng công cụ quản lý là pháp luật tố tụng bảo vệ gắn liền với việc xử lý
vi phạm trong nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, quân sự, an ninh, đối nội,
đối ngoại nhân danh nhà nước, nhà vua và dân tộc, tạo lập sự bình yên trong xã hội cộng
đồng.
Thứ nhất, Pháp luật tố tụng là công cụ quyền lực bảo vệ nền hành chính quốc gia
Nhà nước quân chủ chuyên chế được thiết lập, thực hiện chức năng cơ bản cơ bản
là tổ chức và xây dựng, trấn áp và bảo vệ. Thực hiện pháp luật không chỉ đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế, quản lý toàn xã hội mà còn cần phải xây dựng thể chế chính trị,
tiềm lực quân sự vững mạnh để khống chế âm mưu thôn tính từ bên ngoài và mưu đồ lật
đổ ngai vàng từ bên trong. Xuất phát từ những yêu cầu của nền kinh tế xã hội, các vị vua
từ Lê Thái Tổ, Thái Tông đến Lê Thánh Tông xây dựng và ban hành QTHL và các Hội
điển để đưa pháp luật trở thành công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, triệt tiêu mọi âm
mưu phản kháng, tạo lập kinh tế phát triển, xã hội hòa bình, bờ cõi Đại Việt được mở
rộng. Các triều đại đều nhằm mục đích cơ bản là xây dựng thể chế quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền. Mọi quyền lực tối thượng đều nằm trong tay nhà vua. Nhà vua
nắm cả vương quyền, thần quyền và pháp quyền, trong đó sức mạnh chuyên chế chính là
pháp trị với những hình phạt nghiêm minh.


Nhiệm vụ cơ bản của hệ thống chính quyền nhà nước PKVN là phát triển kinh tế
xã hội đi kèm quản lý nhà nước và xử lý vi phạm thông qua hệ thống tư pháp tòa án.
Công cụ quản lý tư pháp tòa án xét xử là các văn bản quy phạm pháp luật, các định chế
pháp lý chuyên về tố tụng. Bên cạnh QTHL, nhà Lê Sơ còn ban hành các bộ Hội điển để
thống nhất quản lý và xử lý, xử phạt khi có vi phạm. Lê triều hội điển (LTHĐ), Lê triều
chiếu lệnh thiện chính (LTCLTC), Đại Nam Hội điển sự lệ, đều có những quy định cụ thể

điều chỉnh và xử lý vi phạm trong các hoạt động quản lý điều hành như: vi phạm của Bộ
hộ trong quản lý thuế khóa; vi phạm của Bộ Lại trong quản lý quan chức; vi phạm của
Bộ Binh trong quản lý quân đội; vi phạm của Bộ Hình trong lĩnh vực tư pháp xét xử hình
án; vi phạm của Bộ Công trong xây dựng, đê điều, đường xá; vi phạm của Bộ Lễ trong
chức trách về lễ nghi cung đình, về thế miếu, thờ cúng, tôn giáo, đối nội và đối ngoại, nội
dung cụ thể, rõ ràng. Nói chung, nhà nước phong kiến đã sử dụng công cụ pháp luật để
quản lý, xử lý vi phạm trong mọi lĩnh vực, từ trung ương đến địa phương, từ quan đến
dân, cá nhân đến gia đình và cộng đồng dân tộc để phát triển xã hội một cách hữu hiệu .
Từ nhà Lê đến nhà Nguyễn, đều coi pháp luật là phải giáo hóa phổ cập đến toàn
dân “Từ nay trở đi cứ thế công bố lưu truyền, để cho nhà nhà đều biết, kẻ làm quan cai
quản dân chúng thì có sẵn hiểu biết, người dân được nhận giáo hóa thì không còn bị
móc túi chốn tụng đình”. Khi dân đã hiểu pháp luật mà vẫn vi phạm thì lẽ đương nhiên là
buộc phải xử lý và phải chịu chế tài. Pháp luật tố tụng là cơ chế để bảo vệ quốc gia dân
tộc trên mọi phương diện quản lý. Trong quá trình lịch sử, từ thế kỷ XV đến XIX, pháp
luật PKVN đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, dẹp nội loạn, chống ngoại xâm,
dựng nước, giữ nước và mở nước, sánh ngang các nước trong khu vực và dần mở rộng
ảnh hưởng.
Thứ hai, Pháp luật tố tụng bảo vệ nền kinh tế chính trị văn hóa xã hội
Khi đánh giá những thành tựu của pháp luật tố tụng trong bảo vệ nền kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, chúng ta cần xem xét đặt trong bối cảnh của xã hội thời bấy giờ, đối
chiếu với các nước khác trong khu vực và quốc tế để thấy thành quả lập pháp của nhà


nước phong kiến Việt Nam. Những thành tựu, tiến bộ của pháp luật tố tụng trong thời kỳ
này được nhìn nhận đánh giá trên các phương diện sau:
-

Pháp luật tố tụng bảo vệ sự phát triển nền kinh tế, xử lý vi phạm về đất đai tài sản
trong giao dịch và thừa kế


Về mặt nguyên lý, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội. Để phát triển quốc gia, bảo đảm an ninh lương thực và cuộc sống dân
sinh, nền kinh tế luôn đóng vai trò quyết định cả dưới góc độ công quyền và tư quyền.
Tất cả các nhà nước trên thế giới, không ngoại trừ Việt Nam đều lấy pháp chế và xử lý vi
phạm để thúc đẩy phát triển và bảo vệ nền kinh tế của mình. Các giai cấp, từ quý tộc, địa
chủ đến thường dân đều xác định vị trí, thứ bậc và tài sản dựa trên sở hữu đất đai, tài sản.
Mọi quyền lợi và sự tồn vong của chế độ chính trị đều phụ thuộc vào chính sách phát
triển kinh tế, mà cơ bản nhất là chính sách điền địa và thuế vụ. Từ góc độ quản lý kinh tế
đến quyền lợi ích và nghĩa vụ đóng góp xã hội, vi phạm và xử phạt sẽ tạo nên sự minh
bạch và công minh trong nền kinh tế. Từ cải cách thuế ruộng thời Khúc Hạo, đến Phép
tịch điền thời Lê Hoàn, chính sách Thái ấp, Điền trang thời Lý Trần, Hạn điền thời Quý
Ly, Quân điền, Lộc điền thời Lê Sơ, phép tô dung điệu thời Lê Trịnh và luật thuế điền sản
công tư thời Nguyễn, pháp luật tố tụng luôn là cơ chế biện pháp hữu hiệu, giải quyết
tranh chấp, bảo vệ nền kinh tế, cân bằng tương đối giữa các giai tầng, giữa các loại hình
sở hữu nhà nước, làng xã và tư nhân. Trong bộ QTHL có chương điền sản 32 điều quy
định về Điền sản công tư. Trong Quốc triều thư khế thể thức là các mẫu văn bản giao
dịch dân sự, mẫu chúc thư, văn khế, văn tự cầm cố, vay nợ,…Trong HĐTCT, QTKTĐL
có các Lệ kiện về tài sản ruộng đất, về vay nợ, về tranh kiện tài sản hương hỏa và thông
thường, về quan cai thu hà lạm thuế. Chuỗi quy trình từ ban hành quy phạm, quản lý,
điều chỉnh, giao dịch, vi phạm và xử lý về tài sản đất đai là một trong những cách thức tư
duy logic, khoa học của luật truyền thống cần phải tham chiếu học tập, ở đây bao hàm từ
lập pháp, hành pháp dến tư pháp xét xử và trở lại lập pháp mới. Công thức cho từng lĩnh
vực pháp luật điều chỉnh phải là quy trình: PDCA (Plan, Do, Check – Control, Action)
đồng bộ, thống nhất. Nhìn ở phổ rộng, trong chính thể quân chủ, pháp luật bảo vệ quyền


sở hữu tối cao của nhà vua, quyền thu thuế, ban hành sắc thuế, quyền ban hành các chính
sách kinh tế; bảo vệ quyền của đẳng cấp quý tộc và cùng với đó là quyền của các chủ thể
hợp pháp khác trong toàn bộ đời sống nền kinh tế xã hội.
Pháp luật PKVN, về mục đích kiểm soát cũng có điểm tương đồng. Tất cả các Bộ luật

đều xác định rõ quyền sở hữu đất đai, khuyến khích canh nông, khai hoang, phục hóa,
khai khẩn và có chế tài đủ mạnh xử phạt khi bỏ đất hoang (Điều 347, 350 – QTHL). Pháp
luật bảo vệ quyền được sử dụng đất đai phát triển kinh tế và có các quy định về nghĩa vụ
đóng thuế. Một số quy định về tài sản đất đai công điền công thổ, chế độ Quân điền, Lộc
điền; cải cách Phép thuế Tô - Dung - Điệu và xét xử tranh kiện về đất đai, hương hỏa, tài
sản, của nổi, của chìm, thanh toán nợ, chia thừa kế, xử lý nghiêm quan cai thu hà lạm.
Quy định về điền sản tư theo hộ gia đình của vợ chồng, ông bà, cha mẹ, con đẻ, con nuôi,
người thừa tự, thật tinh tế sâu sắc phân định rất rõ ràng, tạo nên yếu tố thúc đẩy khuyến
khích phát triển nền kinh tế nông nghiệp, theo quan niệm “Canh nông vi bản”, “Nhất sỹ
nhì nông”.
-

Pháp luật tố tụng bảo vệ thể chế chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng tôn giáo
Pháp luật tố tụng là một trong những công cụ bảo vệ thể chế chính trị, văn hóa, xã

hội, tư tưởng của nhà nước và pháp luật PKVN. Trải qua quá trình hình thành cộng đồng
cư dân Lạc Việt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Hán hóa và Việt hóa trở lại.
Nghìn năm quân chủ đã chứng minh khả năng tự vệ trường tồn của Đại Việt trước họa
xâm lăng. Đó còn là sức mạnh của Luật quân sự, kỷ luật sắt trong quân ngũ, những kẻ
đầu sỏ hàng giặc đều xử chém, cho phép “Tiền trảm hậu tấu”. Những kẻ “Mưu bạn phản
quốc” hoặc “Mưu cướp ngôi vua làm nguy xã tắc” đều phải chịu án Tru di. Luật “Thập
ác tội” đã là một trong những chế định nghiêm khắc nhất của cổ luật nói chung và luật tố
tụng nói riêng bảo vệ thể chế quân chủ tập quyền, bảo vệ văn hóa gia đình gia trưởng,
bảo vệ con người, ân nghĩa gia đình dòng họ và lòng trắc ẩn của con người. Dân giết
quan, trò giết thầy, quân giết tướng, thân hữu gia tộc, anh em mà tranh giành đánh giết
lẫn nhau đều là loại tội luật không dung thứ.


Bảo vệ nền văn hóa, phong hóa đó là 24 Điều giáo hóa chúng dân của Lê Thánh
Tông trong “Huấn dân Đại cáo”, 47 điều giáo hóa của vua Lê Huyền Tông và 10 điều

Huấn dụ của vua Minh Mệnh đều hướng đến những giá trị văn hóa của nhân cách và
phẩm giá của con người trong gia đình và xã hội. Luật tố tụng truyền thống đều thiết lập
kỷ cương từ nhân cách con người trong gia đình và xã hội, từ hôn nhân đến điền sản
hương hỏa, ân nghĩa được nuôi dưỡng từ trong những quy phạm pháp luật và ẩn đằng sau
các điều luật và chế định là những giá trị nhân sinh, vi phạm và xử phạt.
Trong QTHL, HVLL có các điều luật bảo vệ an ninh quốc gia, biên giới lãnh thổ,
tộc người: Điều 411, 412 – QTHL, Điều 223 – HVLL, Thập ác tội, Đạo tặc thượng, các
quy định về bảo vệ cảng biển Vân Đồn, kiểm soát buôn bán vùng biên giới, trên cảng
biển (Điều 614, 615, 616 – QTHL). HVLL quy định, Người nhà Thanh, sang nước Việt,
có đóng thuế thân, cho phép lấy vợ Việt nhưng không được đưa vợ con về Trung Quốc.
Vua Minh Mệnh khi bắt được các thuyền buôn nước ngoài cập cảng buôn bán trái phép
cũng không xử quá nặng mà còn gia ân tha cho về nước. Phương châm là “Nhu viễn
nhân”. Tuy nhiên, đối với Thiên chúa giáo cấm lệnh của triều Nguyễn khá nghiêm ngặt,
xử phạt đặc biệt nghiêm khắc, hình phạt rất cá biệt như buộc đá vào cổ những người cố
tình truyền giáo ném ra biển khơi. Xung đột tôn giáo là một vấn đề cần giải mã, vì tôn
giáo là sự tôn sùng tự nguyện, nếu bị dối lừa, người sùng đạo sẽ trở nên cuồng tín và bị
chủ giáo lạm dụng. Cho dù còn nhiều điều tranh luận, đánh giá khác nhau, nhưng cũng
có thể khái lược như Phan Huy Chú,“ trong khoảng 20 năm, non sông đổi khác, chính là
lòng trời có ý mở cho triều Nguyễn một cơ hội lớn, để thống nhất đất nước như ngày
nay”.
Luật truyền thống đã đi vào tâm lý nhân bản rất sâu xa trong quy luật của muôn đời
mà có thể khi hội nhập với phương Tây, chúng ta dần rời xa, lãng quên giá trị tiềm ẩn
nằm sâu trong tâm thức gia đình và dân tộc. Cũng có thể khi đã bão hòa trong hội nhập
phương Tây, người Việt sẽ trở lại với những giá trị bản truyền từ luật điều chỉnh hành vi,
luật điều hành quyền lực đến luật xử lý vi phạm với nguyên tắc tối ưu là sự bình yên và
giảm bớt kiện tụng. Pháp luật tố tụng Việt Nam cũng có những quy định giảm nhẹ hình


phạt đối với phụ nữ, người già trẻ em, người tàn tật, người nghèo khổ, mồ côi, mệnh một,
khốn cùng. Đó là bản chất nhân văn bền vững trong lịch sử dân tộc mà điểm xuất phát

chỉ là “Chúng ta yêu lũy tre xanh, yêu làng, yêu xóm, yêu anh đi cày”. Truyền thống là
nền gốc, đương đại là lá cành, cây muốn có hoa thơm trái ngọt thì phải chăm sóc gốc
nền. Quy luật đó là của muôn đời dù dưới góc nhìn cá nhân, gia đình, dòng họ, dân tộc
hay thế giới.
Khi đề cập tới vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội và hệ tư tưởng tôn giáo, chúng ta
cũng cần liên hệ đến pháp luật của nhà nước Trung Quốc, một nước láng giềng có cơ cấu
nhà nước phong kiến tập quyền với truyền thống lâu đời trên thế giới và có những ảnh
hưởng trực tiếp đến Việt Nam trong quá trình lịch sử. Pháp luật Trung Quốc lấy thưởng
phạt làm nguyên lý trị quốc, pháp luật Việt Nam lại lấy giáo hóa làm đầu. Học thuyết
Pháp gia của Trung Quốc cho rằng có công thì thưởng, có tội thì phạt và cần sử dụng
hình phạt tàn khốc để cai trị. Nhưng pháp luật Việt Nam lại không hoàn toàn như vậy.
Bên cạnh việc thưởng phạt phân minh, tất cả các Bộ luật điều chỉnh đều hết sức chú
trọng đến Khoa cử để chọn người có tài đức ra làm quan. Trong QTHL, chương Vi chế
có nhiều điều khoản quy định về chế độ khoa cử rất ngặt nghèo, chọn người thực tài ra
quản lý đất nước. Đồng thời rất chú trọng đến nhân cách của người làm quan. Những kẻ
đầu hàng giặc, phản bội, tội phạm thì con cháu ba đời đều không được thi cử và làm
quan. Nhà Nguyễn trong HVLL và Hội điển cũng đồng quan điểm như vậy. Quản lý và
xử lý vi phạm là công cụ căn bản đảm bảo sự tôn nghiêm của pháp luật, pháp chế và
pháp trị cả về công quyền và tư quyền, cả nhân thân và tài sản, cả cá nhân, gia đình và xã
hội, cả chính trị, tư tưởng và văn hóa.
Qua đó khẳng định, pháp luật tố tụng thực sự là một phần không thể thiếu trong nền
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng của nhà nước PKVN dù ở bất cứ thời điểm
lịch sử nào. Công cụ đó được đảm bảo bằng sức mạnh của cả lực lượng văn quan và võ
quan, đó là quy luật tất yếu, là công cụ và sức mạnh của thể chế pháp trị nói chung và tố
tụng nói riêng.
-

Pháp luật tố tụng bảo vệ nền hành chính quân sự và chủ quyền dân tộc



Pháp luật tố tụng là một trong những công cụ bảo vệ nhà nước và xã hội phong
kiến, bao gồm: quân chính, quan chế hành chính và công đường các nha môn. Lực lượng
quân chính (quân đội) bảo vệ nhà nước, lãnh thổ, biên giới, chủ quyền quốc gia. Quân
binh bảo vệ hoàng thành cung điện, hoàng thất của nhà vua và quan lại trong triều. Công
đường thực hiện việc xét xử và trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật. Cả ba hợp thành
cỗ máy quyền lực của nhà nước phong kiến, kết hợp liên thông “văn võ song toàn”.
Quân sự rất quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ nhà nước
phong kiến, bảo vệ quyền lực ngai vàng chế độ quân chủ chuyên chế, cho nên, trong nội
dung bộ luật của các thời kỳ khác nhau đều chú trọng điều chỉnh các đối tượng khi vi
phạm trong lĩnh vực quân chính. Trong QTHL có tới 43 điều về quân chính. Hầu hết các
hành vi vi phạm đều ở mức độ trừng phạt rất nặng, trong đó có tới 26 điều xử tội tử với
chủ yếu án chém. Không chỉ có trừng phạt, nhà vua cũng có những chính sách được ghi
trong luật về chế độ đãi ngộ với quân sỹ, võ quan trong triều. Trong Thiên nam dư hạ tập,
quyển thứ nhất có biên lại trong thời Hồng Đức năm thứ 11(1480) quy định Lệ chia cấp
đều phần ruộng đất công cấp cho quân đội“Phàm ở quân đội được chia đều, đều y theo
phần, trước sau lần lượt, lấy Tổng bài quân lại, tổng tiểu kỳ, chánh phó, ngũ trưởng mà
cấp trước....đến những người cưỡi ngựa giỏi bắn cung tốt” cho thấy, pháp luật quy định
rất rõ ràng về chế độ ruộng đất cho những võ quan và quân binh, người có thành tích
trong quân đội. Một mặt thúc đẩy quân đội tham gia làm kinh tế, mặt khác thể hiện chính
sách của nhà nước đối với quyền lợi của các võ quan và gia nhân quân đội. Quân đội là
công cụ bạo lực, trấn áp tội phạm và bảo vệ nhà nước cũng như triều đình, bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ và an ninh tố tụng. QTHL có những quy định trừng phạt rất nặng nếu vi
phạm quan hệ với nước ngoài như cấm bán ruộng đất, binh khí, mắm muối cho người
nước ngoài, hoặc quy định đối với sứ thần ra nước ngoài không được giao tiếp với người
nước ngoài, không được tiết lộ công việc nhà nước (Điều 73 -79 – QTHL).
Nhà nước PKVN đã sử dụng pháp luật nói chung và luật tố tụng nói riêng làm
công cụ cho sức mạnh của nhà nước, chính quyền và quân đội, thiết lập mối quan hệ
trong khu vực, bảo toàn quốc gia, bảo vệ dân tộc độc lập, thực hiện mục tiêu dựng nước,



giữ nước và phát triển đất nước. Qua đó đồng thời thực hiện chức năng tổ chức và xây
dựng, trấn áp và bảo vệ; chức năng điều chỉnh và kiểm soát, chức năng điều hành và xử
lý vi phạm, chức năng quản trị xã hội điều hành quyền lực nhà nước và pháp luật quân
chủ, hướng đến sự ổn định và phát triển trong tiến trình của Lịch sử Việt Nam.
Giá trị ứng dụng hiệu quả thực tiễn trong quá trình thực thi pháp luật tố tụng
Sự ra đời của QTHL, QTKTĐL, HVLL và các Hội điền, Điền chế là thành tựu của quá
trình lập pháp của nhà nước PKVN. Mục tiêu của nhà nước phong kiến trong việc xây
dựng và ban hành Bộ luật nhằm định ra nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ xã hội giữa các chủ thể với cơ cấu cơ quan quyền lực nhà nước, giữa quan với
dân, giữa quyền lợi ích của nhà vua, hoàng tộc, giới quý tộc, địa chủ và quyền lợi ích
quốc gia. Từ đó, nảy sinh rất nhiều xung đột lợi ích khó có thể dung hòa được, buộc phải
có một một cán cân đối trọng cân bằng lợi ích. Và như vậy, văn bản pháp luật ra đời để
đáp ứng yêu cầu đó. Khi pháp luật cân bằng, bảo vệ được quyền lợi ích của tất cả các bên
trong xã hội, lúc đó, pháp luật đã đạt được mục tiêu điều chỉnh và ứng dụng trong việc áp
dụng thi hành Bộ luật. Mọi hoạt động tố tụng đều nhằm bổ sung cho việc thực hiện triệt
để giá trị cân bằng lợi ích đó.
Chính vì thế, tính ứng dụng trong thi hành Bộ luật của triều đại phong kiến được
ghi nhận là những thành tựu và giá trị pháp lý không bị phủ nhận theo thời gian lịch sử.
“Bộ luật có giá trị như vậy xứng đáng được coi là một trong những thành tựu tiêu biểu
của nền văn hiến nước ta và đáng được được giới thiệu rộng rãi không chỉ với những
người làm luật, làm sử mà với tất cả những ai quan tâm đến nền văn hóa, văn minh của
dân tộc Việt Nam”.
4. Giá trị tiến bộ và nhân văn của pháp luật tố tụng PKVN
Những điểm tiến bộ đặc sắc của pháp luật tố tụng PKVN đã phần nào được nghiên
cứu luận giải ở các phần trên và cũng có thể còn rất nhiều những giá trị sâu xa mà trong
bản luận án này tác giả chưa tìm ra và giải mã. Hầu hết các nhà nghiên cứu về cổ luật
Việt Nam đều có chung nhận định khách quan rằng: Ngay từ thế kỷ XV, khi châu Âu còn
chìm trong đêm trường trung cổ, luật pháp của lãnh chúa và nhà thờ còn ngự trị thì ở



Trung Quốc và Việt Nam đã có mô hình nhà nước tập quyền mạnh và những Bộ luật mà
nội dung tiến bộ tân kỳ của nó làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu phương Tây. Cùng
chung nhận định này, học giả M.Aikyo và T.Inaco đã khẳng định trong công trình nghiên
cứu về Đông Nam Á rằng: Pháp luật Việt Nam trong quá khứ quyết không đồng nhất với
pháp luật Trung Hoa. Bộ QTHL thế kỷ XV mặc dù chịu ảnh hưởng luật lệ nhà Đường
Minh Trung Quốc nhưng cũng có nhiều nét riêng độc đáo của Việt Nam. Bộ QTHL khác
với luật Trung Quốc ở chỗ đã phân biệt pháp luật vật chất với pháp luật thủ tục, đã tách
luật gia tộc khỏi luật dân sự và luật hành chính và quan trọng hơn là thừa nhận quyền tài
sản của người phụ nữ .
Địa vị pháp lý của người phụ nữ trong tố tụng, theo học giả In SunYu Hàn Quốc:
địa vị pháp lý của người phụ nữ trong pháp luật Lê Sơ so với pháp luật Trung Hoa là
khác nhau. Mối liên kết gia đình trong luật Việt lỏng lẻo hơn luật gia đình Trung Quốc về
nhân thân và tài sản. Pháp luật Trung Quốc hầu như không bảo vệ quyền của người phụ
nữ như trong luật Việt về các phương diện như: quyền từ hôn, hối hôn, tiêu hôn, quyền
xin ly hôn, quyền sở hữu, hợp đồng và thừa kế. Pháp luật triều Lê bảo vệ quyền tài sản
của các thành viên gia đình. Vợ chồng có quyền tài sản riêng kể cả trước, trong và sau
hôn nhân. Khi hôn nhân không con hoặc khi một người mệnh một, người còn sống vẫn
được nhận cấp dưỡng từ tài sản của người đã mất. Tất cả các quyền đó lẽ đương nhiên
được bảo vệ bằng cơ chế nhà nước, bằng phong tục tập quán và pháp luật tố tụng.
Pháp luật tố tụng PKVN bảo vệ căn bản quyền của người phụ nữ, người già, trẻ em,
người tàn tật về phương diện tố tụng. Những quy định chung về hình phạt, về giam giữ,
khảo cung và thi hành án, đều có chính sách giảm nhẹ, nhân đạo. Ví dụ, nữ phạm nhân có
nhà ngục riêng, nữ phạm nhân mang thai sinh nở không được tra khảo, thi hành án, các
quan cai ngục không được lợi dụng, lạm dụng đàn bà con gái trong ngục, vợ phạm tội
không bị giam cấm thì giao cho chồng quản cố, nữ phạm nhân trong gia đình mưu phản
không bị xử tử mà bị đày làm công nô,..Những nét đặc sắc này đã thể hiện tính nhân văn,
nhân đạo của pháp luật PKVN cả về phương diện hình sự, dân sự và tố tụng đối với phụ
nữ. Trong QTHL, đối với tội nhân là trộm cướp, luật mặc định“đàn bà thì giảm tội”, theo



luật mức phạt và tiền chuộc cũng được giảm nhẹ (Điều 1,401– 410, 429, 680, 709 –
QTHL). (Điều 1 & bảng giá chuộc – HVLL).
Khi so sánh với luật trong khu vực Đông Nam Á, Tây Á, Đông Bắc Á, châu Âu trung cổ
thì những quy định của cổ luật Việt Nam thật đặc sắc, tiến bộ và bảo vệ con người, có
nhiều quy định bảo vệ tầng lớp yếu thế trong xã hội.
Giá trị nhân văn, ân nghĩa của pháp luật gia đình truyền thống Việt Nam cũng
chứa đầy những giá trị hiếu nghĩa nối truyền qua các thế hệ và các biện pháp xử lý khi có
tranh chấp xảy ra. Các quy định về thừa kế, giao dịch dân sự như: mua bán, cầm cố, cho
thuê, vay nợ và các Điều lệ về tranh kiện cho bên nguyên, bên bị khi có xung đột về
quyền và lợi ích hợp pháp, đều được dự liệu khá chi tiết. Có thể nhận thấy nhà nước Lê Trịnh – Nguyễn rất chú trọng đến công tác hòa giải từ cơ sở trong những vụ việc tố tụng
về dân sự. Các vụ việc về thu thuế, sai nha hà khắc lạm dụng, các vụ kiện về nhân mạng,
trộm cướp, cờ bạc, đánh nhau, lăng mạ, vu cáo, về điền sản, tiền nợ, cưới hỏi... đều có
những quy định cụ thể phù hợp cho các bước, các thủ tục trong tiến trình tố tụng.
Phân loại tố tụng theo vụ việc là một trong những thành tựu đáng trân trọng tự hào
của luật tố tụng truyền thống Việt Nam. Đại Việt – Đại Nam được coi là một trong những
quốc gia đã xây dựng được Bộ luật chuyên ngành về tố tụng đầu tiên trên thế giới. Nếu
như QTHL và HVLL là Bộ luật Hiến chương với những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng,
trách nhiệm của quan lại trong án từ thì “Từ tụng điều lệ”, “Quốc triều Hồng đức niên
gian chư cung thể thức”, “Nhân mạng tra nghiệm pháp”, “Quốc triều khám tụng điều lệ”
“Khâm định Đại Nam Hội điển” chú trọng tính ứng dụng của Luật thực hành. Vấn đề này
đã được luận giải ở trên và có thể tham khảo trong các VBQPPL thời quân chủ. Các bước
thủ tục cụ thể chuyên sâu, tiến trình của một vụ án với những giá trị liên quan đến quá
trình tranh kiện như: chứng cứ, tang vật, nhân chứng, vật chứng, chứng thư...tất cả đã
được pháp luật định vị nghiêm ngặt từ khởi kiện, thụ lý, án phí, hồ sơ, khảo cung, xét xử
đến thủ tục loát tụng, giám sát và đảm bảo thi hành bản án. Khi xem xét một cách kỹ
càng thì rõ ràng cổ luật Việt Nam không nghiêng về tính hình sự như một số tác giả đã
từng khẳng định. Pháp luật truyền thống chứa đựng rất nhiều giá trị của pháp luật dân sự,


hành chính công quyền, tố tụng hành chính, xử phạt quan chức...trong QTHL có tới 354

trên tổng số 722 điều luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ cũng như xử phạt quan chức
trong thi hành công vụ hành chính tư pháp và quân sự an ninh.
Giám sát tư pháp tố tụng là cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đảm bảo sự tôn
nghiêm của pháp luật, giúp cho pháp luật nội dung được thực thi ngay thẳng, chính đáng.
Pháp luật tố tụng đồng thời là công cụ để xử lý & khắc phục hệ quả vi phạm trên mọi
lĩnh vực, thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ, bảo vệ con người, tài sản,
bảo vệ nhân sinh và văn hóa. Sự nghiêm minh của hệ thống tư pháp nói chung và pháp
luật tố tụng nói riêng luôn là thước khuôn cho sự minh bạch của thể chế chính trị pháp lý
quốc gia cũng như khu vực và quốc tế. Khi nhìn vào chiều sâu của lịch sử, công lý tòa án
có thể chỉ phản ánh được phần nào những giá trị của cổ luật trong nội lực truyền thống
của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh những đóng góp tiến bộ về nguyên lý pháp luật, chính
sách pháp luật, trong hình thức và nội dung, pháp luật tố tụng trong ứng dụng thực hành
thực tiễn vẫn còn hạn chế bởi tính tập quyền, chuyên chế của toàn bộ quy trình tố tụng
[Xin xem mô hình tố tụng Phụ lục].
Phạt tiền và chuộc hình phạt bằng tiền quy luật giá trị sức lao động được ứng dụng
trong hình phạt và áp dụng hình phạt. Phạt tiền trong cổ luật có định khung rất rõ ràng cụ
thể. Nếu địa vị, thân phận càng cao thì phạt tiền càng nặng và ngược lại. Phạt tiền giảm
nhẹ đối với người già, phụ nữ, trẻ em, người nghèo, cô đơn, tàn tật. Chuộc hình phạt
bằng tiền cũng là một giá trị mà nay pháp luật tố tụng cần nghiên cứu ứng dụng. Điều
này có lợi cho tất cả các bên, phòng chống được tham nhũng và sự tha hóa trong hoạt
động tư pháp xét xử.
Đây là một vấn đề tác giả đã đặt ra từ nhiều năm trước song cho đến nay, nền pháp
luật đương đại của chúng ta mới chấp nhận vế thứ nhất, phổ biến phạt tiền và đôi khi quy
định phạt tiền rất rất cao. Còn vế thứ hai, chuộc hình phạt bằng tiền vẫn còn là vấn đề bỏ
ngỏ. Lý do thì có rất nhiều, tranh luận bàn cãi, nhưng các nhà lập pháp đương đại thì biện
luận rằng: Bất bình đẳng nếu cho chuộc tội bằng tiền. Nghiên cứu cổ luật QTHL,
QTKTĐL, HVLL, HĐTCT, LTCLTC,..sẽ thấy tư duy pháp lý của cha ông xưa rất khoa


học biện chứng, cách nhìn sự bình đẳng dựa trên nhiều thông số, đa chiều và hợp quy

luật. Đảm bảo tính hợp pháp hợp lý, hợp pháp hợp quy luật, hợp pháp và phát triển. Nói
cách khác: “Tiên vương chi pháp” kết hợp hài hòa với“Hậu vương chi pháp” tạo điều
kiện cho sự tiến bộ và mở đường cho sự phát triển.
5. Những giá trị đặc trưng khái quát của pháp luật tố tụng truyền thống
Có thể nhận diện sáu đặc trưng cơ bản của pháp luật tố tụng PKVN như sau:
Một là, Không tách biệt luật nội dung và hình thức tố tụng, luật hình thức và thủ tục
thường bắt nguồn từ luật nội dung và hướng tới mục đích đạt hiệu quả trong xử lý vi
phạm và xét xử cho cá nhân, gia đình và xã hội;
Hai là, Không có sự biệt lập về tổ chức quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, tư
pháp và quân sự an ninh, hệ thống này luôn được vận hành liên thông, đồng bộ, thống
nhất, hướng đến hiệu quả của mục đích chung;
Ba là, Ranh giới giữa tố tụng hình, tố tụng dân, tố tụng hành chính, kỷ luật công vụ
và quân sự chỉ mang tính tương đối, chủ yếu phân loại theo tính nặng nhẹ, nghiêm trọng
hay không nghiêm trọng của vụ việc (đại sự hoặc tiểu sự; đại hình, tiểu hình, vi cảnh),
hầu hết các quan đều có thể xét xử việc Dân cả Hình và Hộ, còn các vụ việc Quan chức,
vụ án cần truy bắt tội nhân trộm cướp giết người hung ác hoặc vi phạm trong quân đội
(việc Quân) khi ra trận, lúc tập luyện đều có thủ tục tố tụng mang tính chuyên biệt;
Bốn là, Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, thẩm quyền, trách
nhiệm của quan lại, của các cấp xét xử trong hệ thống hành chính tư pháp và quân sự an
ninh được quy định rất nghiêm cẩn. Tất cả đều được vận hành thống nhất trong chính thể
quân chủ. Có thể đây là những giá trị cho một nền tư pháp vững mạnh để hướng tới mục
tiêu dân quyền;
Năm là, Việc xử phạt quan án khi vi phạm pháp luật rất nghiêm khắc, họ đều bị
giáng phẩm trật, bãi chức tước hoặc bị xử chết và phải lấy tài sản của mình để bồi thường
khi gây thiệt hại kể đối với cả việc công và việc tư;


Sáu là, Cách phân loại thủ tục tố tụng theo vụ việc rất có ý nghĩa trong thời đại mới
bởi tính phức tạp của thời công nghệ cao 4.0 và mối liên hệ toàn cầu thì thủ tục tố tụng
chuyên ngành, chuyên sâu, chuyên biệt càng cần phải được xây dựng và phát triển đồng

bộ, liên ngành, liên thông, thống nhất. Điều này chi phối cả chiến lược đào tạo nguồn
nhân lực và kết nối cơ sở vật chất và khoa học công nghệ.
Những giá trị lịch sử cơ bản của pháp luật tố tụng PKVN là đã xây dựng được một
hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động tư pháp, tòa án và xử lý vi phạm trong các lĩnh
vực đời sống xã hội phù hợp và tiến bộ. Cũng có thể nhìn nhận sứ mệnh của pháp luật tố
tụng PKVN trong những mục tiêu cơ bản của chính thể quân chủ tập quyền Đại Việt. Đó
là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc quốc gia, an ninh chính trị, dựng nước, giữ nước và
mở nước; bảo vệ con người về tính mạng tài sản danh dự văn hóa; đoàn kết các dân tộc,
bảo vệ an ninh và an toàn xã hội.
Từ lý luận quy phạm đến ứng dụng, pháp luật tố tụng PKVN thể hiện tính tiến bộ
đặc sắc với những thành tựu và giá trị bền vững. Đặc trưng của pháp luật tố tụng truyền
thống Việt Nam có thể còn nhiều vấn đề cần phân tích, nghiên cứu ứng dụng và có một
điều chắc chắn rằng: phân loại tố tụng theo vụ việc, chuẩn hóa đội ngũ phán quan, giám
sát tố tụng là những thành công cơ bản của pháp luật tố tụng PKVN. Nó sẽ được phục
hưng và phát triển trong quá trình cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp tố tụng
chuyên nghiệp và hiệu quả, vì công lý và vì con người với những giá trị nhân văn trong
mục tiêu kiến tạo nền tư pháp liêm chính của thể chế Nhà nước pháp quyền - Xã hội
công dân với thước khuôn của luật và tính tối thượng của Luật Nhân quyền.



×