Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học luyện từ cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.48 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …..
TRƯỜNG ...........
**********

SÁNG KIẾN
..................

Tác giả: ............
Chức vụ: Giáo viên
Lĩnh vực nghiên cứu: Giáo dục
Đơn vị công tác: Trường …….

………, tháng 04 năm ………….

BÁO CÁO
1


Vài biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Luyện từ và câu lớp bốn.
I- Sơ lược lý lịch tác giả:
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị.
a. Thuận lợi:
- Trường chỉ có một điểm tập trung, sân trường bằng phẳng, rộng rãi thoáng mát
cả mặt tiền và hậu, có đầy đủ sân chơi và bãi tập cho học sinh, có đủ các phòng chức
năng để phục vụ dạy học. Mỗi phòng là một lớp độc lập và được được dạy 2 buổi
/ngày (đối với học sinh lớp 1, 4, 5).
- Đối với học sinh chưa hoàn thành, giáo viên lên kế hoạch phụ đạo kịp thời ở
từng thời điểm và có đăng kí với Ban giam hiệu .
- Bản thân giáo viên chúng tôi đã được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo
ngành, chuyên môn Phòng Giáo dục đến Ban Giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn


các khối lớp 4.
- Chúng tôi được học tập và tiếp thu kĩ nội dung chương trình và phương pháp
dạy học mới. Đội ngũ giáo viên trong trường yêu nghề, nhiệt tình trong công tác,
thường xuyên thao giảng, dự giờ, trao đổi, rút kinh nghiệm, nhằm cải tiến phương
pháp để nâng cao chất lượng dạy học.
- Chương trình sách giáo khoa gồm các bài tập đọc đa dạng về thể loại (văn,
thơ, kịch …), phong phú về nội dung, được bố trí phù hợp theo chủ điểm. Phương pháp
dạy học mới, chú trọng về rèn đọc hơn ở phương pháp dạy học cũ, có yêu cầu đạt
chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài học rõ ràng giúp giáo viên tiến hành các tiết dạy
một cách lôgic, nhẹ nhàng và hiệu quả.
- Thư viện trường khang trang thoáng mát có đầy đủ sách, báo cho học sinh
đọc. Ngoài ra, trong lớp học còn có góc thư viện. Tạo cơ hội cho các em được tăng
thời lượng và thể hiện kĩ năng đọc của mình trước lớp.

2


b. Khú khn:
- Ai cũng cho rằng khi dạy phân môn Luyện từ và câu thờng
khô khan, khó truyền đạt đợc hết ý trong bài học, do đặc thù của
môn học, nhất là trong cách tìm từ, giải nghĩa từ hay dùng từ đặt
câukhiến cho học sinh cũng phải tiếp thu bài một cách thụ động.
- Giáo viên đôi lúc còn giảng dạy theo phơng pháp cũ, việc
phân chia thời lợng lên lớp ở môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt động
của cô- trò có lúc thiếu nhịp nhàng, nặng tính hình thức.
- Bên cạnh đó một số phụ huynh cha thực sự quan tâm đến
con em mình còn có quan điểm trăm sự nhờ nhà trờng, nhờ cô
giáo cũng làm ảnh hởng đến chất lợng học tập của phân môn.
- Có nhiều học sinh cha thật sự chú trọng khi học môn Tiếng
Việt nói chung, môn Luyện từ và câu nói riêng. Trong tâm tởng của

các em và một số phụ huynh học sinh đều hớng cho con em học
môn Toán nhiều hơn mà cha thật sự chú trọng môn Tiếng Việt, coi
nhẹ môn Tiếng Việt, cho rằng, các em chỉ cần đọc đợc, viết đợc là
đợc. Chính vì vậy nhiều học sinh không hứng thú với môn học, thờ
ơ với môn học và lệ thuộc vào các loại sách tham khảo, sách bồi dỡng,
sách bài tập có sẵn đáp án, không chịu khó học, suy nghĩ hay chú
tâm vào môn học, nhất là đối với phân môn Luyện từ và câu. Do
đó các em cha thật sự hứng thứ với môn học này.
- Tờn sỏng kin/ ti gii phỏp

Vi bin phỏp nõng cao cht lng dy hc
phõn mụn Luyn t v cõu lp bn.
-Lnh vc: Chuyờn mụn
III. Mc ớch yờu cu ti, sỏng kin:
1. Thc trng ban u trc khi ỏp dng sỏng kin
a. i vi chng trỡnh sỏch giỏo khoa.

3


Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi
tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương
pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của
bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức
khi luyện tập, thực hành.
b. Đối với giáo viên.
Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh
mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng
Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá

trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy
học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4A,, tôi
thấy thực trạng của giáo viên như sau:
- Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh
nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên
ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
- Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai
thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý
dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo
khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho
học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
- Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới
phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong
việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu
quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.
c. Đối với học sinh.
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn
“Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân
môn vừa “khô” vừa “khó”.
Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận
diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.

4


Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót,
làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.

Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy,
chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu
cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra
yếu kém thiếu chắc chắn.
Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy...Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp
4B bằng bài tập sau.
Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
“Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhạn. Rồi tre lớn lên cứng cáp,
dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người”.
Qua khảo sát 27 học sinh năm học 2016-2017 của lớp tôi kết quả đạt được
như sau:
Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%

2


7,40

18

66,66

7

25,92

Điều đáng nói ở đây là có tới 7 em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong quá
trình làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ. Qua
giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía, người dạy và
người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra những biện pháp đổi mới
trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên và kết quả dạy học được nâng
lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học.
d. Sơ lược một số dạng bài tập “Luyện từ và câu” điển hình.
+ Phân tích cấu tạo của tiếng.
+ Tìm các từ ngữ nói về chủ đề.
+ Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao.
+ Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp.
+ Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được
+ Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó.
+ Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn.
+ Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó.
+ Viết thêm trạng ngữ cho câu...
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến

5



Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con
người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.
Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở
nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa
những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn
trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình
thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất
yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em.
Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình
giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ
vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to
lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá
trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có
tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và
câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó
tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm
văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ
cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho
học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh
nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện
tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và
câu lớp 4.
Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các
Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải
không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4. Cùng tồn tại với nó
là Từ ngữ và Ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho

học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc,
không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài
tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong
việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết
các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi.
Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như
một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ
đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy

6


phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến
tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó
khăn đó rất cần có một biện pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy phân
môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng
dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài “Vài biện pháp nâng cao chất lượng

dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp bốn”

• Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu tình hình học tiếng việt phân môn Luyện từ và câu thực hành xác định
phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp
thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4.

• Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp
nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt

vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một
cáhc hiệu quả nhất.
3. Nội dung sáng kiến
A. Tiến trình thực hiện.
Với đặc trưng của môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã
hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học
của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài
tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 . Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều
kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện
theo các bước sau.
1. Đọc thật kỹ đề bài.
2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và
yếu tố phải tìm.
3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài.
4. Kiểm tra đánh giá.
Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn
luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm bài một
cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng
cho cả giáo viên và học sinh.

7


Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng.
Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức
đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.
Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung
các chủ điểm mà phân môn “ Luyện từ và câu” cần cung cấp.
- Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được:
Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt;

rèn luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng
thành ngữ tục ngữ.
- Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ, học sinh được:
Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong thơ,
tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm
hiểu được:
Có 2 cách để tạo từ phức:
1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép.
2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau
đó là từ láy.
- Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về
danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng.
Cần lưu ý:
+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
+ Thêm vào các từ rất, quá, lắm...vào trước hoặc sau tính từ.
+ Tạo ra phép so sánh.
Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các
kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.
Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
1. Thái độ khen, chê.
2. Sự khẳng định, phủ định
3. Yêu cầu, mong muốn...
- Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao
tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự.
Câu hỏi:
1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được
hỏi.

8



2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Câu khiến:
1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự.
2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù
hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp...
3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị.
d. Biện pháp tổ chức.
Các kiểu hình thức và kĩ năng cần học trong phân môn “Luyện từ và câu” được
rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên.
a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ.
Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
- Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học
sinh làm việc theo nhóm. Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho
học sinh làm việc ở lớp.
Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ...
Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại
ý kiến đúng.
Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập.
b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.
- Ngay

- Thẳng

- Thật


Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong
phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá
trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật).
Từ

Từ láy

Từ ghép

Ngay

Ngay ngáy

Ngay thẳng, ngay ngắn...

Thẳng

Thẳng thắn

Ngay thẳng, thẳng tắp...

Thật

Thật thà

Sự thật, thẳng thật...

Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên
cho học sinh làm việc cá nhân.


9


* Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:
Giáo viên chốt lại: Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.
Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần
hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại
với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và
từ láy. Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
+ Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa...
+ Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ...
c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao
tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh.
Ví dụ1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy
là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao?
Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ
họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay
mắc lỗi ở vạch danh từ chung.
Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh
áp dụng vào bài của mình.
Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông
Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí
Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt
Nhà vua: Để làm gì ?
Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới
nước.

Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu
trước lớp.
Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta
lấy cái đục là cái lỗ để nước đục chảy ra.
Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch
chân trong đoạn văn sau:
Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà
thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên.

10


Hoa cà phê thơm lắm em ơi
Hoa cùng một điệu với hoa nhài
Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.
Như miệng em cười đâu đây thôi...
Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh
Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh;
các em đã hiểu.Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạng
chân cụ thể: Hoà cà phê thơm như thế nào? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi
rất xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não):
Thơm – lắm
Trong – ngà
Trắng – ngọc
Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này.
c. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học
sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
1. Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:

a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học
sinh trong lớp nhận xét bổ sung.
Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui...
Giáo viên hướng dẫn mẫu:
+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
+ Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào?
+ Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.
Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào?
a) Cho mượn cái bút!
b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút!

11


c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không?
Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự
trong giao tiếp.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu
cầu lịch sự.
2. Câu hỏi:
Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể:
Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ
già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?
Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại
khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u

sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn tán
sôi nổi:
- Chắc là cụ bị ốm?
- Hay là cụ đánh mất cái gì?
- Chúng mình thử hỏi xem đi?
Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác
định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so
sánh.
Các câu các em hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?
- Chắc là cụ bị ốm
- Hay cụ đánh mất cái gì?
Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?
Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù
hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà
hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông
cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần
đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các
em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể.

12


Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như
trong bài tập trên ở ngoài thực tế.
1. Câu khiến

- Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm:
- Chuyển các câu kể thành câu khiến.
- Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống.
- Đặt câu khiến theo yêu cầu có

“hãy” trước động từ
“đi” hoặc “nào” sau động từ
“xin” hoặc “mong” trước chủ ngữ

- Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên.
Ví dụ 1: Chuyển các câu kể thành câu khiến
- Nam đi học.
- Thanh đi lao động.
- Ngân chăm chỉ.
- Giang phấn đấu học giỏi.
Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - Nam đi học!
-Nam phải đi học! - Nam hãy đi học!
Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm cac từ “đi”,“phải”,
“hãy” ứng với lời yêu cầu ở mức nặng –nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu.
- Nam đi học đi! (yêu cầu nhẹ nhàng)
- Nam phải đi học! (yêu cầu bắt buộc)
- Nam hãy đi học đi! (yêu cầu mang tính ra lệnh)
Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ),
mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét. Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có
thể dùng một trong các cách sau: Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước
động từ... và cuối câu dùng dấu chấm than (!).
Cùng phương pháp tổ chức này tôi cho học sinh làm ví dụ 2.
Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây:
a. Câu khiến có hãy ở trước động từ.
b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ.

c. Câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ.
Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến.

13


a. Bạn hãy làm bài tập đi!
b. Mong các em làm bài tập thật tốt!
4. Câu cảm: (câu cảm thán)
Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán
phục, đau xót, ngạc nhiên...) của người nói.
Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm,
thật...Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!).
Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau:
a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu cảm
để bày tỏ sự thán phục.
b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng
nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng.
Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình huống,
một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung.
a. Ôi, bạn giỏi quá!
b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn!
Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá
nhận để các bạn nhận xét.
Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộ lộ cảm xúc gì?
a. Ôi, bạn Nam đến kìa!
b. Ồ, bạn Nam thông minh quá!
c. Trời, thật là kinh khủng!
Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân:
- B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm.

- B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu.
- B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm.
d. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu.
Dạng bài tập:
- Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu.

14


- Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.
Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu:
a................, em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình
b................, em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu.
c................., hoa đã nở.
Theo tôi, vì phần này tôi chưa trực tiếp giảng dạy nhưng ở chương trình lớp 4
cũ nó không có những chi tiết cụ thể rõ ràng như vậy nên việc hình thành kiến thức
khó khăn hơn. Còn đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo
nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp
bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu?
Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh
nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.
Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản.
Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc.
Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống:
a).............., xã em vừa đào một con mương.
b).............., chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt.
c)..............., em phải năng tập thể dục.

Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm gì?
Quyết tâm..........tốt để dành được gì?
Tập thể dục có lợi gì?
Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập:
Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau
- Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ.
- Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng
tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng.
Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ
“bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì?
Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân và
nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?.
Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập
mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu
của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho

15


nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động
tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để
học sinh dễ xác nhận.
Ví dụ: Với dạng bài mở rộng vốn từ ý chí – nghị lực.
Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực nên đax vượt qua
nhiều thử thách, đạt được thành công.
Với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó viết
ngay vào nháp.
Với học sinh trung bình và yếu tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ
thuộc chủ đề ý chí – nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết (học
sinh yếu tôi còn hỏi về người em định viết có những phẩm chất gì).

Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng
cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc
làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy.
Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm
bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề
cần chấn chỉnh.
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ
chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua một học kỳ ôn tập
cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự
chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện từ và câu
giải quyết các bài tập với lớp 4A do tôi chủ nhiệm.
Đề bài:
Đọc thầm bài “Về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau:
1) Trong bài “Về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền”
2) Câu “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như
thế” có mấy động từ, tính từ?
a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ

16


3) Câu “Cháu đã về đấy ư ?” được dùng làm gì?
a. Dùng đề hỏi.
b. Dùng để yêu cầu, đề nghị.
c. Dùng thay lời chào.

4) Trong câu “ Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ phận
nào là chủ ngữ?
a. Thanh
b. Sự yên lặng
c. Sự yên lặng làm Thanh.
B. Thởi gian thực hiện.
Tôi thực hiện đề tài này trong năm học 2016-2017 và áp dụng năm học 2017-2018
C. Biện pháp tổ chức
1. Biện pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu).
2. Biện pháp phân tích tổng hợp.
3. Biện pháp điều tra.
4. Biện pháp thực nghiệm.
5. Biện pháp đàm thoại.
6. Biện pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
Tiến trình nghiên cứu.
1. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh và hiểu tình trạng giải quyết
làm các bài tập Luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 4B.
2. Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập có hiệu quả hơn.
3. Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng số
liệu thống kê.
IV. Hiệu quả đạt được.
1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến.
a. Trước khi áp dụng sang kiến.
Qua khảo sát 27 học sinh năm học 2016-2017 của lớp 4B, kết quả đạt được
như sau:
Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành


SL

%

SL

%

SL

%

2

7,40

18

66,66

7

25,92

17


b. Sau khi áp dụng sáng kiến.
Qua áp dụng sáng kiến, kết quả đạt được của 28 học sinh năm học 2017-2018,

kết quả đạt được như sau:
Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%

5

17,85

23

82,14

0

0


2. Lợi ích thu được khi sáng kiến áp dụng.
Thực hiện đề tài này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ
năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4B tôi thấy kết
quả của việc làm đó như sau:
- Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm
nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách
có hiệu quả.
- Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ
sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.
- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài.
Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.
- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu
hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình.
- Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài
kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn “Luyện từ và
câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn
nêu ý kiến của mình.
V. Mức độ ảnh hưởng
1. Khả năng áp dụng giải pháp:
Qua áp dụng sáng kiến này, tôi thấy mang lại hiệu quả rất cao không riêng ở lớp
tôi mà còn thực hiện tốt cả khối trong trường tiểu học B Long An, áp dụng được các
trường học trong Thị xã và trong tỉnh An Giang. Là nền tảng vững chắc cho cả bậc tiểu
học.
2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp đó:
Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Để học sinh đạt
được kết quả cao trong học tập, ngoài kinh nghiệm giảng dạy, người giáo viên phải
luôn luôn theo dõi những tiến bộ trong học tập của học sinh, qua đó kịp thời cải tiến,
điều chỉnh hoạt động dạy cho có hiệu quả hơn. Điều quan trọng là với lương tâm và


18


trách nhiệm, trí tuệ và tâm huyết, mỗi người giáo viên cần biết tự rèn luyện, tự học tập,
tự sáng tạo để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ trẻ phấn đấu và rèn luyện, xứng
đáng với niềm tin của nhân dân, góp phần sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
VI. Kết luận
1. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4B giúp học sinh
nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được
từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định
các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt
động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý:
2. Bài học kinh nghiệm.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh
trong thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng
dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học
sinh, gây được hứng thú học tập cho các em.
- Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy.
- Lưu ý quá trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh
lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải.
- Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương
pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp
đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho
kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm
chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập,
nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có
hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc
cho học sinh.
- Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo

nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu...Để học sinh nắm
vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau:
+ Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập.
+ Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học
sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các
hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt
hiệu quả giờ dạy.
3. Kiến nghị, đề xuất.

19


Dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt
bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy:
* Đối với học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của
môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để
kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó chính là gia đình – nhà
trường xã hội.
* Đối với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng
nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh.
+ Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng
học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài.
+ Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi.
+ Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách
nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học
sinh.
* Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở
vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức.
+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách
tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.

+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành
tích cao trong giảng dạy và học tập.
+ Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
Rất mong sự góp ý của các đồng nghiệp để chúng ta có hương giải quyết tiếp
theo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học phân môn “Luyện từ và câu” nói riêng
và phân môn Tiếng Việt nói chung, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người
phát triển toàn diện.
Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến

Người viết sáng kiến

Huỳnh Thanh Chớn

20


MỤC LỤC
NỘI DUNG
I. Sơ lược lý lịch tác giả
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị
III. Mục đích yêu cầu đề tài, sang kiến
1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sang kiến

21

TRANG
1
1

3
3


2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
3.Nội dung sáng kiến
IV. Hiệu quả đạt được
1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến
2. Lợi ích thu được khi sáng kiến áp dụng
V. Mức độ ảnh hưởng
1. Khả năng áp dụng giải pháp
2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp đó
VI. Kết luận
1. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2. Baì học kinh nghiệm
3. Kiến nghị, đề xuất.

5
6
16
16
17
17
17
18
18
18
18
19


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂN CHÂU
TRƯỜNG TIỂU HỌC “B” LONG AN

BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
“VÀI BIỆN PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP BỐN”

(Thuộc lĩnh vực: Chuyên môn)
Người viết: Huỳnh Thanh Chớn
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học B Long An
22


Số điện thoại: 0382397645
Năm học 2018-2019

N¨m häc 20182019

23



×