Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.67 KB, 26 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy học môn Toán khối THCS

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG CỦA SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trung học cơ sở là bậc học phổ cập nhằm nâng cao mặt bằng dân trí
chuẩn bị đào tạo nguồn nhân lực cho Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá để đáp ứng
mục tiêu của giáo dục phổ thông là: Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên bậc THPT, THCN, ...hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều
chủ trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Qua đó cũng
đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ nhưng
chất lượng thật sự của giáo dục hiện nay ở bậc THCS vẫn còn nhiều yếu kém.
Thể hiện rõ nét nhất là chất lượng học sinh thi tuyển vào THPT những năm học
vừa qua. Do vậy là người giáo viên trực tiếp giảng dạy không ai tránh khỏi sự
bức xúc trước kết quả quá thấp đó. Vậy nên yêu cầu đặt ra là mỗi người chúng ta
phải tìm những những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải nhìn
thẳng vào sự thật một cách khách quan .Từ đó đưa ra những biện pháp tích cực
sát với thực tế để từng bước khắc phục nhằm nâng cao chất lượng. Vấn đề này
không thể nói khắc phục là có thể thay đổi ngay được mà đòi hỏi cả một quá
trình tận tuỵ gắng sức của mọi người trong toàn xã hội.


Đối với chương trình các môn học THCS thì môn toán là môn KHTN
chiếm vị trí quan trọng trong giáo dục HS, nó không những là môn học công cụ
mà còn là môn học có tiềm năng phát triển trí tuệ, hình thành các phẩm chất tư
duy, đạo đức cho HS. Môn Toán luôn được khảo sát, thi đầu vào, đánh giá kết
quả đầu ra đối với bậc cơ sở. Là một GV dạy môn Toán THCS sẽ không khỏi
trăn trở về chất lượng HS. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục HS ở
bộ môn toán THCS? Làm thế nào để HS luôn hứng thú say mê và thật sự cảm
thấy thoái mái bổ ích trong giờ học Toán?
Mặt khác để thực hiện chủ đề năm học: “Đổi mới quản lý và nâng cao chất
lượng GD” (chỉ thị 3399/CT-BGD-ĐT ngày 16/8/2010 của bộ trưởng bộ GD&
ĐT).
2


Theo hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2015-2016 của Phòng
GD&ĐT Vĩnh Tường, tiếp tục thực hiện các cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo
đức tự học và sáng tạo”, “Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong
giáo dục” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, ''ứng dụng công nghệ thông tin'' ) đòi hỏi GV và HS phải tích cực tự học
hỏi hoàn thiện hơn theo kịp xu thế, trình độ hiện đại.
Từ những lý do trên, với kinh nghiệm thực tế từng trải tôi đưa ra sáng
kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn
Toán khối THCS” để các bạn đồng nghiệp, các bạn yêu thích môn toán, các em
HS tham khảo và có thể đóng góp thêm cho tôi những kinh nghiệm khác nhằm
sáng kiến đạt hiêu quả cao hơn.
.
2. Tên chuyên đề
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán khối THCS”
3. Tác giả chuyên đề

- Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Hằng
- Địa chỉ: THCS Lũng Hòa – Vĩnh Vường – Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 01685 170 717; Email:
4. Chủ đầu tư chuyên đề
Nguyễn Thị Thu Hằng - Trường THCS Lũng Hòa – Vĩnh Vường – Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng chuyên đề
Áp dụng vào giảng dạy môn Toán khối THCS
6. Ngày chuyên đề được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Từ tháng 11 năm 2014.
7. Mô tả bản chất của chuyên đề
A. Về nội dung của sáng kiến
7.1. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài này bản thân tôi sẽ trình bày một số biện pháp
nâng cao chất lượng dạy học môn Toán khối THCS

7.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3


+ Xây dựng hệ thống lý luận về vấn đề nghiên cứu
+ Đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu
+ Đề xuất giải pháp nghiên cứu
+ Tiến hành thử nghiệm và đối chiếu kết quả.
7.3. Địa điểm, thời gian, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Địa điểm: Trường THCS Lũng Hòa -Vĩnh Tường -Vĩnh Phúc
+ Thời gian: Từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 1 năm 2016
+ Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 6, 7, 8, 9 Trường THCS Lũng Hòa -Vĩnh
Tường-Vĩnh Phúc .
+ Phạm vi nghiên cứu qua các tiết dạy, qua các buổi chuyên đề bồi dưỡng
học sinh giỏi.

7.4. Phương pháp nghiên cứu
1. Đọc tài liệu : Tham Khảo tài liệu chuyên môn có liên quan
+ Sách giáo khoa , sách giáo viên, sách bài tập.
+ Một số vấn đề phương pháp dạy học ở trường phổ thông.
+ Tài liệu bồi dưỡng GV dạy môn toán.
+ Đổi mới phương pháp dạy học toán.
+ Bài tập nâng cao và một số chuyên đề Toán ,tài liệu chuyên toán l ,nâng
cao và phát triển toán ,....
2. Điều tra:
a. Dự giờ:
- Dự giờ học hỏi kinh nghiệm các giáo viên trong tổ.
- Rút kinh nghiệm tiết dạy trên lớp, tiết dự giờ. Qua đó, tôi luôn chú ý đến
phương pháp giảng dạy cũng như cách tổ chức tiết dạy của mỗi giáo viên, từ đó
giúp tôi tích lũy một số kinh nghiệm và hiệu quả của việc đổi mới phương pháp
dạy học .
b. Đàm thoại:
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên trao đổi với học sinh để tìm ra các
nguyên nhân học sinh chưa có phương pháp học cụ thể. Xem học sinh hỏng kiến
thức nào, phần nào học sinh chưa biết cách trình bày để có biện pháp xử lí kịp
thời.

4


- Trao đổi với giáo viên ở tổ chuyên môn trong nhà trường cùng bàn biện
pháp nâng cao chất lượng, tìm hiểu nguyên nhân học sinh học yếu ở các lớp
khác.
c. Thực nghiệm:
- Toán học là một môn khoa học thực nghiệm đòi hỏi học sinh phải thực
hành ngay tại lớp, để thực hiện được điều đó giáo viên phải giúp học sinh cũng

cố kiến thức ngay tại lớp qua các bài tập và các ?/SGK nhằm giúp các em nắm
vững các kiến thức cơ bản một cách sâu sắc từ đó hình thành kĩ năng giải toán
cho học sinh. Đồng thời giáo viên phải chú trọng bước hướng dẫn học sinh tự
học ở nhà để học sinh củng cố lại kiến thức đã học và vận dụng giải các bài tập
ở nhà tạo thói quen tự học cho học sinh. Ngoài ra đối với học sinh khá giỏi giáo
viến nên có thêm những bài tập đỏi hỏi tính tư duy cao.
d.Theo dõi các bài kiểm tra:
- Khi kiểm tra miệng, 15 phút, 1 tiết tôi phân loại học sinh yếu, trung bình,
khá, giỏi cập nhật vào sổ điểm riêng. Từ đó giáo viên tìm ra các giải pháp thích
hợp cho từng đối tượng học sinh.
7.5 Nội dung cụ thể:
Nhiều năm học gần đây cho thấy: GD học sinh đại trà môn toán ngay từ
lớp 6 chưa được quan tâm đúng mức, mà chúng ta thấy phần nhiều vẫn tập trung
cho lớp cuối cấp. Chúng ta dường như quên mất rằng: Để có kết quả cao ở năm
cuối cấp bắt buộc HS phải có nền tảng từ những năm học đầu tiên và các năm kế
tiếp. Nếu 1 HS lớp 9 không thành thạo các phép toán số nguyên, phân số, phân
tích bài toán đó ở lớp 6 sẽ không thể tính toán ở biểu thức đại số được, sẽ không
phân tích được bài toán đố để lập phương trình hay hệ phương trình được.
Không nắm rõ các khái niệm ban đầu về hình học lớp 6 như: Điểm, đoạn thẳng,
đường thẳng, tia, góc..... Sẽ không thể hình dung để vẽ 1 hình lớp trên, không có
căn cứ để chứng minh bài toán hình lớp trên.... Ngay từ năm lớp 6 các em cần
được rèn luyện với đối tượng HS yếu - kém, HS khá- giỏi.
VD: Khi học tính chất phân phối giữa phép nhân và phép cộng số nguyên;
học xong luỹ thừa, GV có thể cho HS tính:

5


(a +b)(a +b) hoặc (a -b) (a -b) đưa về hằng đẳng thức (1),
(2) của lớp 8

Và nhiều bài toán: cho a, b, c∈ N* và

S=

a +b b +c a +c
+
+
c
a
b

a) Chứng minh S≥6
b) Tìm GTNN của S
Hay các dạng Toán, tìm x của lớp 6 chính là giải phương trình của lớp 8, 9
Vậy nên, chúng ta không thể xem nhẹ giáo dục HS môn Toán ở bất kỳ lớp nào.
7.5.1 Nguyên nhân chất lượng học tập của học sinh còn yếu kém nhiều:
1/ Về phía HS:
Khi lên bậc THCS còn theo thói quen ở Tiểu Học, thầy cô "Làm hộ” các
em chưa xác định mục đích học tập: Lười học, mải chơi thấy khó là nản chí hoặc
có những HS nghĩ rằng: Chỉ cần đến lớp 9 chăm học là đỗ vào THPT.
-Học sinh chưa nhận thức đúng động cơ và mục đích học tập, chưa có
quyết tâm và nhiệt tình trong học tập…
-Một số học sinh thiểu năng trí tuệ, chậm phát triển.
-Nhiều học sinh ngồi nhầm lớp, không theo kịp các bạn sinh ra chán học.
-Học sinh phần lớn do thiếu động cơ học tập, học tập thiếu tự giác, không
biết tự học, chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ
thuộc vào các loại sách bài giải, chép bài giải vào vở nhưng không hiểu gì cả,
trong thi cử thì quay cóp, Chưa có phong trào học nhóm, học tổ do đó không có
thời gian nghiên cứu để biến kiến thức của SGK thành kiến thức cho mình, nên
khi bị trật bài mẫu, bài tủ thì điểm yếu kém .

Do đặc điểm và điều kiện học tập của HS ngay từ lớp 6:
HS lớp 6 là bước chuyển giai đoạn cả về thể chất và trí tuệ; các em bước
đầu làm quen với nhiều môn học, mỗi môn học có thầy cô dạy riêng, cần có sách
6


vở riêng và học tách riêng theo từng tiết có khống chế về thời gian. Điều này,
gây khó khăn lúng túng ban đầu cho các em. Chúng ta cần nắm điều đó để đưa
các em vào nền nếp.
* Về kiến thức: Học sinh được ôn lại nhiều kiến thức tiểu học chỉ bổ sung
các kiến thức mới: tập hợp, ước chung, bội chung, ƯCLN, BCNN..... hoàn thiện
dần hệ thống số sang số nguyên... Hình học có những khái niệm ban đầu về:
điểm, đường thẳng, đoạn thẳng, tia, góc...
* Về phương pháp học không còn theo lối "đọc- chép"; mà học sinh phải
dần tự mình biết đọc sách giáo khoa; biết làm bài tập. Giáo viên chỉ là người
hướng dẫn đến công việc chuẩn bị ở nhà của học sinh không chỉ đơn thuần là
học và làm bài tập mà còn phải đọc nghiên cứu bài mới, học không chỉ trong
SGK, SBT mà còn phải biết đọc các sách tham khảo.
Như vậy, giáo viên đứng trước lớp phải hiểu đối tượng của mình đã biết
gì và cần phải nắm được những kiến thức gì trọng tâm. Tạo được móc xích giữa
kiến thức đã có ở Tiểu học và bồi dưỡng thêm cho học sinh. Do đó, trong quá
trình dạy giáo viên cũng phải dành thời gian lấp "lỗ hổng" ở Tiểu học với đối
tượng học sinh yếu - kém.
2) Về phía GV:
Nhiều GV rất tận tâm với công việc, nhưng nhiều khi chỉ “chăm chút” cho HS
cuối cấp mong kết quả cao, coi thường việc dạy lớp dưới và đặc biệt là lớp 6, coi
thường việc rèn HS từ đầu vào. Soạn giảng, chấm chữa bài “qua loa” và chưa
chú ý đến mạch kiến thức mà HS sẽ học ở lớp trên.
3) Về phía gia đình và XH:
- Nhiều phụ huynh học sinh chưa xác định được mục đích cho con đi học,

thiếu quan tâm hoặc quan tâm không đúng mức đến học tập của con cái, còn
khoán trắng cho nhà trường. Nhiều gia đình mải làm KT không chú ý đến việc
học tập của con.
- Chưa quan tâm nhiều trong việc giáo dục chất lượng HS các lớp 6, 7, 8
và đặc biệt là lớp 6, coi trọng giáo dục lớp 9 hơn. Có gia đình nghĩ mới lớp 6 “
kệ nó” đến lớp 9 mới đôn đốc con em mình học .
7


7.5.2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán khối THCS
7.5.2.1. Đối với GV:
+) Từ những nguyên nhân trên, chúng ta thấy để nâng cao chất lượng giáo
dục môn Toán 6 đầu tiên phải kể đến là GV - “ Người thực hiện phép biến đổi
sư phạm " chuyển tri thức SGK thành kiến thức cho HS.
+) Người GV phải có tâm huyết, lòng yêu nghề sâu sắc, đây có thể gọi là
tiền đề cho mọi “đầu tư” của GV: Đầu tư thời gian, công sức cho việc soạn bài,
linh hoạt tạo tình huống học tập trong bài giảng gây hứng thú cho các em, chấm
chữa bài tỉ mỷ cẩn thận, hướng dẫn HS phân tích giải toán gắn liền thực tế, ra đề
kiểm tra chính xác phù hợp.
+) GV phải hiểu đặc điểm của HS lớp mình dạy, quan tâm đến từng đối
tượng và đặt chỉ tiêu phấn đấu giáo dục các em, ngay từ đầu năm tìm hiều thông
tin và lập vào kế hoạch giảng dạy. GV quan tâm đồng thời cả ba đối tượng trong
giờ học: Thêm bài khó, câu hỏi mới cho HS K-G; đưa các trò chơi tạo hứng thú
cho HS T.Bình - Yếu –Kém.
Chẳng hạn, khi dạy về hai số nguyên khác dấu
+) Với đối tượng TB trở lên: Cho HS nghiên cứu làm theo quy tắc và học,
xong tự đưa ra bài toán tính phép cộng 2 số nguyên thay đổi dấu các loại và làm
được bài toán cộng nhiều số nguyên.
+) Xong với đối tượng yếu, kém: Ta cho HS cộng 2 số ngyên khác dấu có
giá trị Tđ trong phạm vi 10, bằng cách cho các em trò chơi “Tiến lùi” qui ước

tiến là “Dương” lùi là “âm” bước đi trên sàn lớp với mốc là hàng gạch bất kỳ
trên sàn, mỗi bước là một hàng. Cho các em thực hành tìm kết quả. (Giống như
việc trẻ bắt đầu làm quen với phép cộng bằng đếm ngón tay, làm dẫn đến 1 lúc
không phải đếm ngón tay nữa)
+) Chương trình Toán lớp 6 có nhiều kiến thức học lại ở Tiểu học nên
người GV cũng cần lợi dụng điều này để nhấn mạnh kiến thức trọng tâm cần đạt
được của bộ môn.
Chẳng hạn:

8


+ Ở Tiểu học các em đã được học và làm các bài tập về cộng, trừ, nhân,
chia số tự nhiên. Lên lớp 6, các em làm quen với số nguyên âm, tập hợp số
nguyên với các phép Toán cộng, trừ nhân, chia số nguyên trên cơ sở đã biết về
số tự nhiên, GV cần quan tâm cho học sinh thành thạo về dấu. Thực tế có những
học sinh lên lớp 9 xong chưa thành thạo trong cộng, trừ số nguyên, hay nhầm
dấu.
+ Các phép Toán về phân số ở lớp 6 cũng được thực hiện tương tự Tiểu học
xong cần chú ý tử và mẫu không chỉ là số tự nhiên như ở Tiểu học mà tử và mẫu
là các số nguyên. Đặc biệt khi dạy về phép cộng, trừ 2 phân số GV phải chú ý
sửa thói quen của học sinh lớp 6 hay làm theo cách quy đồng bằng cách nhân
chéo để thực hiện phép tính, yêu cầu các em phải làm theo đúng phương pháp ở
lớp 6 đó là tìm mẫu số chung (BCNN của 2mẫu số) sau đó tìm thừa số phụ →
quy đồng và thực hiện phép tính
VD: Tính:

4

5

+
9
6

HS thường làm theo cách của lớp 5:
4 − 5 4.6 − 5.9
24 − 45 − 21
+
=
+
= ..... =
=
9 6 9.6 9.6
54
54

GV cần yêu cầu HS làm theo cách:

4 − 5 4.2 − 5.3 8 − 15 − 7
+
=
+
=
=
9 6
9.2 6.3
18
18
+ Hay các bài Toán tìm x ở Tiểu học: Nếu x đóng vai trò là thừa số chưa biết,
khi biết tổng và thừa số kia thì HS phải nhớ: Thừa số chưa biết bằng tổng trừ

thừa số đã biết. Nhưng lên lớp 6 HS chỉ cần nắm quy tắc chuyển về là xong.
+ Riêng với học sinh K-G: Từ kiến thức đạt được ở lớp 6, GV có thể dạy
chuyên đề khêu gợi 1 số kiến thức ở lớp trên để khi học tới HS khỏi ngỡ ngàng,
tăng tính tò mò, muốn khám phá của HS .

9


Chẳng hạn, ở phần phân số GV có thể đưa ra các bài tập biểu thức có chứa
chữ dạng “phân thức”
VD. Bài tập: Cho

A=

n +1
n −2

a- Tìm điều kiện của n để A là phân số.
b- Tìm n ∈ Z để A có giá trị nguyên
c- Tìm n ∈Z để A có giá trị lớn nhất
Ở bài tập này phần a, chính là Tìm ĐKXĐ của phân thức ở lớp 8
phần b, c là 2 dạng bài tập, GV cần cho HS ôn thi THPT .
+) mỗi GV khi lên lớp cần chú trọng nhiều đến việc chuẩn bị nội dung. Đối với
các tiết bài tập giải kỹ từng bài tập ở nhà, xem kỹ các trường hợp có thể xảy ra.
Để từ đó tìm ra thuật Toán đơn giản, giúp HS từng bước nắm được kiến thức và
có hứng thú học tập.
Trong cách dạy, chúng ta dạy từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp dựa
trên chuẩn kiến thức không cần phải bổ sung, nâng cao đối với HS yếu kém; cần
giúp HS nắm được kiến thức cơ bản, trọng tâm của từng bài và gây sự hứng thú
khi học Toán.

Đối với những vấn đề trọng tâm, GV cần thực hiện nhiều lần và đặt vấn
đề tương tự để HS giải quyết, tránh trường hợp dạy vòng vo, trình bày lý thuyết
nhiều… làm cho HS khó tiếp thu; kiến thức truyền thụ cần ngắn gọn, tinh giản
nhưng phải đảm bảo đầy đủ, chính xác; cần cô động lại kiến thức trọng tâm từng
bài, để giúp HS ôn tập được dễ dàng. Không được chủ quan đối với những kiến
thức đã dạy xem như HS đã biết rồi mà phải tranh thủ thời gian để ôn tập lại
kiến thức cũ khi giảng bài mới và luyện tập.
Nắm thật sát năng lực học tập của từng học sinh, của từng lớp để từ đó
phân loại và đổi mới phương pháp dạy học thích hợp, kết hợp với GV chủ nhiệm

10


và đề xuất các biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng học tập của lớp mình
phụ trách.
Khai thác triệt để các sai lầm, thiết sót của HS trong quá trình giảng bài,
nhất là các tiết luyện tập, tiết trả bài kiểm tra; hướng dẫn, phân tích giúp HS phát
hiện sai lầm và hướng giải quyết để khắc phục dù những sai lầm hạn chế nhỏ
nhất; tạo mọi điều kiện để giúp HS tự đánh giá và đánh giá bạn mình trong quá
trình học tập và rèn luyện, nhất là sau mỗi tiết kiêm tra phải rút kinh nghiệm tìm
ra những sai lầm HS mắc phải hay những điểm yếu của HS để giúp các em học
tốt hơn. GV tích cực hướng dẫn HS phương pháp học, cách thức lĩnh hội kiến
thức môn Toán.
GV phải tích cực trong sinh hoạt nhóm bộ môn, thảo luận những vấn đề
khó để tìm giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán.
Cần tích cực, mạnh dạn đổi mới các phương pháp dạy học. Mỗi lần thay đổi
PPDH là một lần GV đã tạo ra “cái mới”, nhờ thế sẽ tránh được sự đơn điệu,
nhàm chán.
Giờ học sẽ sinh động, hấp dẫn, HS hứng thú và có nhiều cơ hội hoạt động
tích cực hơn. GV phải nhiệt tình, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, kiên nhẫn

trong giảng dạy, từng bước giúp HS khắc phục những sai sót, hạn chế dù rất
nhỏ, tạo mọi điều kiện cho phép, nhất là hình thành từng bước động cơ, thái độ
trong học tập, tạo sự phấn khởi và niềm tin trong học Toán.
+) GV có thể sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng CNTT vào dạy học (Sử dụng
các phần mềm POWER POINT, VIOLET soạn giáo án điện tử dạy học trên máy
chiếu, E-learning… ) gây hứng thú, thu hút sự chú ý của học sinh.
+) GV luôn phải trau dồi kiến thức, cập nhật thường xuyên qua mạng Internet để
nắm bắt kịp thời các thông tin Giáo dục trong nước vầ thế giới.
Khó khăn của thầy cô dạy môn toán ở nhiều trường gặp phải tình trạng
học sinh “ngồi nhầm lớp”, kiến thức toán ở các lớp dưới có nhiều lỗ hổng nên
không tiếp thu được bài học mới dễ sinh ra chán nản và ngày càng kém. Khắc
phục điều này đòi hỏi thầy cô phải mất công, vừa tìm cách lấp những lỗ hổng
kiến thức cho các em, vừa dạy kiến thức mới và hướng dẫn các em làm bài tập
để hiểu sâu bài và nắm vững những kiến thức cơ bản.
11


Trong khi phải chiếu cố đến những em học yếu, mất cơ bản, người Thầy
lại không thể quên những em học khá, tiếp thu kiến thức nhanh. Giải quyết mâu
thuẫn này là điều không dễ. Nhưng Thầy giáo giỏi và tâm huyết với trò vẫn tìm
được cách giải quyết, thậm chí dùng ngay những em giỏi phụ đạo cho bạn qua
việc tổ chức học nhóm. Mặt khác, thầy giáo có thể ra thêm những bài tập khó
cho các em có sức học khá giỏi
Cũng như các môn học khác, vai trò quan trọng của Thầy dạy môn Toán
là dạy cách học phù hợp trình độ của đối tượng học sinh và biết cách dẫn dắt để
tạo ra niềm đam mê môn học của mình đối với các em.
7.5.2.2/ Đôí với học sinh
Cần xác định rõ, xác định đúng động cơ thái độ học tập cho mình. Học là
để có kiến thức cho mình, để làm người, để chiếm lĩnh tri thức của loài người,
biến kiến thức đó thành kiến thức của mình, học để lập thân, lập nghiệp nhằm

phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Có như vậy HS mới tự giác học tập, chăm
chỉ học tập, cố gắng vươn lên. Cụ thể ở lớp chăm chú nghe giảng bài, chịu khó
tìm tòi, luyện tập vận dụng kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Về nhà
học bài và làm bài đầy đủ.
+ Ngoài việc tác động của người thầy đến HS, thì bản thân HS cũng phải
xác định rõ mục đích học tập của mình, có đầy đủ SGK, SBT, vở ghi và đồ dùng
học tập cần thiết. Luôn tích cực hoàn thành tốt các bài khảo sát theo kế hoạch
của nhà trường, phòng giáo dục (ở THCS Lũng Hoà chúng tôi tổ chức cho HS
khảo sát và xếp thứ tự 2 lần /1 kỳ học; Chúng tôi lập danh sách xếp phòng tập
duyệt cho HS như 1 cuộc thi và ra đề luôn cao hơn so với yêu cầu cần đạt để học
sinh cố gắng; có thể xếp thứ tự để HS so sánh và cố gắng, thông báo tới gia đình
để phụ huynh đôn đốc con em mình học).
+ GV cũng có thể cho HS vào mạng giải toán để thử sức mình, khuyến
khích học sinh có điều kiện thực hiện ở nhà.
7.5.2.3/ Đối với gia đình:
+) Phụ huynh cũng cần xác định rõ mục đích cho con đi học, mới có thể
tạo diều kiện tốt nhất mà mình có thể, để con em mình hoà nhập được với xu thế

12


phát triển của xã hội. Không nên tận dụng sức lao động cuả con em mình quá
sớm.
+) Bên cạnh đó thì gia đình cần phải quan tâm thường xuyên kiểm tra
sách vở, đồ dùng học tập và đôn đốc con em mình học tự giác,quản lý nghiêm
giờ giấc học tập của con em mình, thường xuyên liên hệ với giáo viên để biết
tình học tập của con mình, không phải là cứ thấy con mình không học là đến báo
cáo cô giáo, có thể bằng hình thức: Kiểm tra vở và ghi nhận xét kí tên vào vở để
khi giáo viên kiểm tra biết được và tương tự giáo viên cũng có thể thông báo tới
phụ huynh bằng hình thức này, sau mỗi bài kiểm tra cho học sinh yêu cầu học

sinh xin nhận xét và chữ kí của bố mẹ. Ngoài ra, phụ huynh cũng cần họp các
buổi họp phụ huynh cho đầy đủ để biết kế hoạch biện pháp giáo dục của nhà
trường.
7.5.2.4/ Đối với nhà trường:
Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng ngay từ đầu năm học đối
với tất cả các khối lớp để có kế hoạch dạy phụ đạo cho tất cả các HS yếu kém
của tất cả các khối lớp.
Trường học có trách nhiệm tham mưu với địa phương để thực hiện tốt
công tác xã hội hoá giáo dục trong tình hình mới. Huy động mọi nguồn lực của
xã hội để chăm lo cho giáo dục của nhà trường tốt nhất trong điều kiện có thể
.Cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tình trong việc phối hợp
với nhà trường để giáo dục học sinh.
Đoàn đội trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện
đạo đức và học tập của HS. Sinh hoạt lành mạnh, phong phú, đa dạng sẽ thu hút
HS cùng tham gia. Nêu gương "Người tốt, việc tốt", khen thưởng kịp thời. Chấn
chỉnh, xử phạt kịp thời những HS có hành vi sai trái. Từ đó sẽ có nề nếp, việc
tuân thủ các nội quy quy định trong nhà trường sẽ tốt hơn, hổ trợ cho việc giáo
dục toàn diện hơn.
Thực hiện phân công chuyên môn theo hình thức đuổi : mỗi GV theo hết
1 khóa học từ lớp 6- lớp 9,để đảm bảoluồng kiến thức cũng như nắm bắt đối
tượng HS và quan trọng là gắn trách nhiệm chất lượng cho GV.

13


7.5.2.5/ Đối với các lực lượng xã hội:
Cần huy động hơn nữa sự quan tâm của xã hội trong quản lý con người,
giúp đở tao điều kiện để mọi HS được hưởng quyền lợi học tập công bằng như
nhau. Coi trọng yếu tố gia đình, vì đối tượng HS yếu kém hiện nay đa số rơi vào
các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hoặc thiếu sự quan tâm, hoặc quá cưng

chiều của gia đình.
B. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Sáng kiến như một cuốn cẩm n
ang cho giáo viên, cho học sinh cũng như cho các bậc phụ huynh áp dụng giảng
dạy, học tập cho học sinh trong quá trình học môn toán THCS.
8. Những thông tin cần được bảo mật chuyên đề
Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng chuyên đề
Phòng học, bảng, bàn ghế, học sinh,tài liệu tham khảo
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến thu được do áp dụng chuyên đề
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến thu được do áp dụng chuyên
đề theo ý kiến của tác giả
Qua việc hướng dẫn các đối tượng học sinh thông qua mức độ nhận thức tạo ra
các bài tập phong phú và đa dạng đồng thời có những hướng đề xuất các cách
giải hay giúp học sinh hứng thú trong học tập. Việc khai thác và đề xuất một số
biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Toán khối THCS giám nhìn thẳng
vào sự thật và có kế hoạch áp dụng.
Qua thực nghiệm sáng kiến kinh tôi thu được kết quả như sau: khảo sát đầu
năm, giữa kỳ 1, cuối kỳ 1, giữa kỳ 2 và cuối năm (lớp 9) của ba năm học cụ thể
là: 2012-2013, 2013- 2014, và 2014-2015:

KS đầu
Năm
Học

năm

Giữa kì 1

Cuối kì 1


Giữa kì 2

Cuối năm

TB↑

K-G

TB↑

K-G

TB↑

K-G

TB↑

K-G

TB↑ K-G

%

%

%

%


%

%

%

%

%

14

%


12-13
63,3

9,5

64,6

29,7 70,4

34,7

72,1

36,3


74,2 39,8

13-14

61,2

26,8

65,1

31,3 68,6

37,7

74,8

38,2

75,4 40,7

14-15

64,8

29,1

68,2

38,4 69,7


40,7

70,8

41,0

76,0 42,3

10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến thu được do áp dụng chuyên
đề theo ý kiến tổ chức cá nhân
Chuyên đề rộng mang tính chất xuyên suốt toàn khối THCS, giúp giáo viên
tăng thêm lòng nhiệt huyết cũng như khả năng học tập không mệt mỏi, từ đó
giúp phụ huynh có cánh nhìn nhận đánh giá tốt về thầy và trò. Cuối cùng kết quả
thu được là thế hệ mới vừa tài vừa đức.
10.3. Kết luận
1)Bài học kinh nghiệm:
- Đối với học sinh yếu, kém: Là một quá trình liên tục củng cố và rèn
luyện các kỹ năng để vận dụng tốt các phương pháp phân tích cơ bản vào giải
toán. Giáo viên cần cho học sinh thực hành theo bài tập mẫu với các bài tương
tự từ đơn giản nâng dần đến phức tạp, không nên cho học sinh làm các bài tập
khác với nội dung của SGK.
- Đối với học sinh trung bình: Cần chú ý cho học sinh nắm chắc các
phương pháp cơ bản, kỹ năng biến đổi và vận dụng các phương pháp đa dạng
hơn vào từng bài tập cụ thể từ đó rèn luyện khả năng tự học, chủ động chiếm
lĩnh kiến thức mới.
- Đối với học sinh khá, giỏi: Ngoài việc nắm chắc các phương pháp cơ bản,
giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu thêm các kiến thức nâng cao khác thông qua
các bài tập dạng nâng cao giúp học sinh vận dụng thành thạo kỹ năng biến đổi,
linh hoạt trong lựa chọn các phương pháp. Qua đó kích thích óc tìm tòi, sáng

tạo, khai thác cách giải, khai thác bài toán nhằm phát triển tư duy một cách toàn
diện cho học sinh.
- Đối với giáo viên: Phải định hướng và vạch ra những dạng toán giúp học
sinh tìm ra các phương pháp giải hợp lý từ đó nắm vững các dạng toán, rèn kỹ
15


năng phân tích từng dạng bài tập. Thường xuyên kiểm tra mức độ tiếp thu và
vận dụng của học sinh trong quá trình cung cấp các thông tin mới có liên quan
đã đề cập ở trên. Đồng thời giáo viên phải tạo ra không khí tích cực trong khi
giải bài tập đối với mọi đối tượng học sinh. Muốn vậy giáo viên cần tác động
đến từng đối tượng sao cho phù hợp. Chẳng hạn đối với học sinh yếu, kém,
trung bình nên gợi ý tỉ mỉ, học sinh khá, giỏi cần nêu nét cơ bản hướng học sinh
theo con đường cần đi đến. Nên để cho học sinh tích cực tìm tòi sáng tạo như
vậy mới phát triển tư duy trí tuệ cho học sinh.
2)Hướng phổ biến, áp dụng và nghiên cứu tiếp của đề tài:
- Sau thời gian nghiên cứu, vận dụng một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy
học môn Toán khối THCS. Tôi nhận thấy kết quả bước đầu học sinh tiến bộ
đáng kể, giúp học sinh tự tin hơn khi giải các bài toán khó hơn các bài toán cơ
bản trong sách giáo khoa.
- Đề tài này có thể áp dụng thực hiện trong tổ chuyên môn.
- Đề tài có nội dung kiến thức tương đối rộng .Vì vậy việc tổ chức cho học
sinh nắm vững kiến thức cơ bản theo yêu cầu của chương trình, có kỹ năng giải
toán thành thạo là hết sức quan trọng. Việc áp dụng đề tài này cần phải có thời
gian, phải được tiến hành một cách hệ thống. Do vậy hình thức tổ chức là các
buổi luyện tập, ôn tập giáo viên phân dạng bài tập và trình bày theo hệ thống
kiến thức.
- Để áp dụng đề tài đạt hiệu quả cao giáo viên phải có phương pháp giảng
dạy tích cực, kích thích động cơ, hứng thú học tập cho học sinh và trong quá
trình dạy phải khắc sâu kiến thức cơ bản cho học sinh, bồi dưỡng cho học sinh

phương pháp học và tự học. Giáo viên phải tích cực nghiên cứu tìm tòi các bài
tập liên quan, cách giải hay độc đáo và phân loại các dạng bài tập tiếp theo trong
chương trình sách giáo khoa THCS.
- Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng GD trong
dạy Toán THCS và những kết quả kiểm nghiệm ở trường chúng tôi, mong rằng
đó là 1 phần bổ túc trong phương pháp dạy và học của tất cả các bạn đồng
nghiệp và các em học sinh. Bên cạnh đó còn một số thiếu sót không tránh khỏi
mong được sự đóng góp quý báu của các bạn và các em.

16


Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thành như hôm nay tôi xin chân thành
cảm ơn Ban giám hiệu của trường THCS Lũng Hoà, cảm ơn các bạn đồng
nghiệp, các em học sinh đã hưởng ứng giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
- Với đề tài này, tôi có thể áp dụng nghiên cứu tiếp trong các năm học sau và
tự tìm tòi rút ra những kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao chất lượng dạy và học.
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu
TT

Tên tổ chức/ cá nhân

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực áp
dụng

1


Nguyễn Thị Thu Hằng

THCSLũng Hòa

Toán 8,9

2

Trần Thị Thanh Tâm

THCS Lũng Hòa

Toán 7,8

3

Lê Thị Thanh Hương

THCS Lũng Hòa

Toán 8,9

4

Vương thị Phương Hoa

THCS Lũng Hòa

Toán 6,9


5

Lê Thị Hạnh

THCS Lũng Hòa

Toán 6,7

Lũng Hòa ,ngày 15 tháng 1 năm 2016
Thủ trưởng đơn vị

Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hằng

17


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
THCS: Trung học cơ sở.
THPT: Trung học phổ thông.
THCN: Trung học chuyên nghiệp.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
KHTN: Khoa học tự nhiên.
GD&ĐT: Giáo dục và đào tạo.
GV: Giáo viên.
HS: Học sinh.
XH: Xã hội.
SGK: Sách giáo khoa.
SBT: Sách bài tập.

TB: Trung bình.
K-G: Khá- giỏi.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật giáo dục.
2. Nhiệm vụ năm học 2013-2014.
3. Phương pháp dạy học môn Toán-Nhà xuất bản Giáo Dục 2002.
4. Tài liệu chuẩn kiến thức ,kỹ năng.
5. SGK,SGV lớp 6,7,8,9.

19


20


21


22


23


24



25


×