Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Thực trạng quản lý nhà nước về lao động chưa thành niên hiện nay tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.12 KB, 22 trang )

Quản lý nhà nước về lao động

Tóm tắt đề tài
Bài viết nghiên cứu các vấn đề lý luận về người lao động chưa thành niên và
việc bảo vệ quyền lợi của họ trong quan hệ lao động. Tập trung làm rõ khái niệm Lao
động chưa thành niên; mục tiêu, vai trò cũng như ý nghĩa của quản lý nhà nước về lao
động chưa thành niên. Đồng thời liệt kê một số pháp luật Việt Nam hiện hành liên
quan đến đối tượng này và những vướng mắt trong quá trình thực thi những quy định
đó trong thực tiễn. Bài viết cũng đánh giá sơ lược được những ưu và khuyết điểm của
chính sách cũng như đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục mặt hạn chế, nâng cao
hiệu quả thực hiện của hệ thống các chính sách cũng như giảm thiểu tình trạng sử dụng
lao động chưa thành niên trái pháp luật trong xã hội hiện nay.
1. Đặt vấn đề
Việt nam là một quốc gia có nền kinh tế chưa thật sự phát triển, và cũng chính
vì lý do này mà một số trẻ em có hoàn cảnh khó khăn phải sớm bán sức lao động để
mưu sinh. Bộ luật lao động 2012 đang kế thừa và phát triển các văn bản luật trước đó
đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước cho nhóm đối tượng này bằng việc đã có những
quy định dành riêng cho một số loại lao động có đặc điểm riêng, hay còn gọi là lao
động đặc thù, trong đó có lao động chưa thành niên.
Hiện nay vấn đề lao động chưa thành niên còn khá phức tạp. Nhà nước ta đã có
những chính sách cũng như pháp luật tạo điều kiện cho người lao động chưa thành
niên tham gia vào quan hệ lao động một cách an toàn nhất, đảm bảo những yêu cầu
thiết yếu của đối tượng này trong quá trình làm việc. Mặc dù vậy vẫn còn một số
lượng lớn lao động chưa thành niên vẫn nằm ngoài sự kiểm soát của pháp luật. Nhóm
lao động này vì nhiều nguyên nhân khác nhau phải chấp nhận bị bốc lột sức lao động,
nhận được mức tiền công thấp hơn rất nhiều so với quy định Nhà nước, thời gian làm
việc kéo dài cũng như điều kiện, môi trường làm việc không được đảm bảo an toàn.
Đây là một trong những vấn đề đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực đến cuộc
sống và sự phát triển của bản thân các em nói riêng mà còn đối với cả gia đình, xã hội
và sự phát triển bền vững của đất nước nói chung. Vì tính cấp thiết của vấn đề, tôi
quyết định chọn đề tài: “Thực trạng quản lý nhà nước về lao động chưa thành niên


hiện nay” làm đề tài nghiên cứu kết thúc học phần Quản lý nhà nước về lao động.
1


Quản lý nhà nước về lao động

2. Thực trạng quản lý nhà nước về lao động chưa thành niên
Khái niệm, đặc điểm về lao động chưa thành niên
Theo Bộ luật Lao động năm 2012, tại Chương XI, điều 161: “Người lao động
chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi.”1 Với cách hiểu này chúng ta có thể
suy luận rằng, mọi cá nhân dưới 18 tuổi tham gia vào quan hệ lao động đều được xem
là lao động chưa thành niên.
Thuật ngữ "lao động trẻ em" được hiểu là việc sử dụng trẻ em vào các hoạt
động kinh tế trái với quy định pháp luật được gọi là lao động trẻ em. Pháp luật Việt
Nam đã bao hàm luôn Lao động trẻ em trong khái niệm lao động chưa thành niên
nhằm bảo vệ chung với những cá nhân chưa có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
đầy đủ.
Về đặc điểm của lao động chưa thành niên so sánh với người lao động khác, họ
có một số đặc điểm khác cơ bản như: là những người lao động chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, tinh thần; người lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức độ
cao hơn so với người lao động thành niên; người lao động chưa thành niên bị hạn chế
một phần năng lực hành vi khi giao kết hợp đồng lao động trong những trường hợp
nhất định.
Mục tiêu của quản lý nhà nước về lao động chưa thành niên
Việc quản lý nhà nước về lao động chưa thành niên nhằm đảm bảo các chính
sách của nhà nước liên quan tới đối tượng này được hoạt động bình thường, thường
xuyên, liên tục và luôn được cải tiến để phù hợp với sự phát triển của quốc gia nhằm
giải quyết các vấn đề về lao động chưa thành niên, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động chưa thành niên và người sử dụng lao động theo đúng chủ trương
chính sách mà hiến pháp, pháp luật đã quy định.

Vai trò của việc quản lý nhà nước về lao động chưa thành niên

 Đối với bản thân người lao động (chưa thành niên)


Đảm bảo những nguyên tắc sử dụng lao động chưa thành niên đúng theo qui
định của pháp luật.

1 Quốc hội, (2012). Bộ luật Lao động (Luật số 10/2012/QH13), Hà Nội.

2


Quản lý nhà nước về lao động



Đảm bảo người chưa thành niên khi tham gia vào quan hệ lao động cũng có đầy
đủ các quyền lợi của người lao động bình thường.



Bảo vệ và tạo điều kiện cho lao động chưa thành niên có thể tham gia vào quá
trình lao động mà không ảnh hưởng đến sự phát triển về thể lực và trí lực cũng
như tâm sinh lý của họ.

 Đối với người sử dụng lao động


Đảm bảo người sử dụng lao dộng chấp hành các qui định của pháp luật về lao

động chưa thành niên.



Đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong việc
thuê mướn lao động chưa thành niên.

 Đối với xã hội


Góp phần hạn chế tệ nạn xã hội. Giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập.



Đảm bảo những lực lượng lao động kế cận sẽ phát triển bình thường về cả thể
lực lẫn trí lực, nâng cao chất lượng lao động trong tương lai.



Hòa nhập dần theo xu hướng của các công ước quốc tế về lao động trong đó có
lao động chưa thành niên.

Ý nghĩa của quản lý nhà nước đối với người lao động chưa thành niên
Việc quản lý nhà nước đối với người lao động chưa thành niên nhằm tạo ra một
hành lang pháp lý bảo vệ họ được lao động trong những điều kiện, môi trường lao
động an toàn, đảm bảo sự phát triển thể lực, trí lực, được hưởng thành quả lao động,
hạn chế được những tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập quốc tế tới quá trình
phát triển kinh tế.
2.1. Tình hình thực tế lao động chưa thành niên hiện nay tại Việt Nam
Kết quả điều tra của Cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em, Bộ LĐ-TB&XH cho thấy,

cả nước hiện có trên 2,83 triệu trẻ em tham gia hoạt động kinh tế, chiếm 15.5% dân số
trẻ em, trong đó có 42,6% là trẻ em gái và 57,4% là trẻ em trai.
Theo kết qủa khảo sát quốc gia về lao động chưa thành niên do Tổng cục Thống
kê phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) thực hiện gần đây cho, Việt Nam có khoảng 1,75 triệu lao động chưa
3


Quản lý nhà nước về lao động

thành niên (có độ tuổi từ 5 tuổi đến 17 tuổi), chiếm 9,6% tổng dân số trẻ em. Như vậy
là cứ 10 trẻ là có 1 trẻ phải lao động sớm và ít nhiều mất đi những quyền cơ bản về
học tập, vui chơi.
Trong tổng lao động là người chưa thành niên, có tới 85% lao động chưa thành
niên sinh sống ở nông thôn và 15% ở thành thị; 67% tham gia lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp, 16,6% nhóm ngành dịch vụ và 15,8% nhóm xây dựng, công nghiệp. Trẻ
em nông thôn tham gia hoạt động kinh tế không những chiếm tỷ lệ cao trong tổng số
trẻ em nông thôn, mà còn chiểm tỷ lệ lớn ở tổng số trẻ em tham gia hoạt động kinh tế
của cả nước. Trong tổng số 2,83 triệu trẻ em hoạt động kinh tế thì có tới hơn 2,43 triệu
trẻ em từ khu vực nông thôn, chiếm 85% tổng số trẻ em tham gia hoạt động kinh tế
của cả nước. Các chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực xã hội cho rằng, tình trạng này
có thể là do thu nhập hộ gia đình ở khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị, trẻ
em phải tham gia các hoạt động kinh tế để phụ giúp nhằm nâng cao thu nhập cho gia
đình; hơn nữa kinh tế nông thôn chủ yếu là các hình thức kinh tế hộ gia đình, khu vực
kinh tế nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là hình thức và khu vực mà trẻ em dễ
dàng tham gia. (Xem chi tiết bảng 2.1.1 được thống kê tại mục phụ lục)
Đáng lo ngại nhất là trong số hơn 2,83 triệu em phải tham gia hoạt động kinh tế,
có khoảng 1,18 triệu em đã nghỉ học, chiếm 41,6% và có khoảng 567 ngàn em, chiếm
2% chưa từng đi học. Tỷ lệ này cao hơn so với mức 1,35% dân số trẻ em chưa từng đi
học bình quân của cả nước.2

Số liệu thống kê cũng cho thấy, có khoảng 933 ngàn trẻ em là người chưa thành
niên làm việc ở những nơi có nguy cơ bị bóc lột và bị xâm hại, trong đó có 11,6% lao
động phải dịch chuyển nơi làm liên tục; gần 3,9% người chưa thành niên làm việc tại
các nhà máy, xưởng sản xuất; trên 2,3% làm việc tại nhà khách hàng, 1,47% làm việc
tại các nhà hàng, quán, bar, khách sạn; khoảng 2,45% trẻ em là người chưa thành niên
phải làm việc tại các phố chợ. Các địa điểm làm việc khó khăn như mỏ đá, công
trường xây dựng, xưởng sản xuất, hoặc môi trường nhạy cảm như cửa hàng, quán, bar,
nhà hàng, khách sạn chủ yếu là người chưa thành niên ở nhóm từ 15 tuổi đến 17 tuổi.

2 Nguyễn Thị Lan Hương và cộng sự, (2013). Báo cáo điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012, Hà Nội.

4


Quản lý nhà nước về lao động

Những con số đáng báo động được liệt kê trên đã chứng minh được rằng, vấn
đề việc làm hay rộng hơn là sự bảo vệ dành cho người lao động chưa thành niên còn
chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, chưa có quy định riêng về việc ưu tiên, hỗ trợ
cho người lao động chưa thành niên trong việc tạo ra việc làm phù hợp.
2.2. Thực trạng những quy định pháp luật Nhà nước về lao động chưa thành niên

 Một số văn bản pháp luật hiện hành
Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em là mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước,
gia đình và xã hội. Sự quan tâm này đã được thể chế hóa trong Hiến pháp, hệ thống
pháp luật và các chương trình về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Các căn cứ pháp lý liên quan phải kể đến như:


Bộ Luật lao động 2012.




Thông tư 11/2013/TT-BLĐTBXH danh mục công việc nhẹ được sử dụng
người dưới 15 tuổi làm việc do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội (BLĐTBXH) ban hành.



Thông tư 10/2013/TT-BLĐTBXH danh mục các công việc và nơi làm việc
cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên do Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành.



Nghị định số 91/2011/NĐ - CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định về việc xử phạt hành vi lạm
dụng sức lao động trẻ em, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xức với chất độc hại, làm những công việc trái với quy định
pháp luật.



Quyết định số 267/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Quốc gia Bảo vệ trẻ em
giai đoạn 2011-2015 nhằm tạo dựng môi trường sống lành mạnh, tất cả trẻ
em đều được bảo vệ giảm thiểu và loại bỏ các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ
em và giảm thiểu tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.



Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).


Các văn bản pháp luật Việt Nam đã quy định tương đối đầy đủ cơ sở pháp lý để
tạo mọi điều kiện bảo vệ, ngăn chặn tình trạng lao động trẻ em.
 Nội dung điều chỉnh pháp luật đối với người lao động chưa thành niên
5


Quản lý nhà nước về lao động

 Nhóm quy định liên quan đến việc tạo cơ sở, tiền đề và thiết lập quan hệ lao động.
 Quy định pháp luật trong lĩnh vực việc làm
Tại các Điều 163, Điều 164 và Điều 165 Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy
định không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc độc hại, nặng
nhọc, nguy hiểm hoặc chổ làm ảnh hướng xấu tới nhân cách. Cụ thể hóa quy định của
pháp luật, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số
10/2013/TT-BLĐTBXH ngày 10 tháng 6 năm 2013 quy định danh mục các công việc
và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên.
Như vậy, đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì sẽ
lựa chọn tất cả các công việc trừ các công việc bị cấm, còn người dưới 15 tuổi thì chỉ
được làm các công việc trong danh mục đã quy định.


Quy định pháp luật trong lĩnh vực học nghề
Để bảo đảm quyền lợi cho người tham gia đào tạo nghề trong đó có người chưa

thành niên, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định việc học nghề phải được hai bên ký
kết hợp đồng đào tạo nghề và phải lập thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản (Điều 62).
Nội dung của hợp đồng phải bao gồm mục tiêu đào tạo, địa điểm học, mức học phí,
thời hạn học, mức bồi thường khi vi phạm hợp đồng. Pháp luật Việt Nam nghiên cấm
mọi doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, truyền nghề để

trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, tập nghề vào những
hoạt động trái pháp luật.


Quy định về giao kết hợp đồng lao động
Theo Điều 163 bộ Luật lao động 2012, quy định khi sử dụng người từ đủ 13

tuổi đến dưới 15 tuổi thì người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động bằng
văn bản với người đại diện theo pháp luật và phải được sự đồng ý của người từ đủ 13
tuổi đến dưới 15 tuổi.

 Nhóm quy định pháp luật trong quá trình tham gia và chấm dứt quan hệ lao động.


Quy định về tiền lương

6


Quản lý nhà nước về lao động

Ngoài quy định về tiền lương tối thiểu, pháp luật cũng quy định những nguyên
tắc cơ bản về tiền lương đối với người lao động chưa thành niên như họ có quyền
nhận lương đầy đủ, trực tiếp bằng tiền mặt, đúng hạn và đặc biệt là nguyên tắc về
mức lương đối với người lao động chưa thành niên được xác định bằng mức lương
của người lao động thành niên nếu làm cùng công việc. Đây là những nguyên tắc
đảm bảo cho người lao động chưa thành niên được đối xử bình đẳng như những
người lao động khác và là cơ sở pháp lý để họ bảo vệ quyền lợi của mình.




Quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới

18 tuổi không được quá 8h/ngày 40h/tuần, được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm
trong một số nghề và công việc theo quy định của BLĐTBXH
Thời giờ làm việc của người dưới 15 tuổi không được quá 4h/ ngày và 20h/
tuần và không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm.


Quy định về kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất
Cũng như tất cả các người lao động đã thành niên khác, người lao động chưa

thành niên có nghĩa vụ chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động và sự điều hành
hợp pháp của người chủ sử dụng lao động.


Quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Bên cạnh các quy định chung cho người lao động thành niên, thì Luật An toàn,

vệ sinh lao động có các quy định về bảo hộ lao động, chăm sóc sức khỏe cho người
lao động chưa thành niên như người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khỏe
cho người lao động chưa thành niên ít nhất 6 tháng một lần và chịu chi phí liên quan
đến khám sức khỏe (Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015).
Quy định này nhằm xác định khả năng lao động của người lao động chưa
thành niên, kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp mắc bệnh, giúp cho người sử
dụng lao động sắp xếp, bố trí công việc phù hợp đảm bảo sức khoẻ cho người lao
động chưa thành niên.

7



Quản lý nhà nước về lao động



Quy định về bảo hiểm xã hội cho lao động chưa thành niên
Pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện nay được quy định chủ yếu trong Luật Bảo

hiểm xã hội năm 2014, Bộ luật Lao động năm 2012. Quy định trong các văn bản trên
không có sự phân biệt giữa người lao động thành niên và người lao động chưa thành
niên. Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QD13 ngày 20 tháng 11 năm 2014 có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đã mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt
buộc bao gồm “người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến
dưới 03 tháng” (điểm b khoản 1 Điều 2).
Như vậy đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm người lao động
chưa thành niên có giao kết hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03
tháng. Đây là quy định tiến bộ, hạn chế việc người sử dụng lao động lạm dụng việc
giao kết hợp đồng lao động dưới ba tháng để trốn trách trách nhiệm đóng bảo hiểm xã
hội cho người lao động chưa thành niên.


Quy định về thay đổi, chấm dứt hợp đồng lao động
Các quy định này không có sự phân biệt khi áp dụng giữa người lao động chưa

thành niên và người lao động thành niên trong trường hợp thay đổi hợp đồng lao động
hoặc trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động.
Pháp luật về vấn đề này gồm quy định về: thay đổi hợp đồng lao động và chấm
dứt hợp đồng lao động với một số hạn chế như: chưa mở rộng việc trao quyền thay đổi
hợp đồng cho cha mẹ, người giám hộ hay chưa quy định đầy đủ về căn cứ, chủ thể có

quyền yêu cầu chấm dứt hợp đồng lao động.

 Nhóm quy định về thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp lao động.


Nhóm quy định pháp luật về thanh tra, xử lý vi phạm
Các quy định về xử lý vi phạm hành chính liên quan đến lao động chưa thành

niên đã khá đầy đủ, khi các vi phạm ở mức độ cao hơn hay có tính chất lặp đi lặp lại
thì các hành vi đó có tính nguy hiểm và gây thiệt hại lớn đối với người lao động chưa
thành niên thì sẽ tiến tới xử lý hình sự đối với các hành vi đó. Như người sử dụng trẻ
em làm những công việc nặng nhó, nguy hiểm và các ngành tiếp xúc với hóa chất độc
hại trong danh mục cấm gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình sự.
8


Quản lý nhà nước về lao động



Nhóm quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động liên quan đến
người lao động chưa thành niên
Các mâu thuẫn, bất đồng giữa người lao động chưa thành niên với người sử

dụng lao động trong quan hệ lao động được giải quyết thông qua ba phương thức chủ
yếu là hoà giải, trọng tài, toà án. Quy định về ba phương thức trên, đặc biệt hoà giải,
trọng tài, không có sự khác biệt trong việc giải quyết các tranh chấp lao động có hay
không có người lao động chưa thành niên tham gia.

 Thực trạng việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên hiện nay

Về thời giờ làm việc, Theo như thống kê đã nêu trên, hiện nay ở Việt Nam có
khoảng 1,75 triệu trẻ em từ 5 đến 15 tuổi là lao động trẻ em, trong đó một phần ba trẻ
em có thời gian làm việc trên 7 giờ một ngày hoặc trên 42 giờ một tuần. Riêng Thành
phố Hồ Chí Minh có khoảng 60.000 trẻ chưa thành niên đang làm việc tại các cơ sở
sản xuất tư nhân, hợp tác xã trong các ngành nghề đan mây tre, giày da, chế biến nông
sản thực phẩm, thủy hải sản… Ngoài ra còn có 10.000 trẻ em làm các công việc như
phụ xây dựng, giúp việc nhà, bán hàng rong cho cai thầu xây dựng hoặc các tiểu
thương với thời gian làm việc từ 8 - 10 giờ/ngày3. Số thời gian làm việc kéo dài làm
ảnh hưởng đến việc học tập của các em, nhiều trẻ em không được đi học. Số đông lao
động trẻ em làm công việc giúp việc gia đình do tính chất công việc là thời gian làm
việc kéo dài và thường xuyên nên không thể đến trường học; bộ phận trẻ em sống ở
nông thôn, làm việc trong ngành nông nghiệp và phụ giúp gia đình không được trả
lương. Trong số đó có khoảng 30.000 trẻ em còn tham gia lao động trong những công
việc nặng nhọc, độc hại như làm việc trong điều kiện lao động ngoài trời, đi lại nhiều
dễ bị tai nạn, môi trường làm việc có hóa chất gây hại, làm việc trong hầm mỏ nên lao
động trẻ em gặp những tổn thương làm ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất.
Về tiền lương nhận được, với mức giá nhân công hết sức rẻ mạt, phải lao động
trong một môi trường và điều kiện không đảm bảo, lao động là trẻ em vẫn đang từng
ngày buộc phải đối mặt với nguy cơ bị bóc lột sức lao động thậm tệ. Thực trạng hiện
nay, để kiếm sống và trợ giúp gia đình một số trẻ em đang làm thuê trong các cơ sở
dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, quán ăn của các cơ sở tư nhân, đi ở trong các gia
3 Thái An, 2017. Bảo đảm an sinh xã hội cho trẻ em lao động sớm.

9


Quản lý nhà nước về lao động

đình ở đô thị có mức thu nhập trung bình dưới mức lương tối thiểu là 540.000 đ/tháng,
vẫn còn không ít trường hợp trẻ phải làm việc mà không hề được trả lương. Trong khi

đó, rất nhiều em bị ép phải làm thêm giờ kể cả ngày lễ, tết hoặc ban đêm hoặc làm các
công việc nặng nhọc, hoặc trong môi trường độc hại, nguy hiểm mà không được trả
tiền phụ cấp và tiền lương làm thêm giờ. Nhiều khi các em phải cùng làm việc như
người lớn nhưng tiền lương của các em được hưởng không ngang bằng với người lao
động đã thành niên khác. Do đó, việc đảm bảo cho tái sản xuất sức lao động và sự phát
triển bình thường của các em sẽ bị ảnh hưởng.
Về nơi làm việc, lao động trẻ em tham gia vào nhiều lĩnh vực, địa điểm lao động
đa dạng, trẻ em tham gia vào khoảng 120 lĩnh vực lao động những trẻ em bị bóc lột
sức lao động chủ yếu làm việc trong các cơ sở sản xuất không phép, trái pháp luật dưới
hình thức lao động giúp đỡ gia đình trong vai trò là con cháu, họ hàng; hoặc làm việc
tại các bãi vàng, khai thác than, làm việc tại các cơ sở may, lao động trẻ em còn tham
gia làm việc trong dịch vụ nhà hàng.
Về việc ký kết hợp đồng lao động, lao động trẻ em tham gia vào các quan hệ lao
động thường không được ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản. Người sử dụng lao
động lợi dụng những điểm này để bóc lột sức lao động của trẻ em, đồng thời khi xảy ra
tranh chấp cũng không có cơ sở pháp lý để xử lý người vi phạm và bảo vệ quyền của
trẻ em. Hợp đồng miệng là hình thức phổ biến trong các quan hệ lao động trong thực
tế đối với trẻ em, cho nên không có ràng buộc về mặt pháp lý giữa người sử dụng lao
động với lao động trẻ em vì vậy mọi vi phạm pháp luật về sử dụng lao động trẻ em
khó phát hiện, không có cơ sở chứng minh trẻ em bị bóc lột sức lao động.
Về việc tham gia đóng Bảo hiểm xã hội, bởi lẽ lao động chưa ở Việt Nam lại tập
trung chủ yếu trong các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất nhỏ của tư nhân chứ không
phải trong các doanh nghiệp lớn của Nhà nước hoặc doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài. Tại các đơn vị sử dụng lao động này dường như họ không có khái niệm về Bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm y tế trong quan hệ giữa người chủ và người làm công là đối
tượng chưa thành niên.
Để trốn tránh trách nhiệm đối với việc không đóng Bảo hiểm xã hội cho người
lao động, không ít doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng lao động theo mùa vụ và giải thích
10



Quản lý nhà nước về lao động

rằng những lao động này không làm việc ổn định, do đó, không tham gia đóng bảo
hiểm mà chi trả vào tiền lương cho công nhân. Điều này đã được thỏa thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động hoặc thậm chí là sự áp đặt của doanh
nghiệp đối với người lao động. Vì sức ép công việc, thu nhập nên người lao động biết
quyền lợi của mình bị xâm phạm nhưng cũng không dám đấu tranh. Sự chấp nhận
hoàn cảnh và buông xuôi của người lao động như vậy là đồng nghĩa giúp doanh nghiệp
trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm với nhà nước.

 Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật cho lao động chưa thành
niên đã thực sự đạt hiệu quả?
Vấn đề thanh tra, xử lý vi phạm hiện nay được quy định tại Chương XVI Bộ
luật Lao động. Quy định này được áp dụng cho người lao động cũng tương tự như
người lao động chưa thành niên. Theo đó, Thanh tra Nhà nước về lao động gồm thanh
tra chính sách, an toàn lao động, vệ sinh lao động . Khi tiến hành thanh tra, thanh tra
có quyền xử lý các vi phạm theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền
xử lý các vi phạm pháp luật lao động. Cơ sở pháp lý để xử lý các vi phạm là quy định
về các hành vi vi phạm pháp luật lao động và mức xử phạt, cụ thể là Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 95/2013/NĐ-CP.
Các quy định pháp luật liên quan đến lao động chưa thành niên hiện nay có thể
nói là tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội Việl Nam,
thế nhưng việc thực hiện các quy định này còn chưa nghiêm và thiếu đồng bộ. Nguyên
nhân chính và chủ yếu vẫn là công tác quản lý nhà nước bị buông lỏng, thanh tra, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các quy định đó chưa được quan tâm đúng mức và khi có
vi phạm xảy ra thì việc xử lý chưa kịp thời hoặc biện pháp xử phạt chưa nghiêm khắc
đến mức cần thiết.
Hiện lại, chưa có những qui định cụ thể về cách thức thanh tra và kiểm tra lao
động trẻ em tại các cơ sở sản xuất - kinh doanh. Đến nay cũng chưa có số liệu cụ thể

về việc xử lý theo quy định hiện hành những hành vi vi phạm các quy định về lao
động chưa thành niên. Việc xử phạt vi phạm pháp luật về sử dụng lao động chưa thành
niên thuộc thẩm quyền của thanh tra Nhà nước về lao động. Tuy nhiên, hầu như chưa
có người sử dụng lao động nào bị xử phạt mặc dù vi phạm đối với việc sử dụng lao
11


Quản lý nhà nước về lao động

dộng chưa thành niên vẫn diễn ra trên thực tế. Trong thời gian vừa qua các cơ quan
chức năng khi tiến hành thanh tra và kiểm tra về sử dụng lao động trẻ em dù phát hiện
ra hành vi vi phạm của người chủ sử dụng ở mức độ gây thiệt hại nghiêm trọng đến sự
phát triển của trẻ cũng chỉ dừng lại ở mức xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền) hoặc
thu hồi giấy phép kinh doanh, đưa ra xem xét việc đền bù thiệt hại ở Toà dân sự nếu có
tranh chấp, chứ chưa có việc xử lý về mặt hình sự.

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước về lao động chưa thành niên niện nay

 Mặt đạt được
Thứ nhất, những quy định vê lao động chưa thành niên đã làm thành một "tiểu
chế định" của luật lao động Việt Nam.
Bộ Luật lao động từ năm 2012, trong dó có dành một mục "Lao động chưa
thành niên" tại Chương XI - "Những quy định đối với lao động chưa thành niên và một
số loại lao động khác" được ban hành, cùng với các văn bản cụ thể hoá và hướng dẫn
thi hành liên quan tới lao động chưa thành niên, đã làm thành mội "tiểu chế định về lao
động chưa thành niên". Mặc dù những quy định dành riêng cho lao động chưa thành
niên không nhiều nhưng cũng đã tạo thành một khung pháp lý đủ để điều chỉnh đối
tượng lao động này phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam.
Thứ hai, từ những quy định nằm rải rác ở các văn bản dưới luật, lao động
chưa thành niên đã một bước được luật hoá.

Nhìn lại lịch sử hình thành pháp luật về lao động chưa thành niên ở nước ta
thấy rằng, cũng như những quy định pháp luật trong các lĩnh vực khác, đó là một quá
trình với nhiều giai đoạn khác nhau. Có những thời kỳ do các nguyên nhân như chiến
tranh, điều kiện kinh tế- xã hội, chưa hội nhập quốc tế, nên pháp luật về lao động chưa
thành niên chỉ được đề cập một cách sơ bộ, khiêm tốn và nằm rải rác ở nhiều văn bản,
chủ yếu ở cấp độ văn bản pháp quy. Chỉ kể từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi
mới, trong đó có đổi mới tư duy pháp lý, trong đó có việc ban hành Bộ luật lao động
đầu tiên năm 1994, thì lao động chưa thành niên, lao động trẻ em mới thực sự được

12


Quản lý nhà nước về lao động

luật hoá. Và cho tới nay, bộ Luật lao động 2012 với nhiều sửa đổi đáng chú ý cũng
như phù hợp hơn với bối cảnh hiện tại của Việt Nam.
Bộ luật lao động và những văn bản liên quan đã đưa ra được một khung pháp lý
cho vấn đề lao động trẻ em, như tuổi tối thiểu được phép làm việc, giao kết hợp đồng
lao động, tiền công, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi, học nghề...
cũng như các qui định về trách nhiệm của người sử dụng lao động, qui định việc xử lý
vi phạm pháp luật liên quan đến lao động trẻ em.
Thứ ba, các qui định của hệ thông pháp luật Việt Nam liên quan đến lao động
chưa thành niên tương đối phù hợp với các tiêu chuẩn của các công ước quốc tế trong
lĩnh vực này.
Như đã phân tích, các tổ chức quốc tế, nhất là ILO đã có nhiều công ước đề cập
đến lao động trẻ em. Tuy số công ước của ILO Việt Nam đã phê chuẩn còn khá khiêm
tốn nhưng là những công ước khá quan trọng, nhất là về tuổi lối thiểu, về loại bỏ
những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất... Nhìn chung, pháp luật Việt Nam, cụ thể
là pháp luật lao động, trong đó có pháp luật đối với lao động chưa thành niên đã phù
hợp với những quy định của luật pháp quốc tế về tuổi lối thiểu, về điều kiện lao động,

về tố tụng lao động. Như vậy, việc thực hiện tốt pháp luật về lao động chưa thành niên
cũng là tôn trọng và thực hiện những quy phạm pháp luật quốc tế đã phê chuẩn. Thực
hiện quá trình “nội luật hoá” phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của nước ta.
Thứ tư, việc thực hiện pháp luật đối với lao động chưa thành niên đã tương đối
có hiệu quả và đạt được một số thành tựu nhất định.
Nhìn chung, pháp luật đối với lao động chưa thành niên, lao động trẻ em đã
được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật thực hiện tương đối tốt. Từ đó, tạo một bước chuyển biến mới về nhận thức cũng
như trong hành động việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan
hệ lao động, góp phần phòng và chống các vi phạm trong lĩnh vực ỉao động chưa thành
niên, đáp ứng với yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đảm
bảo thực hiện các công ước quốc tế mà chúng ta tham dự.

13


Quản lý nhà nước về lao động

Việc thực hiện pháp luật về lao động chưa thành niên, trước hết, đã góp phần
đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động chưa thành niên, giúp họ đáp ứng nhu cầu
lao động, học nghề tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia dinh. Đồng thời,
bảo đảm thực hiện tốt chính sách xã hội trong việc bảo vệ và chăm sóc người chưa
thành niên, giảm bớt lình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm, ngăn ngừa tệ nạn xã hội.
Việc thực hiện pháp luật đối với lao động chưa thành niên cũng góp phần bảo vệ lợi
ích chính đáng của người sử dụng lao động, nhất là đối với các đơn vị và cá nhân có
thiện chí đối với trẻ em, nói rộng ra, cũng là lợi ích của toàn xã hội.

 Mặt còn hạn chế
Thứ nhất, đó là bất cập trong pháp luật, chính sách như một số khái niệm, quy
định, nội hàm về lao động trẻ em chưa cụ thể, thống nhất, khó phân loại và dễ lẫn lộn

cách hiểu. Độ tuổi trẻ em trong luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa thống
nhất với quy định về của lao động chưa thành niên trong Bộ luật lao động và độ tuổi
trẻ em theo quy định của tổ chức ILO vì vậy các cơ quan chức năng gặp nhiều khó
khăn trong việc theo dõi, kiểm soát, thống kê và đánh giá về lao động trẻ em.
Thứ hai, hệ thống pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về quyền hạn,
trách nhiệm của các chủ thể quản lý trong việc phòng ngừa, xóa bỏ lao động chưa
thành niên. Chưa có một văn bản cụ thể quy định chi tiết về thanh tra đối với loại lao
dộng đặc thù này. Còn thiếu những quy định cụ thể về cơ chế phát hiện, tố giác, xử lý
vi phạm lao động chưa thành niên.
Thứ ba, việc xử lý những trường hợp lạm dụng lao động chưa thành niên còn
nhẹ, chủ yếu mới dừng lại ở mức xử phạt hành chính, rất ít vụ bị xử lý hình sự do vi
phạm pháp luật lao động chưa thành niên. Chính quyền địa phương còn chậm phát
hiện và xử lý những trường hợp sử dụng lao động trẻ em, chỉ những vụ việc xảy ra hậu
quả nghiêm trọng mới được bị phát hiện và xử phạt.
Thứ tư, các cơ quan chức năng còn gặp khó khăn trong việc xử lý những cơ sở
sử dụng lao động trẻ em vì người sử dụng lao động không xuất trình được giấy tờ tùy
thân của lao động trẻ em, nên chỉ căn cứ vào lời khai của các bên liên quan để xác định

14


Quản lý nhà nước về lao động

độ tuổi của các em. Tuy nhiên độ tuổi thường được khai tăng lên trên 15 tuổi vì vậy
không đủ căn cứ để xử lý.
Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục về pháp luật, trong đó có
pháp luật lao động nói chung và dành riêng cho người lao động chưa thành niên trong
cộng đồng dân cư vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.
Vì sao vẫn tồn tại tình trạng lao động chưa thành niên bị bốc lột sức lao
động và làm việc vất vả?

Có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu xuất phát từ đói nghèo. Mặc dù đời

sống nhân dân ta hiện nay có được cải thiện hơn nhưng do nhu cầu ngày càng
lớn nên bản thân các gia đình cũng không có đủ khả năng tài chính để đảm bảo
cho con em theo học. Đa số trẻ em bỏ học là con nhà nghèo, một số bộ phận gia
đình không sẵn sàng cho con em mình học lên vì ngại tốn kém không kham nổi
nhưng mặt khác cũng vì thấy trước sức ép rất lớn về vấn đề việc làm, kể cả
những người đã tốt nghiệp đại học.
Khu vực nông thôn vẫn còn nghèo đói, các em không có điều kiện đi học,
khiến các em muốn đi làm thêm phụ giúp gia đình, thậm chí chấp nhận làm các
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm để mưu sinh và từ đó lâm vào tình
trạng bị lạm dụng, bị bóc lột sức lao động.
Mặt khác, nhiều phụ huynh nhất là ở vùng sâu, vùng xa nhận thức thấp
kém, quan niệm con mình cần làm việc sớm để "nên người", lại giúp gia đình
bớt khó khăn. Vả lại, một số trẻ suy nghĩ nông nổi, thích kiếm tiền, học kém nên
chán học và lao động trẻ em là một hệ quả không tránh khỏi.
Một nguyên nhân sâu xa nữa là, một bộ phận không nhỏ các chủ doanh
nghiệp tư nhân vì tiết kiệm chi phí sản xuất đã “sử dụng chui” nhiều lao động vị
thành niên với tiền công thấp kém... lao động chưa thành niên vẫn còn thiếu hiểu
biết về quyền lợi của mình khi tham gia vào quan hệ lao động. Đây là nhóm đối
tượng chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần vì vậy khi tham gia lao
động thường dễ sai bảo mà hầu như không có sự phản kháng hay tự vệ.
15


Quản lý nhà nước về lao động

3. Một số kiến nghị nhằm cải thiện thực trạng lao động chưa thành niên
Trong xu hướng hội nhập quốc tế, Việt Nam cần đổi mới pháp luật về trợ giúp
xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo hướng chú trọng, thúc đẩy hoạt động

phòng ngừa, phát hiện sớm, can thiệp sớm, trợ giúp đối tượng sinh sống tại gia đình,
cộng đồng; thu hẹp sự cách biệt với cộng đồng; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự
phát triển, hoà nhập cộng đồng của đối tượng; tăng cường sự kết nối hệ thống và bảo
đảm phát triển bền vững; cần phát triển các dịch vụ công về trợ giúp xã hội, phát triển
các dịch vụ công tác xã hội và đổi mới cơ chế trợ giúp xã hội.
Để ngăn chặn tình trạng lạm dụng lao động chưa thành niên một cách hiệu quả
cần phải kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, trong đó trước hết phải kể đến
việc hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động trẻ em, cụ thể như sau:
Cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi những văn bản dưới luật để tiếp tục cụ
thể hóa và hướng dẫn thực hiện các quy định của Bộ luật lao động liên quan đến lao
động chưa thành niên. Cần mở rộng phạm vi điều chỉnh của Điều 164 Luật Lao động
năm 2012 về sử dụng lao động trẻ em, theo đó nội dung các quy định trong điều luật
này không chỉ nhằm bảo vệ nhóm người lao động từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi mà
còn bảo bảo vệ cả nhóm người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi. Như vậy mới
đảm bảo sự phù hợp với các quy định về độ tuổi được coi là trẻ em trong Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu bổ sung thêm vào khoản 2 Điều 164 Bộ luật
Lao động năm 2102 về điều kiện, quy trình tuyển dụng lao động trẻ em cũng như các
qui định của pháp luật vê chê độ báo cáo thường kỳ đối với vấn dề sử dụng lao động
trẻ em. Theo đó, cơ sở sử dụng lao động trẻ em phải làm đơn gửi cơ quan chức năng
xin phép được tuyển dụng trẻ em vào làm việc, phải được xác nhận là công việc phù
hợp với trẻ em và đảm bảo phải có sự đồng ý của cha mẹ trẻ em hoặc người giám hộ
và cơ quan nhà nước thì mới được phép sử dụng lao động trẻ em.
Tiếp theo, hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật
có liên quan đến lao động trẻ em ở các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân có sử dụng lao
động là đối tượng chưa thành niên, cần xây dựng các chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe
những trường hợp trục lợi từ lao động trẻ em, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý bảo
16



Quản lý nhà nước về lao động

đảm việc thực thi nghiêm minh các chế tài đó, bổ sung các quy định cụ thể về trách
nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân có lỗi trong việc để xảy ra tình trạng vi phạm
pháp luật lao động về sử dụng lao động trẻ em trong các văn bản pháp luật chuyên
ngành. Đồng thời cần có bộ quy trình quản lý, đánh giá về lao động trẻ em để hướng
dẫn thực hiện tại các địa phương…
Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lao
động nói chung và pháp luật đối với lao động trẻ em cũng như lao động chưa thành
niên nói riêng nhằm nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp, tổ sản xuất và
xã hội và nhất là cho chính bản thân các em. Có như vậy, các em mới có cơ sở để tự
bảo vệ mình hoặc nhờ các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bênh vực.
Mở rộng thêm, phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, phê chuẩn
và thực hiện công ước quốc tế trong lĩnh vực trẻ em và lao động chưa thành niên. Việc
bổ sung những quy định mới phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội hiện
tại cũng như bổ sung một số quy định mới khác mang tính dự trù, dự liệu trong tương
lai nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

 Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về lao động chưa thành niên,
tôi xin đưa ra một số biện pháp nhằm hạn chế nhất có thể tình trạng này:
Có thể thấy nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng các em vẫn lâm vào tình
trạng lao động lao động nặng nhọc ở độ tuổi này là do đói nghèo mà ra. Chính vì vậy
phòng chống lao động trẻ em phải gắn liền với công tác xóa đói, giảm nghèo. Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ, nhằm tạo việc làm và thu nhập ổn định đối với các gia
đình có hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo trẻ em được đi học. Với các gia đình có nguy cơ
hoặc đã có lao động trẻ em, cần hỗ trợ kịp thời như cho vay vốn, dạy nghề... tạo “bàn
đạp” để họ tự vươn lên phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định cuộc sống. Đồng thời
vận động các gia đình nghèo không để trẻ em phải lao động kiếm sống.
Cần tập trung xây dựng hệ thống các dịch vụ An sinh xã hội cho trẻ em lao
động sớm và gia đình các em. Phát triển các dịch vụ công tác xã hội và chăm sóc xã

hội tại địa phương (xã/phường, quận/huyện) để trẻ em và gia đình có thể tiếp cận sử
dụng dịch vụ hỗ trợ khắc phục tổn thương tâm lý, tinh thần, hòa nhập xã hội.

17


Quản lý nhà nước về lao động

Nhà nước xây dựng các gói hỗ trợ về giáo dục có điều kiện để hộ gia đình cho
con em đến trường mà vẫn có nguồn thu nhập thay thế lao động trẻ em. Tăng chi phí
hỗ trợ giáo dục dành cho trẻ em nghèo và gia đình nghèo có trẻ em học từ mẫu giáo
đến các bậc phổ thông.
Bước chuyển nhận thức phải bắt đầu từ mỗi gia đình, phụ huynh, chủ sử dụng
lao động. Hiểu đúng sẽ hành động đúng, do đó phải tăng cường truyền thông cả bề
rộng lẫn chiều sâu phù hợp từng vùng, miền với phương châm "mưa dầm thấm lâu"
nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi. Chúng ta phải tạo ra được làn sóng đủ
mạnh để đưa pháp luật đến với toàn thể người dân trong xã hội.
Một biện pháp rất hay nữa nên áp dụng là khuyến khích sự tham gia của cộng
đồng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Ví dụ như phối hợp với người dân địa
phương trong việc phát hiện các trường hợp vi phạm và có phương tiện để người
người dân có thể thông báo hành vi vi phạm lên cấp trên đảm bảo danh tính được giữ
kín. Chúng ta có thể tuyên dương họ bằng cách sử dụng tiền phạt đối với các doanh
nghiệp bị quy là quy phạm pháp luật trong vấn đề sử dụng trái pháp lao động chưa
thành niên.
Và cuối cùng, cần tạo môi trường an toàn, thân thiện đối với lao động chưa
thành niên nhằm loại bỏ hoặc giảm thiểu đến mức thấp nhất các nguy cơ gây tổn
thương cho nhóm đối tượng này.
Có thể thấy việc trẻ em phải lao động sớm đã và đang để lại hậu quả nặng nề,
ảnh hưởng đến sự phát triển hài hòa của trẻ em, tác động tiêu cực đến phát triển kinh
tế, xã hội, nhất là chất lượng của nguồn nhân lực trong tương lai. Nhà nước ta tuy đã

có nhiều chính sách, biện pháp răn đe chế tài nhưng nếu xem xét kỹ thì đây chỉ kiểm
soát được phần ngọn của vấn đề, trong khi phần gốc rễ của vấn đề là tình trạng đói
nghèo là nguyên nhân chính dẫn đến việc sử dụng lao động chưa thành niên quá mức
lại không được quan tâm đúng mức. Một số biện pháp nêu trên không những góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành đối với lao động chưa thành niên, hơn thế nữa
là một số kiến nghị nhằm khắc phục hậu quả của đói nghèo ảnh hưởng trực tiếp đến
các nhóm đối tượng đặc biệt này.
4. Kết luận
18


Quản lý nhà nước về lao động

Lao động chưa thành niên là nhóm lao động yếu thế trong xã hội, nếu bị lạm
dụng quá mức sẽ gây ra những hậu quả xấu về thể lực, trí lực, ảnh hưởng không tốt
đến nguồn nhân lực tương lai của đất nước.Việc thực hiện những quy phạm về lao
động chưa thành niên cũng đã đạt được những kết quả đáng trân trọng và khích lệ.
Điều đó nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng của toàn xã hội dành
cho nhóm lao động chưa thành niên.
Nhìn chung, các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến lao
động chưa thành niên tương đối phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế và đưa ra
được một khung pháp lý cho vấn đề lao động chưa thành niên như vấn đề giới hạn tuổi
tối thiểu được phép làm việc, giao kết hợp đồng lao động, tiền công, điều kiện và thời
gian làm việc cũng như các quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động, quy
định xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến đối tượng này. Tuy nhiên chế độ pháp lý về
lao động chưa thành niên cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập cả về mặt văn bản pháp
luật và cơ chế tổ chức thực hiện cần phải được bổ sung và sửa đổi. Điều này đã gây
ảnh hưởng tiêu cực đến người lao động chưa thành niên, những người yếu thế trong
việc tự bảo vệ mình. Như vậy, bôn cạnh việc sửa đổi bổ sung những quy phạm pháp
luật trong lĩnh vực lao động chưa thành niên, cũng còn cần phải hoàn thiện cơ chế áp

dụng hữu hiệu chúng trong thực tiễn của đất nước. Đây là một việc quan trọng, cần
thiết, nhưng cũng rất khó khăn. Dẫu có nhiều cố gắng nhưng khó có thể giải quyết một
sớm một chiều.

19


Quản lý nhà nước về lao động

20


Quản lý nhà nước về lao động

PHỤ LỤC
Bảng 2.1.1. Tỷ lệ trẻ em tham gia hoạt động kinh tế 2012
Khu vực/

Chung

Nhóm tuổi (%)

Tổng số trẻ em

Tỷ lệ %

5-11

12-14


15-17

Toàn quốc

18.349.629

100,0

100,0

100,0

100,0

Trẻ em không HĐKT

15.517.512

84,6

96,3

79,0

64,6

Trẻ em HĐKT

2.832.117


15,4

3,7

21,1

35,4

Thành thị

5.290.712

100,0

100,0

100,0

100,0

Trẻ em không HĐKT

4.890.732

92,4

92,6

90,1


81,3

399.980

7,6

1,5

9,9

18,7

Nông thôn

13.058.917

100,0

100,0

100,0

100,0

Trẻ em không HĐKT

10.626.780

81,4


95,4

74,7

57,9

Trẻ em HĐKT

2.432.137

18,6

4,6

25,3

42,1

Phân loại

Trẻ em HĐKT

Nguồn: Báo cáo điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012

Sơ đồ 2.1.2. Trẻ em tham gia hoạt động kinh tế phân bố theo tình trạng đi học
Đơn vị: Người

Trẻ em tham gia
HĐKT
2.828.828


Trẻ em tham gia HĐKT
và đang đi học
1.594.413
(56,4%)

Trẻ em tham gia HĐKT
và chưa bao giờ đi học
57.976
(2,0%)

Trẻ em tham gia HĐKT
và đã bỏ học
1.176.439
(41,6%)

Nguồn: Báo cáo điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Ngọc Thanh, (2017). Hành động mạnh mẽ ngăn chặn lạm dụng lao động
trẻ em. />[Ngày truy cập: 10/10/2018]


Quản lý nhà nước về lao động

2. Nguyễn Thị Lan Hương và cộng sự, (2013). Báo cáo điều tra quốc gia về lao
động trẻ em 2012, Hà Nội.
3. Quốc hội, (2012). Bộ luật Lao động, (Luật số 10/2012/QH13), Hà Nội.
4. Quốc hội, (2014). Luật Bảo hiểm xã hội, (số 58/2014/QH13), Hà Nội.
5. Quốc hội, (2015). Luật An toàn, vệ sinh lao động, (số 84/2015/QH13), Hà Nội.

6.

Thái An, (2017). Bảo đảm an sinh xã hội cho trẻ em lao động sớm. Truy cập tại
[Ngày truy cập: 9/10/2018]

7.

Thiên Hướng, (2016). Báo động tình trạng lao động trẻ em. Truy cập tại link:
[Ngày
truy cập: 8/10/2018]



×