CÁC QUY ĐỊNH KHI LÀM VIỆC TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM
HOÁ HỌC
1.1. Nội quy phòng thí nghiệm:
Trích dẫn
• Mọi người làm việc trong phòng thí nghiệm (PTN) đều phải được học tập, kiểm tra về
nội quy an toàn lao động, nắm vững các quy trình, quy phạm kĩ thuật và các biện pháp
đảm bảo an toàn lao động.
• Mỗi người chỉ làm việc trật tự, giữ gìn vệ sinh và tuân thủ hướng dẫn của cán bộ phụ
trách tại nơi quy định. Không tiếp khách lạ hoặc làm ngoài giờ quy định, nếu muốn làm
ngoài giờ thì cần có sự đồng ý của trưởng PTN và phòng Bảo vệ nhà trường.
• Phải đọc kĩ tài liệu, hiểu rõ mọi chi tiết của thí nghiệm trước lúc làm và lường trước các
sự cố có thể xảy ra để chủ động phòng tránh.
• Tiến hành thí nghiệm thì cần quan sát và ghi chép kĩ các số liệu để làm bản báo cáo thí
nghiệm. Sau giờ làm việc phải lau chùi, sắp xếp gọn gàng các thiết bị và dụng cụ thí
nghiệm. Lưu ý: lấy hoá chất, dụng cụ thí nghiệm ở đâu thì đặt lại vị trí cũ. Trước khi
rời khỏi PTN cần phải kiểm tra lại PTN, khoá các van nước, đóng ngắt cầu dao điện,...
• Ngoài những quy định chung nêu trên thì mỗi PTN tuỳ theo tính chất chuyên môn cần
đề ra những quy định riêng nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người và tài sản trong
phòng.
1.2. Quy tắc an toàn:
1.2.1. Tất cả các thí nghiệm có sử dụng chất độc dễ bay hơi, có mùi khó chịu, các khí độc hoặc
các axit đặc phải được tiến hành trong tủ hốt hoặc nơi thoáng gió. Cần tìm hiểu về các hoá chất
dùng trong PTN để biết các đặc tính như: tính độc, khả năng cháy, nổ,... để tránh xảy ra những
sai sót khi tiến hành thí nghiệm, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
a. Làm việc với các chất độc:
Trích dẫn
• Trong PTN Hoá học có nhiều loại hoá chất thường gặp nhưng lại có độc tính cao như:
HCN, NaCN/KCN, Me
2
SO
4
, Hg, HgCl
2
, CO, Cl
2
, Br
2
, NO, NO
2
, H
2
S, NO
2
,... hay các
loại chất dùng trong mảng Tổng hợp Hữu cơ như: CH
3
OH, pyriđin C
5
H
5
N, THF, benzen,
toluen, acrylonitrin, anilin, HCHO, CH
2
Cl
2
... Tất cả các chất không biết rõ ràng đều
được coi là chất độc. Khi làm việc với các hoá chất này cần chú ý kiểm tra chất lượng
dụng cụ chứa đựng và dụng cụ tiến hành thí nghiệm. Đặc biệt tuân thủ chặt chẽ các điều
kiện đã nêu trong giáo trình, tài liệu đã được chuẩn bị trước.
• Không trực tiếp đưa hoá chất lên mũi và ngửi mà phải để cách xa và dùng tay phất nhẹ
cho chúng lên mùi.
• Sau khi làm việc phải rửa mặt, tay và các dụng cụ (nên dùng xà phòng).
• Cất giữ, bảo quản hoá chất cẩn thận.
b. Làm việc với các chất dễ cháy:
Trích dẫn
• Các chất thuộc nhóm chất dễ cháy, dễ bay hơi bốc lửa là Et
2
O, Me
2
CO, ROH, dầu hoả,
xăng, CS
2
, benzen,... Khi làm việc với chúng cần chú ý là chỉ được phép đun nóng hay
chưng cất chúng trên nồi cách thuỷ hoặc cách không khí trên bếp điện kín.
• Không để gần nguồn nhiệt, cầu dao điện,...
• Khi tiến hành kết tinh từ các dung môi dễ cháy thì cần thực hiện trong dụng cụ riêng, có
lắp sinh hàn hồi lưu.
c. Làm việc với các chất dễ nổ:
Trích dẫn
• Khi làm việc với các chất như H
2
, kiềm (kim loại & dung dịch), NaNH
2
/KNH
2
, axit đặc,
các chất hữu cơ dễ nổ (đặc biệt là các polynitro)... cũng như khi làm việc dưới áp suất
thấp hay áp suất cao cần phải đeo kính bảo vệ (làm bằng thuỷ tinh hữu cơ) để che chở
cho mắt và các bộ phận quan trọng trên gương mặt.
1.2.2. Không được cúi đầu về phía các chất lỏng đang đun sôi hoặc chất rắn đang đun nóng chảy
để tránh bị hoá chất bắn vào mặt (có nhiều trường hợp không lưu ý vấn đề này). Khi đun nóng
các dung dịch trong ống nghiệm phải dùng cặp và luôn chú ý quay miệng ống nghiệm về phía
không có người, đặc biệt là khi đun nóng axit đặc hoặc kiềm đặc. Phải biết chỗ để và sử dụng
thành thạo các dụng cụ cứu hoả, các bình chữa cháy và hộp thuôc cứu thương để khi sự cố xảy
ra có thể xử lí nhanh chóng và hiệu quả.
1.3. Cách sơ cứu chấn thương và ngộ độc trong PTN: Vấn đề này sẽ chỉ được nói chung
chung bởi có nhiều trường hợp tai nạn PTN và mỗi trường hợp có 1 cách xử lí khác nhau, chúng
ta sẽ tìm hiểu cụ thể hơn thông qua các câu hỏi Thảo luận.
Trích dẫn
• Tủ thuốc trong PTN luôn được đặt ở nơi dễ thấy, dễ lấy và dễ sử dụng. Trong tủ thuốc
thường có các loại bông băng, thuốc đỏ, cồn iot, thuốc mỡ, các dung dịch KMnO
4
3%,
CuSO
4
, NaHCO
3
2%, CH
3
COOH 1%, dung dịch tanin trong cồn...
• Khi bị axit đặc (H
2
SO
4
, HNO
3
, HCl, HOAc,...) hoặc brom, phenol bắn hoặc rơi vào da
thì phải rửa ngay bằng vòi nước mạnh trong vài phút, sau đó dùng bông tẩm NaHCO
3
2% hoặc dung dịch tanin trong cồn đắp lên chỗ bỏng và băng lại.
Khi bị bỏng do kiềm (kim loại hoặc dung dịch đặc) thì phải rửa bằng nước, sau đó rửa
bằng dung dịch HOAc 1% rồi rửa lại bằng nước một lần nữa và bôi thuốc sát trùng, băng
lại.
Khi bị bỏng do vật nóng, thuỷ tinh, mảnh sứ... thì phải gắp các mảnh chất rắn đó ra và
dùng bông tẩm KMnO
4
3% hoặc dung dịch tanin trong cồn đắp lên vết bỏng, sau đó
băng lại bằng thuốc có tẩm thuốc mỡ chứa bỏng.
...
• Khi bị hoá chất bắn vào mắt thì phải rửa bằng nước nhiều lần để sơ cứu và đem đến
bệnh viện gấp.
• Nếu bị nhĩêm độc do hít thở nhiều phí Cl
2
, Br
2
, H
2
S, CO,... thì phải đưa ngay ra chỗ
thoáng. Khi bị nhiễm độc kim loại As, Hg,... hoặc độc chất xianua thì phải chuyển ngay
đến bệnh viện để cấp cứu.
...
1.4. Câu hỏi thảo luận:
Câu 1. Na/K kim loại là những chất hút ẩm rất tốt nhưng tại sao không được dùng chúng để làm
khô các dẫn xuất halogen dãy béo (etyl bromua, clorofom,...)? Và để làm khô những hoá chất đó
thì phải sử dụng phương pháp nào?
Câu 2. Photpho trắng (WP - white phosphorus) là một trong 3 dạng thù hình chính của photpho
với cấu tạo tứ diện (P
4
) rất kém bền, photpho trắng cháy khi tiếp xúc với không khí hay tiếp xúc
với nguồn nhiệt và ánh sáng. Tại sao khi bị bỏng photpho trắng người ta thường dùng bông
băng tẩm dung dịch CuSO
4
2% để đắp lên vết thương.
Câu 3. Khi pha loãng axit đặc (đặc biệt là axit sunfuric H
2
SO
4
) phải rót từ từ axit vào nước chứ
không được làm ngược lại. Tại sao?
Câu 4. Tại sao không để natri amit NaNH
2
tiếp xúc với nước đá?
Câu 5. Tanin là tên chung của một nhóm poliphenol tồn tại chủ yếu trong thực vật, có khả năng
tạo liên kết bền vững với protein và một số hợp chất cao phân tử thiên nhiên. Dưới đây là công
thức của một Tanin có tên là corilagin có nhiều ở các loại cây sồi, sú,... được dùng nhiều trong y
học để làm thuốc chữa bỏng, tiêu độc:
Giải thích tại sao:
Trích dẫn
Khi bị axit đặc (H
2
SO
4
, HNO
3
, HCl, HOAc,...) hoặc brom, phenol bắn hoặc rơi vào da thì phải
rửa ngay bằng vòi nước mạnh trong vài phút, sau đó dùng bông tẩm NaHCO
3
2% hoặc dung
dịch tanin trong cồn đắp lên chỗ bỏng và băng lại.
Lưu ý:
• Các câu hỏi này là do mình tìm trong các tài liệu thực hành và các kinh nghiệm thực tập
nên có một số câu hỏi mình không có đáp án hoặc đáp án còn chưa chuẩn, còn nhiều
thiếu sót. Hi vọng những ai quan tâm đến lĩnh vực thực nghiệm Hoá học sẽ ủng hộ topic
hoạt động bằng cách viết bài giới thiệu hoặc trả lời các câu hỏi (chỉ cần hướng dẫn sơ
qua là được). Chúng ta trao đổi kiến thức trên tinh thần học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau
nên mình hi vọng không phải nhận những câu trả lời kiểu như "Câu này dễ, nhường mọi
người", ai biết đáp án cứ đưa lên ngay luôn để mọi người còn xem xét, chúng ta sẽ còn
thảo luận nhiều mà.
• Topic này cần một sự sắp xếp khoa học nên các bạn có bị delete bài hoặc merge bài thì
cũng xin thông cảm, mình sẽ không edit vào bài (trừ khi sai lỗi chính tả) nhưng sẽ merge
các bài có cùng nội dung để hợp nhất các câu trả lời cho hoàn chỉnh hơn. Những bài
spam, bình luận hay những bài viết có tính chất đùa cợt sẽ bị delete và tuỳ theo mức độ
mình sẽ trừ điểm bài viết.