Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Cảm nhận tình yêu thiên nhiên qua bài thơ mùa xuân nho nhỏ và bài thơ sang thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.53 KB, 7 trang )

Cảm nhận tình yêu thiên nhiên qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và bài thơ
Sang thu
Mở bài:
Đối với thi nhân, không vẻ đẹp nào đẹp bằng vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời. Thơ
xưa luôn dành cho thiên nhiên một vị trí danh dự. Các nhà thơ hiện đại cũng dành
cho thiên nhiên một tình yêu thiết tha. Với bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, Thanh Hải
đã đem đến cho người đọc một mùa xuân xứ Huế thơ mộng, trữ tình, đằm thắm mà
thiết tha. Hữu Thỉnh cũng góp vào bức tranh ấy với một mùa thu mơ màng, êm dịu
mà vội vã, xáo động.

Thân bài:
Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Thanh Hải viết bài thơ Màu xuân nho nhỏ trên giường bệnh, hai tháng trước khi
ông mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng. Ở vào thời điểm ngay lằn ranh giữa sự sống và
cái chết ấy, con người thường hay nghĩ về sự kết thúc hơn là những khởi đầu của
sự sống. Ấy thế mà, Thanh Hải đã dành tất cả tâm tư, tình cảm để chuẩn bị cho
những khởi đầu mới mẻ và diễn biến của sự sống lâu bền. Không có một sự bi lụy
nào được gắn kết trong từ ngữ. Tất cả đều rất tươi vui, rạo rực sức sống. Một sức
sống cuộn lên từ niềm tin và khát vọng cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời tươi
xanh.

Mở đầu bài thơ hiện lên bức tranh mùa xuân tràn đầy thanh sắc:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi, con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời!”.


Thủ pháp đảo trật tự cú pháp trong câu thơ vắt dòng: “Mọc giữa dòng sông xanh.
Một bông hoa tím biếc” không làm người đọc khá bất ngờ mà còn muôn phần thú


vị. Chỉ bằng hai câu thơ ngắn ngủi mà cảnh xuân, sắc xuân, tình xuân đã trào lên
chất chứa. Giữa dòng sông xanh, một bông hoa lục bình sắc tím đĩnh đạc, lộng lẫy
nổi bậc trên cái nền xanh thẳm của sông nước, đất trời. Nghệ thuật phối sắc thể
hiện cái đẹp hài hòa của thiên nhiên. Chỉ một đóa hoa ít ỏi thôi nhưng nó không hề
đơn độc. Bông hoa không tách mình khỏi cảnh vật mà hòa mình vào với tất cả.
Cũng không có một sự khác biệt nào giữa sắc màu của sông xanh, của nước xanh,
của cỏ xanh, của trời xanh hay của hoa tím. Người đọc nhận thấy ở đó là một gam
màu nhẹ nhẹ, đằm thắm dễ chịu. Đó là màu của sức sống đang tràn trào khắp cảnh
vật.

Trên bầu trời cao, tiếng chim chiền chiện không ngừng lảnh lót. Hai từ “hót chi”
không phải để hỏi mà là sự đồng cảm, thấu hiểu. Nó hát bài ca mến yêu ánh sáng
và cuộc đời. Nó hát bài ca ca ngợi cuộc sống tự do và hạnh phúc. Đó cũng là lời ca,
là niềm vui, niềm tin yêu của lòng người trước cuộc đời mới tươi đẹp và vĩnh hằng.
Với tiếng chim chiền chiện, không gian nghệ thuật mở ra rộng lớn hơn, cao vời
hơn. Thoát khỏi điểm nhìn dưới thấp nhưng cái màu xanh vẫn còn tiếp nói đến tận
xa xôi. Giữa con người và thiên nhiên đất trời giờ đây xích lại gần nhau hơn, hòa
quyện trong niềm vui bất tận. Bởi thế mà, nhà thơ đã trìu mến gọi: “Ơi, con chim
chiền chiện” thân thương như gọi một người bạn cần đến để tâm tình, sẻ chia niềm
vui sướng đang dồn ứ trong lòng.

Sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên đất trời bước đến sự hòa nhập thực sự khi
nhà thơ nhận thấy:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.


Vẻ đẹp và sức sống của thiên nhiên không còn xa vời mà hiện hữu ngay trên bàn
tay đón đợi. Có cái gì đó mến yêu, ngọt ngào, long lanh đang rơi xuống khiến nhà

thơ đưa tay ra hứng. Từng giọt long lanh có nhiều cách hiểu. Đó có thể là giọt
sương đêm còn treo đầu ngọn cỏ xanh trong buổi bình minh nắng sớm. Đó có thể
là gọt mưa còn vương lại trên lá thắm chồi non. Đó có thể là âm thanh của tiếng
chim chiền chiện kết tụ tinh anh giữa đất trời thắm biếc, trong cuộc đời rộn rã tươi
vui.

Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh đó vẫn rất đẹp, rất nên thơ, đủ sức dẫn dắt ta
phiêu du trong cảnh sắc mùa xuân đang chờ đợi bước chân ta tới. Chẳng gì mùa
xuân đang vui mà bởi lòng người đang hân hoan với niềm vui lớn. Có lẽ, Thanh
Hải đã nhận biết đó có thể là mùa xuân cuối cùng mà ông được chào đón nên mới
vồn vã đến thế. Mùa xuân xứ Huế được miêu tả đẹp như một bức tranh cổ kính
phảng phất chất Đường thi thuở nào. Nó vừa kín đáo vừa rộng mở ra trước mắt với
dòng sông, hoa cỏ, tiếng chim hót, bầu trời cao, sương mai e ấp, ánh xuân tươi và
con người luôn sẵn sàng mạnh bước tới. Tất cả sắc xuân, tình xuân, nhạc xuân
cuộn quyện trong tâm cảm con người hòa thắm yêu thương.

Tình yêu thiên nhiên của thi nhân qua bài thơ Sang thu
Khác với Thanh Hải, nhà thơ Hữu Thỉnh khám phá bức tranh thiên nhiên với mọt
tâm thế bất ngờ nhưng hết sức hồ hởi. Cảm xúc ấy vừa dịu nhẹ, tinh tế vừa nồng
say, quấn quýt. Cảm xúc ấy nảy sinh từ một tâm hồn đày rung cảm, lúc nào cũng
sẵn sàng giao hòa với đất trời thiên nhiên, với cái đẹp trong cuộc đời.

Không chờ đợi mà lại đến, mùa thu thầm lặng gõ cửa làng quê và hồn người thi sĩ:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ


Hình như thu đã về”.


Nhiều người cho rằng chữ “bỗng” ở đầu câu thơ biểu hiện sự xuất hiện đột ngột,
bất ngờ của mùa thu khiến cho nhà thơ thảng thốt. Nhưng kì thực, đọc lại một lần
và đọc thêm nhiều lần nữa, nhấn nhá một chút ta sẽ thấy đó là niềm sướng vui, hân
hoan tột độ của thi nhân khi phát hiện mùa thu đã về qua hương ổi nồng được phả
trong con gió lạnh đầu mùa. Bởi mùa thu đến trước hết không qua sự vật nào khác
ngoài cái se lạnh đầu mùa. khí hậu miền Bắc phân ra rõ ràng lắm, tinh nhạy lắm.
Thi nhân không thể không biết điều đó. Thế nên đâu là bất ngờ, đâu còn là đường
đột, là kinh ngạc. Lại thêm hương ổi là mùi hương vốn không có gì xa lạ đối với
người làng quê. Mùa thu hương ổi thơm đã trở thành quen thuộc rồi. Cái đẹp ở đây
là cái đẹp của hồn người, một tâm hồn đây cuống quýt, nồng nhiệt và rộn ràng hết
sức.

Mùa thu đến, đất trời lặng gió. Thực ra là nó đã đến rồi. Nếu thực sự đó là khoảnh
khắc đầu tiên, trong cái xung đột dữ dội của thời tiết thì đất trời không thể lặng gió
được. Cũng không có cái cảnh: “Sương chùng chình qua ngõ” đau. Và hai từ “hình
như” cũng mất đi ý nghĩa. Nói đúng hơn, đây là khoảnh khắc thi nhân cảm nhận
được khá đầy đủ dấu hiệu của mùa thu trên cảnh vật hiện hữu. Hình như thể hiện
một chút nghi hoặc, một chút buân khuâng, có cái gì đó không thật rõ ràng của
bước chân mùa thu dù tín hiệu thu sang đã rõ.

Mở rộng không gian thu, thi nhân đến với đất trời rộng lớn để kiểm chứng, xác
thực và khẳng định nó:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.



Sự chuyển dịch không gian tạ cho ta cảm giác chuyển động của bước chân mùa
thu. Đó là một cảnh động, biến ảo rất nhanh như một thước phim lướt vội trên màn
ảnh. Từ trong lũy tre cổng nhỏ, thi sĩ bước đến với đồng rộng sông dài mới nhận rõ
bước thu đi. Không phải “con sông dùng giằng con sông không chảy” như Thu
Bồn viết về sông Hương, Trước mắt thi sĩ, con sông “dềnh dàng”. Nó như lơ là,
không chú tâm, như còn mơ màng trong làn sương, bịn rịn với đồng, tinh nghịch
với bờ, với bãi không muốn xuôi dòng. Cánh chim trời cũng đã vội vã theo đàn về
Nam. hai từ “vội vã” thể hiện rất rõ ràng cánh chim đang trên đương di trú chứ
không phải là bắt đầu cho cuộc hành trình vạn dặm ấy.

Trên trời cao, đám mây với hai sắc thái đối lập: nửa sáng, nửa tối. nửa sáng như
vẫn còn ở mùa hạ, nửa tối đã bước đến mùa thu. Thực ra, đó chỉ là cách nói hình
tượng bằng ngôn ngữ nghẹ thuật mà thôi. Chính hiệu ứng ánh sáng trong một thời
điểm trùng hợp khiến nhà thơ liên tưởng đến sự xung đột mùa ấy. Kết hợp với
phép nhân hóa được sử dùng trong câu thơ tạo nên sự bất ngờ, thú vị, tinh tế. Áng
mây bâng khuâng là hình ảnh thực nhưng cái ranh giới mùa là hư – sản phẩm của
vị trí tưởng tượng nhà thơ.

Ở ngay cái khoảnh khắc giao mùa, lúc này, sự xung đột mãnh liệt mới thực sự rõ
ràng nhất:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.


Không gian trở lại với những sắc thái vốn có của khoảnh khắc giao thời. Sự xung
đột kéo dài đến chân trời xa xôi. Bầu trời vẫn còn ấm cái nắng của mùa hề, những
con mưa giông ầm ĩ cũng đã vơi rồi. Tiếng sấm không còn đủ sức vang rền mà kéo

về tận xa xa.

Đến đây, giọng thơ trầm hẳn xuống. Câu thơ ngập ngừng tiếc nuối. Đó là sự suy tu,
chiêm nghiệm về cuộc đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển từ lức mới bắt đầu
cho đến khi thực sự trở nên rõ ràng, nhà thơ nghĩ đến cuộc đời với bao trải nghiệm
sâu sắc khi đã đứng tuổi. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những
tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới,
một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn
động của cuộc đời.

Thiên nhiên làm nhà thơ chú ý, hào hứng, sôi nổi rồi lại trở về với nỗi buồn của đời
người. Sang thu đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao
cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và
liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh
liệt hơn.

Hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ vắt
dòng tạo ra những liên tưởng thú vị → đã thể hiện một cách đặc sắc những xúc
cảm tinh tế trước bước chuyền giao mùa; đã diễn tả cụ thể, tinh tế, nhạy cảm tình
yêu thiên nhiên tha thiết của Hữu Thỉnh. Cách cảm nhận và miêu tả của tác giả:
tinh tế, nhạy cảm, sự liên tưởng độc đáo. Nhà thơ làm cho mùa thu trong thơ ca
Việt Nam mang một hương sắc mới.

Thiên nhiên vốn vô tư. Chẳng bởi vì thế mà từ xưa, con người đã lấy thiên nhiên
làm chuẩn mực của cái đẹp. Con người có thể gửi gắm vào đó biết bao tâm tư tình
cảm và nhận về biết bao chiêm nghiệm sau xa. Qua hai bài thơ, ta thấy rất rõ cả hai
nhà thơ đều dành cho thiên nhiên một tình yêu nồng nhiệt, đắm say. Tình yêu thiên


nhiên của hai nhà thơ đều nhẹ nhàng, tinh tế nên cảnh sắc thiên nhiên trong bài thơ

không bị hòa lẫn vào cảnh sắc thiên nhiên của các bài thơ khác. Thiên nhiên là bạn,
là người thân yêu mến. Thiên nhiên giao hòa, thấu cảm và sẻ chia cùng con người.
Thiên nhiên thắm biếc sắc màu và không ngừng chuyển động thaeo niềm tâm cảm.
Dù mùa xuân hay mùa thu, lúc nào thiên nhiên cũng hiền hòa, thân thiết.

Điểm khác biệt ở hai bức tranh thien nhiên đó là hai bức tranh của hai mùa khác
nhau. Một mùa là khởi đầu của một năm, thắm đầy sức trẻ, cây lá xanh tươi, đất
trời rộng mở. Một mùa là thời điểm trầm lắng của đất trời chuyển mình vào giấc
ngủ đâu triền miên, sự sống bắt đầu co khép lại. Thật lạ lùng thay, nhà thơ Thanh
Hải khi đang trong cơn bạo bệnh, sức sống suy kiệt lại khát khao một mùa xuân
tràn đầy, tươi trẻ, còn nhà thơ Hữu Thỉnh khi ấy chưa hẳn đã già lại tìm về với sự
trầm lắng, đầy chiêm nghiệm của mùa thu. Một sự trùng hợp gây cho người đọc
biết bao thú vị. Phải chẳng, khi sống con người thường nghĩ đến cái chết và không
ngừng lãng phí thời gian và khi sắp từ biệt thế gian, con người ta lại khao khát
sống, thấy mình sống chưa đủ, cống hiến cho cuộc đời chưa đủ?

Kết bài:
Thanh Hải và Hữu Thỉnh bằng hai bài thơ ngắn đã mang đến cho đọc giả những
trải nghiệm sâu sắc. Tình yêu thiên nhiên – mùa xuân, mùa thu của hai thi nhân
thật thiết tha đã bồi đắp thêm cảm xúc, tình cảm yêu mến thiên nhiên cho mỗi
người đọc. Mùa xuân nho nhỏ và Sang thu cùng với hai hồn thơ – Thanh Hải, Hữu
Thỉnh – đã làm đẹp những trang thơ – thơ hiện đại Việt Nam.



×