Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

(khóa luận triết học) định nghĩa vật chất của lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.12 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊNIN, Ý NGHĨA THẾ
GIỚI QUAN VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA
NÓ TRONG NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC
TIỄN

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS, TS. VŨ TRỌNG DUNG - TRƯỞNG KHOA TRIẾT HỌC
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH KHU VỰC I
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH


MỤC LỤC

1. Mục lục
2. Lời nói đầu
3. Vật chất là gì?
4. Định nghĩa vật chất của Lênin, ý nghĩa thế giới quan khoa học
5. Ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
6. Kết luận
7. Danh mục tài liệu tham khảo

LỜI NÓI ĐẦU

2

Trang
2


3
4
6
9
22
23


Cơ sở của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Với cơ sở này, lần đầu tiên giai cấp vô sản và nhân dân lao
động đã có một vũ khí tinh thần để đấu tranh giải phóng giai cấp mình và cả
xã hội ra khỏi sự áp bức bóc lột. Như vậy, triết học Mác là vũ khí tinh thần
của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là lực lượng “vật chất” của triết học
Mác. Sự thống nhất chặt chẽ giữa triết học Mác với giai cấp vô sản làm cho
triết học Mác thực sự thể hiện tính cách mạng của mình và giai cấp vô sản
mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử là lật đổ xã hội cũ, từng bước xây dựng
một xã hội mới, chế độ Xã hội chủ nghĩa. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã biến đổi căn bản tính chất
của triết học, đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ của nó với các khoa học
khác. Triết học Mác đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận của
các khoa học cụ thể. Các tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở để cụ thể
hóa và phát triển triết học Mác.
Lênin là người đã bảo vệ và tiếp tục phát triển triết học Mác trong thời
kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, ông đã khái
quát những thành tựu của khoa học, nhất là trong vật lý học, phát triển hơn
nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, một trong số
đó chính là định nghĩa về phạm trù vật chất. Để nắm vững cơ sở của triết học
Mác - Lênin, chúng ta phải nhận thức đúng đắn phạm trù này.

I. Vật chất là gì?

+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất:
3


Từ khi ra đời cho đến nay, lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Cuộc đấu tranh đó trước hết xuất phát từ
việc lý giải vấn đề căn nguyên của thế giới. Có rất nhiều ý kiến khác nhau trả
lời cho câu hỏi này, tựu trung lại, có hai loại ý kiến đối lập nhau:
Một loại ý kiến cho rằng cái sinh ra các sự vật hiện tượng phong phú đa
dạng của thế giới xung quanh chúng ta là tinh thần. Đây là quan điểm duy
tâm. Quan điểm duy tâm chủ quan cho rằng tư duy, ý thức của con người là
xuất phát điểm, là nguyên nhân, là cội nguồn của mọi sư vật hiện tượng. Sự
vật hiện tượng chẳng qua chỉ là những phức hợp của cảm giác, tri giác của
con người. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng, có một thực thể tinh thần
tồn tại trước thế giới vật chất, trước tự nhiên xã hội và con người đó là ý niệm
tuyệt đối, tinh thần thế giới. Chính nó là cái sản sinh ra giới tự nhiên, xã hội
và con người.
Một loại ý kiến cho rằng cái sinh ra mọi vật là vật chất. Đây là quan
điểm duy vật. Chủ nghĩa duy vật cho rằng thế giới này là vật chất; vật chất là
cơ sở tồn tại của mọi sự vật hiện tượng; mọi sự vật hiện tượng xung quanh
chúng ta chỉ là sự biểu hiện khác nhau của vật chất đang vận động. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng đã khẳng định:
-Sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và khả năng nhận thức thế
giới của con người.
- Nguồn gốc, bản chất và nội dung của ý thức.
- Tính thống nhất, tính vô tận, tính vĩnh viễn, tính phong phú và muôn
vẻ của thế giới vật chất.
Như vậy phạm trù vật chất được hiểu rất khác nhau, phụ thuộc vào sự
phát triển của hoạt động thực tiễn và nhận thức trong từng thời kỳ của lịch sử
nhân loại.

Quan niệm vật chất của các nhà duy vật cổ đại mang tính trực quan
cảm tính, thể hiện ở chỗ họ đã đồng nhất vật chất với những vật chật cụ thể,
coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại ta gọi đó là quan điểm nhất nguyên
thể Chẳng hạn trong triết học Ấn độ cổ đại phái Cha -rơ -vác coi cơ sở đầu
4


tiên là đất, nước, lửa và không khí. Trường phái Mi -lê của triết học Hy Lạp
cổ đại coi cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là nước (Ta-lét), không khí (A-na-ximen); trong triết học của A-na-xi-men thì A-pây-rôn được coi là một dạng vật
chất vô tận, không xác định là một cái gì đó giữa nước và không khí là cơ sở
đầu tiên của mọi tồn tại. Hê -ra-cơ -lít lai coi lửa là cơ sở đầu tiên của mọi tồn
tại. Một số nhà triết học khác lại cho rằng thế giới sự vật hiện tượng do một số
nguyên thể đầu tiên tạo thành, ta gọi là quan điểm đa nguyên thể. Chẳng hạn,
nhà triết học Hy lạp cổ đại Em-pê-dô-lơ (khoảng 490-430 TCN) và trường
phái không chính thống Lô -ka-ya-ta của triết học Ấn độ cổ đại đều cho rằng
bốn yếu tố: đất, nước, lửa (hay ánh sáng), không khí (hay gió) sinh ra mọi vật.
Bốn căn nguyên đó tồn tại vĩnh viễn, không tự sinh ra và mất đi. Còn thuyết
ngũ hành của triết học Trung quốc cổ đại cho rằng, năm yếu tố: kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ là những yếu tố khởi nguyên cấu tạo mọi vật. Bước tiến quan
trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất của hai
nhà triết học Hy lạp cổ đại: Lơ -xíp (khoảng 500-440 TCN) và Đê -mô -crit.
Hai ông định nghĩa vật chất là nguyên tử. Nguyên tử là những hạt nhỏ nhất
không thể phân chia, không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình
dạng, tư thế và trật tự sắp xếp. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới là do sự kết
hợp và phân giải của các nguyên tử mà thành.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng thuyết nguyên tử cổ đại là một bước
phát triển của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật chất
triết học, tạo thành cơ sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Việc đồng
nhất vật chất với một dạng cụ thể của nó là nguyên tử kéo dài và trở thành
truyền thống trong tư duy của các nhà triết học duy vật và các nhà khoa học tự

nhiên sau này. Chính những tư tưởng về nguyên tử của Lơ -xíp, Đê-mô -crit
đã được Ga -li-lê, Đề-các, Niu-tơn, Bê-cơn, Hốp-bơ.khẳng định và phát triển
hơn nữa. Thế kỷ XIX, các nhà triết học và khoa học tự nhiên, do không hiểu
phép biện chứng duy vật, vẫn đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc vật chất
với một thuộc tính phổ biến của các vật thể đó là khối lượng.

5


+ Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX bác bỏ quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
Đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX trong vật lý học có những phát
minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới, sâu sắc về
cấu trúc của thế giới vật chất.
Năm 1895, Rơnghen đã phát hiện ra tia X.
Năm 1896, Béc-cơ -ren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã chứng tỏ
rằng nguyên tử không thể không thể không phân chia được và không thể
chuyển hóa sang các nguyên tử khác.
Năm 1897, Tôm-xơn phát hiện ra điện tử. Điện tử là một trong những
yếu tố cấu tạo nên nguyên tử. Phát minh này chứng tỏ nguyên tử không phải
là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất.
Năm 1901, Kau-phman đã phát hiện ra rằng trong quá trình vận động
khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng. Phát minh này phủ nhận
hoàn toàn quan điểm siêu hình cho rằng khối lượng là bất biến và đồng nhất
vật chất với khối lượng.
Tất cả những phát minh ấy đưa lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc
về nguyên tử. Điều đó đã gây ra một cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong các
nhà triết học và khoa học tự nhiên. Lợi dụng cơ hội này, các nhà triết học duy tâm
một mặt biện hộ cho quan điểm sai lầm của mình, mặt khác, họ đẩy mạnh cuộc tấn
công trực diện vào khái niệm vật chất.

Lênin đã đã bác bỏ sự giải thích duy tâm đối với phạm trù vật chất và chỉ
ra rằng, không phải là vật chất tiêu tan mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con
người về vật chất tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là
giới hạn của sự nhận thức về vật chất.
II. Định nghĩa vật chất của Lênin - ý nghĩa thế giới quan khoa học
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự
nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm về triết học, Lênin đã đưa ra một định
nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về vật chất: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
6


trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

.

Khi định nghĩa phạm trù vật chất, Lênin đòi hỏi cần phải phân biệt vật
chất với tính cách là một phạm trù triết học với các khái niệm của khoa học tự
nhiên về các đối tượng, sự vật cụ thể ở các trình độ kết cấu và tổ chức khác
nhau và các thuộc tính khác nhau tương ứng của chúng. Lênin cũng chỉ ra
phương pháp định nghĩa vật chất là phạm trù rộng nhất trong hệ thống các
phạm trù nên không thể định nghĩa nó bằng phương pháp định nghĩa thông
thường: qui khái niệm cần định nghĩa vào một khái niệm rộng hơn và chỉ ra
những đặc điểm khác biệt mà chỉ có thể định nghĩa vật chất bằng cách tuyệt
đối nó với ý thức, xem vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý
thức là cái phản ánh nó. Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt
của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, nó bao hàm các nội dung sau đây:
Một là, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách

quan. Khi nói vật chất với tư cách là phạm trù triết học thì nó là một sự trừu
tượng. Song sự trừu tượng này chỉ cái đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà
mọi sự vật, hiện tượng cụ thể nào của vật chất cũng có, đó là đặc tính tồn tại
khách quan và độc lập với ý thức loài người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ
bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Cần
phải chú ý hai khía cạnh phân biệt nhau nhưng lại gắn bó với nhau, đó là tính
trừu tượng và tính cụ thể của vật chất. Nếu chỉ thấy tính trừu tượng, thổi
phồng tính trừu tượng mà quên mất những biểu hiện cụ thể của vật chất thì
không thấy vật chất đâu cả, sẽ rơi vào trường hợp duy tâm. Ngược lại, nếu chỉ
thấy hiện thực cụ thể của vật chất sẽ đồng nhất vật chất với vật thể. Ý nghĩa
của nội dung này là ở chỗ:
- Đã khắc phục triệt để sai lầm của chủ nghĩa duy vật trước Mác, đó là
qui vật chất về một dạng cụ thể của vật chất; đưa học thuyết duy vật tiến lên
một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi mới do những phát minh mới
nhất của khoa học tự nhiên đề ra.
7


- Đã tạo ra cơ sở khoa học để nhận thức vật chất dưới dạng xã hội, khắc
phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Hai là, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Điều đó khẳng định “thực tại
khách quan” (vật chất) là cái có trước (tính thứ nhất), còn “cảm giác” (ý thức)
là cái có sau (tính thứ hai). Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan, là
nguyên nhân phát sinh ra ý thức. Vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức. Ý
thức là sản phẩm của sự tác động của vật chất vào giác quan con người. Ý
nghĩa của nội dung này là: nó chống lại chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức
như duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan, nhị nguyên luận là những trường
phái cố luận giải cho tinh thần là cái sinh ra mọi sự vật, hiện tượng của thế
giới xung quanh chúng ta.

Ba là, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh. Điều đó nói lên “thực tại khách quan” (vật chất) được
biểu hiện thông qua các dạng cụ thể mà con người có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp nhận biết được. Bằng cảm giác (ý thức) con người có thể nhận thức được
thế giới vật chất với các phương thức nhận thức khác nhau (như chép lại,
chụp lại, phản ánh). Vì vậy, về nguyên tắc, không có đối tượng vật chất nào
không thể nhận biết, chỉ có những đối tượng vật chất chưa nhận thức được mà
thôi. Ý nghĩa của nội dung này là:
- Hoàn toàn bác bỏ thuyết không thể biết.
- Đã có tác động cổ vũ động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu
thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới cũng như
những qui luật vận dộng và phát triển của thế giới vật chất, từ đó làm giàu
thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Là kết quả của sự khái quát trên phương diện triết học những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên và hoạt động thực tiễn của con người, định
nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp một cách khoa học, sâu sắc cả hai
mặt nội dung vấn đề cơ bản của triết học. Vì vậy ngoài ý nghĩa thế giới quan
8


khoa học trên đây, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý nghĩa phương
pháp luận chung đối với chúng ta trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
III. Ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn:
Vì vật chất có truớc, tồn tại khách quan không tồn tại vào ý thức, ý thức
có sau vật chất; vật chất quyết định ý thức, cho nên trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn “phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và tuân theo quy luật
khách quan”, phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có
làm cơ sở cho mọi hoạt động của mình; không được lấy ý muốn chủ quan làm
điểm xuất phát. Yêu cầu khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực

hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cho địa phương mình, đơn vị mình, ngành mình,
phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan thì mới nêu ra mục đích, chủ
trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn. Ngược lại, cần
chống thái độ chủ quan duy ý chí, nóng vội bất chấp quy luật khách quan, tùy
tiện phiến diện; lấy ý muốn nguyện vọng cảm tính làm xuất phát điểm cho
chủ trương chính sách; hậu quả là đường lối không hiện thực, không tưởng và
tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng con người tự làm ra lịch
sử của mình nhưng không phải bắt đầu bằng hoạt động lý luận mà bằng hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới hiện thực. Chính Mác, Ăngghen và Lênin là
những người đầu tiên trong lịch sử triết học đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận
thức, đã đưa ra quan điểm đúng đắn về bản chất của thực tiễn. Do đó, các ông
đã đem lại một quan niệm khoa học về vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với
nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Lênin đã viết về vai trò của thực tiễn: “Quan niệm về đời sống, về thực
tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

9


pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp và nông thôn chưa cụ
thể. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước, nhất là cổ phần hóa chưa đạt yêu cầu đề ra. Chất lượng nguồn nhân lực
thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn
chiếm tỉ lệ cao. Kinh tế đối ngoại chưa phát huy đầy đủ các khả năng; doanh
nghiệp trong nước chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị
trường.
Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát

triển và vận hành hệ thống thị trường chưa đồng bộ; một số nguyên tắc của thị
trường bị vi phạm; tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để.
Hơn hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Đến nay, mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự
thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng
trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an
ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được
nâng cao. Việt Nam đã được kết nạp là thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO). Mới đây, Việt Nam tự hào được bầu là thành viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng
ta là đúng đắn, là sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là
phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về
công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

17


Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh
tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển

toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng nền văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng
và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Từ thực tiễn đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và
quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho
chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả
hơn để đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành
động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn;
từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ
hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể
18


trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời
sống xã hội nhưng không làm đồng loạt, dàn đều, mà phải có trọng tâm, trọng

điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt
và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với
cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng
trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất
phát từ thực tiễn phong phú của nhân dân, thường xuyên tổng kết thực tiễn,
phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi
lên - đó là chìa khoá của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy
nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi
trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế,
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Hội nhập và
hợp tác quốc tế phải dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
và phát triển nền văn hoá dân tộc.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội;
Nhà nước phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân,
19



quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận
Tổ quốc cùng các đoàn thể nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp,
làm cho tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị ngày càng vững
mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó
tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới. Qua tổng kết lý luận - thực
tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to
lớn của “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" (năm 1991) đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần
được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và
phát triển để có một Cương lĩnh mới phù hợp với những nhiệm vụ xây dựng
đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặt
nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đang xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng một thực trạng đáng
báo động đó là môi trường phi xã hội chủ nghĩa đang hình thành trong xã hội
ta hiện nay. Đây là mảnh đất tốt nuôi dưỡng tham nhũng, tiêu cực phát triển,
lấn át môi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi toàn xã hội đang
hướng tới xây dựng một xã hội tôn vinh đạo đức nhân văn, tôn vinh tri thức,
trên thực tế lại có một bộ phận (trong đó có không ít cán bộ, đảng viên) đang
đơn phương hướng về vật chất, tất cả vì đồng tiền. Đối với họ, nguyên lý cao
quí "mình vì mọi người, mọi người vì mình" bị xem nhẹ đến mức ngượng
ngùng khi ai đó nhắc đến nó. Họ chỉ ủng hộ nguyên tắc ứng xử "sòng phẳng",
tiền trao, cháo múc, mà không quan tâm mấy đến nội hàm xã hội, nhân văn.
Có tình trạng, các nghĩa vụ xã hội của công dân ngày càng thu hẹp, thiếu tự
giác, các phúc lợi xã hội vốn tốt đẹp, đáng lẽ phải duy trì và phát huy, dần dần
bị thương mại hoá. Trong giáo dục, trong y tế... có tình trạng học sinh ngày

càng ít biết đến nhiệm vụ quản trường, quản lớp, thầy giáo không biết mình
20


còn có nhiệm vụ phải phụ đạo cho học sinh, thầy thuốc không còn tâm niệm
lương y như từ mẫu... Tuy không phải là phổ biến, nhưng những hiện tượng
đó đã phần nào tạo ra suy nghĩ mọi thứ đã được thay thế bằng tiền và phải có
tiền. Phải chăng, tệ tham nhũng, tiêu cực tràn lan trong giáo dục đã tạo cơ hội
để các thế hệ công dân mới được làm quen với tham nhũng, tiêu cực ngay từ
đầu đời? Nền giáo dục của chúng ta theo nguyên lý “học tập để ngày mai lập
nghiệp” phải chăng đã xem nhẹ các yếu tố xã hội, đất nước, nhân dân? Với
nền giáo dục như vậy, liệu đội ngũ cán bộ, công chức tạo dựng từ đó có thể
nào không tham nhũng, tiêu cực? Trả lời các câu hỏi này, không phải là việc
một sớm, một chiều. Việc cần thiết hiện nay là cần đưa nội dung phòng chống
tham nhũng, lãng phí, tham ô, thực hành tiết kiệm vào giáo dục ngay từ bậc
học phổ thông…
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay đã và đang khẳng định
bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, khẳng định nguyên
tắc Đảng lãnh đạo "tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt" đối với quân đội là hoàn
toàn đúng đắn. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu mới đối với việc nâng cao chất lượng
xây dựng quân đội, đặc biệt là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng,
công tác chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với quân đội, nhằm tăng cường sức lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung
thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Trung thành và sáng tạo với tư
tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 20 năm thực hiện Nghị

quyết số 27-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá V), Bộ Chính trị (khoá IX) đã
ban hành Nghị quyết 51-NQ/TW về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực
hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Kế
21


thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên
tắc xây dựng quân đội về chính trị, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội, vị trí vai trò công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội
nhân dân Việt Nam.
KẾT LUẬN
99 năm đã trôi qua, định nghĩa kinh điển về vật chất của triết học Mácxít
do V.I Lênin khởi xướng, đề ra luôn luôn có ý nghĩa thế giới quan và phương
pháp luận khoa học đối với giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong công
cuộc sáng tạo xã hội mới. Và cả trong thời đại hiện nay, định nghĩa vật chất
của V.I Lênin vẫn là cơ sở khoa học cho các Đảng cộng sản và công nhân cho
cuộc đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của lý luận Mácxít, chống lại mọi sai lầm
của các trào lưu triết học tư sản hiện đại, chống chủ nghĩa giáo điều và chủ
nghĩa xét lại trong triết học.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa triết học PGS-TS Vũ
Trọng Dung, Giáo trình triết học Mác-Lênin tập 1,2 Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà nội 2006.
2. Khoa triết học, phân viện Hà nội, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh: Tập bài giảng lịch sử triết học, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà nội, 1994

3. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa triết học PGS-TS Vũ
Trọng Dung, Tập bài giảng triết học Mác-Lênin tập 1,2 Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà nội 2000.
4. ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính
trị quốc gia, HN. 1996, tr.28-29.
5. Triết học Mác - Lênin trong sự nghiệp đổi mới xã hội, Theo PGS, TS
Dương Văn Minh, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự số 98 2006.
6. C.Mác-Lênin và Ph.Ăngghen, Chủ nghĩa Mác, NXB Sự thật, Hà Nội
1958.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG Hà Nội,
2006, tr.70
8. ĐCSVN, NQTW 6 (khóa IV), 3/1999, Lưu hành nội bộ, tr.9
9. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới
(1986-2006). Lưu hành nội bộ, NXB CTQG, Hà Nội 2005, tr.137
10. Website: trung tâm lưu trữ
các tác phẩm chủ nghĩa Mác trên Internet.

23



×