Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Báo cáo hiện tượng dẫn đến tình trạng sa mạc hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.52 KB, 26 trang )

CHỦ ĐỀ 1: SA MẠC HÓA


1. LỜI MỠ ĐẦU:
Trong quá trình tiến hoá và phát triển, con người luôn phải dựa vào các yếu tố tự nhiên có
sẵn. Con người với tư cách là một vật thể sống, một yếu tố của sinh quyển đã tác động
trực tiếp vào môi trường. Các hệ sinh thái tự nhiên hoặc dần chuyển thành hệ sinh thái
nhân tạo, hoặc bị tác động của con người đến mức mất cân bằng và suy thoái.
Những năm gần đây, thời tiết bất thường xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Những kết quả nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2006 cho thấy, nhiệt độ Trái
Đất đã tăng lên với tốc độ chưa từng có trong vòng ít nhất 12.000 năm qua. Chính điều
này đã gây nên hiện tượng Trái Đất nóng lên trong vòng 30 năm trở lại đây. Một trong
những điều đáng quan tâm nhất là biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người tác
động ngày càng lớn đến tài nguyên đất. Hạn hán, xói mòn và canh tác quá mức đã làm
cho đất bị suy thoái ở nhiều nơi trên Thế Giới và Việt Nam, dẫn đến một điều đáng báo
động là sự hình thành và lan rộng của quá trình sa mạc hoá.

2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ SA MẠC HÓA
2.1.1 Định nghĩa sa mạc hóa
-

Sa mạc hoá là một thuật ngữđược sử dụng lần đầu tiên vào khoảng năm 1994
bởi Aubreville, một nhà thực vật học và sinh thái học người Pháp, để mô tả các
quá trình cũng như sự kiện làm thay đổi đất phì nhiêu thành sa mạc. Năm 1992,

-

Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển đã chấp nhận thuật ngữ này.
Theo Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP-1982), sa mạc hoá là
quá trình suy thoái đất đai về mặt sinh học, dần dần dẫn đến sự suy giảm sản xuất



-

sinh học và cuối cùng đất đai trở nên vô dụng giống như sa mạc.
Theo định nghĩa của FAO thì “ Sa mạc hoá là quá trình tự nhiên và xã hội phá vỡ
cân bằng sinh thái của đất, thảm thực vật, không khí và nước ở các vùng khô hạn
và bán ẩm ướt. Quá trình này xảy ra liên tục, qua nhiều giai đoạn, dẫn đến giảm


sút hoặc huỷ hoại hoàn toàn khả năng dinh dưỡng của đất trồng trọt, giảm thiểu
-

các điều kiện sinh sống và làm gia tăng cảnh hoang tàn”.
Theo GS.TSKH Lê Huy Bá: “Sa mạc hoá là một quá trình làm tăng thêm các điều
kiện môi trường giống sa mạc ở những vùng khô hạn và bán khô hạn, do ảnh
hưởng của con người và những thay đổi về khí hậu thời tiết, làm cho các vùng đất

-

này biến thành sa mạc”.
Sa mạc hóa là sự suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm
nửa khô hạn, gây ra bởi sự thay đổi thời tiết, khí hậu và sự tác động của con người.

2.1.2 Biểu hiện sa mạc hóa:
-

Những biểu hiện của sa mạc hoá có thể là sự suy thoái chất lượng đất ở vùng đồi
núi làm tăng diện tích đất trống đồi núi trọc hoặc sự suy thoái đất dẫn đến quá
trình đá ong hoá; cũng có thể là sự suy thoái đất do nhiễm phèn, nhiễm mặn hoặc
do mất rừng ở vùng bán khô hạn hoặc thoái hoá đất do thiếu nước tưới hoặc thoái


-

hóa do quá trình di động cát .
Hiện nay, sa mạc hoá thể hiện rõ nhất trên đất trống đồi trọc, không còn lớp phủ
thực vật, địa hình dốc, chia cắt, nơi có lượng mưa thấp (700 – 800 mm; 1500

-

mm/năm); lượng bốc hơi tiềm năng đạt 1000 – 1800 mm/năm.
Chỉ tiêu quan trọng để xác định độ sa mạc hoá là tỷ lệ lượng mưa hàng năm, so
với lượng bốc thoát hơi tiềm năng trong thời gian nhất định, biến động từ 0,05 –

-

0,65 (Công ước chống sa mạc hoá).
Suốt những năm 1968 – 1973, nạn sa mạc hoá đã diễn ra chủ yếu do sự chăn thả
quá mức. hằng năm, sa mạc hoá đã gây thiệt hại cho thế giới khoảng 30 – 40 tỉ
USD, với tốc độ ngày càng tăng nó trở thành tai hoạ cho nhiều quốc gia.


-


-

2.1.3 Các mức độ của sa mạc hóa:
Sa mạc hoá là quá trình mà tiềm năng sản xuất (productive potential) của đất
khô hay đất bán khô giảm xuống trên 10%. Sự suy giảm này hầu hết là do hoạt
động của con người. có thể nhận biết 3 mức độ của quá trình sa mạc hoá sau đây:

• Năng suất sản xuất giảm 10% – 25%: sa mạc hoá bắt đầu.
• Năng suất sản xuất giảm 25% – 50%: sa mạc hoá trung bình.




Năng suất sản xuất giảm >50%: sa mạc hoá nghiêm trọng, trong trường hợp
này có sự xuất hiện các rãnh hay ụ cát lớn.

2.2 NGUYÊN NHÂN CỦA SA MẠC HÓA:
Hiện tượng sa mạc hoá hiện nay là do sự tác động qua lại giữa việc sử dụng đất không
hợp lí và hạn hán diễn biến thất thường. Những nguyên nhân tự nhiên và những nguyên
nhân do con người có ý nghĩa to lớn trong công tác ngăn chặn chậm lại quá trình sa mạc
hoá.
2.2.1 Những nguyên nhân tự nhiên dẫn đến sa mạc hoá:
 Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa tác động qua lại và không thể tách rời, tạo

nên những vùng khí hậu khô hanh, tạo nên tiền đề cho sự hình thành sa mạc hoá.
Sự khác nhau về nhiệt độ và áp suất quanh Trái Đất đã góp phần tạo ra sự
tuần hoàn không khí. Các hệ thống gió là nguyên nhân đầu tiên làm cho khí hậu
giữa các vùng khác nhau. Việc sưởi ấm khí quyển từ bên dưới không đồng đều và
những vòng tuần hoàn không khí có sự trao đổi không khí ở vĩ độ cao và vĩ độ
thấp. Ở xích đạo, không khí nóng hơn, do đó nhẹ hơn, lớp không khí này bốc lên
cao ngưng tụ hơi nước, gây mưa xích đạo; sau đó vòng về hai phía và giáng xuống
vòng chí tuyến, do không khí mất nước, khô nên thường tạo nên các hoang mạc ở
vùng chí tuyến. Điều này đưa đến sự thay đổi lớn ở các đới khô hạn như vùng Địa
Trung Hải mưa chỉ điễn ra vào mùa thu đông, ở vùng sa mạc và bán hoang mạc có
mưa rất ít hoặc không mưa. Sự khô hạn còn phát sinh do địa hình núi che chắn
gió, như hiện tượng gió Lào qua dãy Trường Sơn gây khô nóng cũng là nhân tố
thúc đẩy quá trình sa mạc hoá ở một số nơi miền Trung nước ta.

Theo chu kỳ Milankovitch do Trái Đất tự quay quanh trục và do sự phân
phối vật chất không đều (Trái Đất không tròn) nên Trái Đất cũng “tự lắc” quanh
trục, dẫn đấn độ nghiêng khác nhau, nhận được nguồn ánh sang Mặt Trời khác
nhau. Khi lượng bức xạ cao, không khí khô, thiếu hơi nước, bầu trời không mây
và độ ẩm thấp làm cho khí hậu khô hanh. Bề mặt đất hanh khô có khả năng bức xạ


kém nên nhiệt độ cũng tăng theo. Các nghiên cứu gần đây cho biết, sa mạc Sahara
trước kia vốn rất ẩm, nhưng vào khoảng 4.000 năm trước đã bắt đầu quá trình khô
hạn khắc nghiệt và dần dần biến thành sa mạc như hiện nay.
 Xói mòn do gió cũng làm mất tính năng sản xuất của đất, ảnh hưởng đến thực vật bề

mặt; là một trong những yếu tố chính gây ra sa mạc hoá, xảy ra khi đất bị khô, trống,
và tốc độ gió vượt quá tốc độ ngưỡng thì bắt đầu có sự di chuyển các hạt cát. Lyles
(1974) mô tả 3 phương thức di chuyển đất: trườn theo bề mặt, di chuyển đột ngột và
di chuyển lơ lửng. Các hạt đất nặng được di chuyển theo phương thức tròn, lăn và lở
dọc theo mặt đất; những hạt đất nhẹ thì di chuyển đột ngột bằng cách nhảy cóc từng
đoạn ngắn.
 Đối với Việt Nam, phần lớn diện tích là đồi núi, chiếm ¾ diện tích. Bên cạnh đó, đồi
núi lại có độ dốc lớn. nước ta lại nằm trong khu vực nhiệt đới có hai mùa rõ rệt, nên
việc xói mòn chủ yếu diễn ra trong các tháng mùa mưa khoảng từ 4 -5 tháng, chiếm
80% lượng mưa năm. Đất bị thoái hóa nghiêm trong do xói mòn, rửa trôi.
 Sự di chuyển của các cồn cát (hiện tượng cát bay) do gió, sự di chuyển này góp phần
hình thành và mở rộng diện tích sa mạc hoá.
 Diễn biến khí hậu thất thường.
2.2.2 Nguyên nhân do con người:
 Hiện tượng sa mạc hoá gần đây có liên quan mật thiết với sức ép dân số trong việc

khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, tàn phá rừng và đất đai, đặc biệt
vào những thời gian hạn hán, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sa mạc hoá ở nhiều

nơi.
Ví dụ:Vùng Dust Bowl (nơi hạn hán kéo dài), Great Plains ở Hoa Kỳ, sự thoái hoá
đất ở Sahel, vùng đồi núi dốc ven biển Nam Trung bộ nước ta là những minh
chứng sống động về nguyên nhân do con người gây ra sa mạc hoá.
-

Lạm dụng đất đai trong ngành chăn nuôi gia súc, canh tác ruộng đất. Việc mở
rộng và tăng cường sử dụng đất trên những vùng đất khô cằn, canh tác nông
nghiệp ngay cả khi đất còn ẩm ướt (gồm cả chăn nuôi, trồng trọt và khai thác
rừng) làm tăng sự thoát hơi nước và tăng sự xói mòn do gió vào mùa khô.
Trong những năm sau đó, xói mòn do gió làm cho khả năng tích trữ nước tầng


mặt giảm xuống. Mặc khác, sự chăn thả tăng lên trong những năm đất còn ẩm
ướt làm cho mặt đất rắn chắc lại và số lượng thú nuôi tăng nhanh gây áp lực
cho cây trồng lâu năm cũng làm cho nước ngầm tụt xuống ngay cả mùa mưa
-

cũng như mùa khô.
Khai thác rừng bừa bãi.
Canh tác không hợp lý trên đất dốc.
Do thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

 Ở nước ta, hoạt động của con người qua nhiều thế hệ đã dẫn đến suy thoái đất

nghiêm trọng (du canh, du cư, độc canh, quảng canh). Tác động tổng hợp của các
yếu tố tự nhiên và con người đã dẫn đến sa mạc hóa ở Việt Nam. Ngoài ra còn do
các nguyên nhân sau:



Đất bị mặn hóa do tưới tiêu không đúng kĩ thuật.



Đất bị thoái hóa do khai thác mỏ, làm trôi tầng đật mặt, lộ tầng đá gốc.

đất bị phền hóa do chặt rừng nuôi trồng thủy sản.


2.3 QUÁ TRÌNH CỦA SA MẠC HÓA:
Cơ chế hình thành quá trình sa mạc hoá xảy ra phức tạp trong thời gian lâu dài và do sự
tác động qua lại của nhiều yếu tố. Thông thường quá trình sa mạc hoá bao gồm các bước
sau:
1. Sự mở rộng và tăng cường việc sử dụng đất (land use) trên những vùng đất khô

cằn khó trồng trọt suốt những năm ẩm ướt, bao gồm việc chăn thả gia súc, trồng
trọt, canh tác trên những vùng đất mới và sự khai thác gỗ xung quanh các khu định
cư.
2. Sự xói mòn do gió suốt những năm khô hạn hoặc do nước suốt những năm mưa

bão.
3. Có những liên hệ mật thiết với thay đổi khí hậu, chủ yếu là từ ẩm ướt chuyển sang
khô hạn.
4. Việc chăn thả tăng lên trong những năm ẩm ướt làm cho mặt đất rắn chắc lại và số
lượng thú nuôi tăng lên, gây áp lực rất lớn lên các cây lâu năm vào mùa khô. Kết
quả làm mặt đất bị phô bày lộ thiên và bị gió cuốn đi.
5. Hoạt động canh tác trong những năm ẩm ướt làm tăng sự xói mòn do gió vào mùa
khô và làm tăng sự thoát hơi nước.
6. Trong những năm khô hạn sau đó, việc xói mòn do gió làm giảm them khả năng


tích luỹ nước, do tầng đất mặt đã bị cuốn đi. Việc giảm số lượng hay mất đi các
cây lâu năm, làm giảm khả năng ngấm xuống của nước vào mùa mưa. Trong
những năm mưa trễ thì tầng đất mặt bị cuốn trôi nhưng nước vẫn bị giảm đi do sự
sử dụng của các cây bụi, trảng cỏ hay cây trồng.
2.4 TÌNH HÌNH SA MẠC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM:
2.4.1 Trên Thế Giới:
Ngày 15/6/2004, Liên Hợp Quốc (LHQ) cảnh báo Thế Giới đang phải đối mặt với
tình trạng sa mạc hoá đang diễn ra với tốc độ đáng báo động , ảnh hưởng đến cuộc
sống hàng triệu người và vấn đề này dường như đang tăng với tốc độ gấp đôi kể từ
những năm 1970.


Trong thông báo nhân kỉ niệm 10 năm ban hành Công ước chống sa mạc hoá,
LHQ cảnh báo 1/3 diện tích đất trồng trọt trên Thế Giới có nguy cơ bị sa mạc hoá. Từ
giữa những năm 1990 đến năm 2000, mỗi năm Trái Đất bị mất 3.436 km2 diện tích
canh tác bởi tình trạng sa mạc hoá. (Năm 1980 là 2100 km2/năm, năm 1970 là 1560
km2/năm).
Theo đánh giá của UNEP thì diện tích sa mạc hoá đã lên tới 39,4 triệu km2, chiếm
26,3% diện tích đất tự nhiên của Thế Giới và hơn 1 tỷ người trên 100 quốc gia đang
phải đối mặt với tình trạng này.
Theo tính toán, đến năm 2025 sẽ có 2/3 diện tích canh tác ở Châu Phi, 1/3 diện
tích canh tác ở Châu Á và 1/5 diện tích canh tác ở Nam Mỹ không còn sử dụng được.
*. Sự phân bố đất sa mạc trên thế giới:
Sa mạc hoá đã trở thành dạng thiên tai phổ biến trong những thập niên gần đây.
Các nhà khoa học cho rằng, hiện tượng Trái Đất nóng lên là một trong những nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng sa mạc hoá, gây ra những đợt hạn hán nghiêm trọng dẫn đến
phá huỷ thảm thực vật bề mặt.
Vùng bị hạn hán, ít mưa, không mưa là điều kiện đầu tiên làm đất đai bị sa mạc
hoá. Các vùng hạn hán trên Thế Giới phần lớn nằm dọc theo vùng chí tuyến Nam, Bắc
bán cầu. Các sa mạc lớn trên Thế Giới hiện nay là sa mạc Sahara, Namip (Châu Phi);

Gôbi (Trung Quốc), Arabi (ở Tây Á), và các sa mạc ở Ôxtrâylia…
Liên Hợp Quốc đã đưa ra những báo động về quá trình sa mạc hoá như sau:
 Sa mạc hoá đang đe doạ toàn cầu chiếm khoảng 40% bề mặt trái đất, hơn 250

triệu người bị tác động trực tiếp và 1 tỷ người trong hơn 100 nước bị rủi ro.
 Mọi khu vực trên Trái Đất đang phải đối mặt.
 Có khoảng 30% diện tích trên Trái Đất là khô hạn và bán khô hạn đang bị sa
mạc hoá đe doạ.
 Có 18% dân số thế giới đang sinh sống ở vùng có nguy cơ sa mạc hoá. Hiện

nay, hằng năm có khoảng 6 triệu ha đất bị sa mạc hoá và mất khả năng canh tác
do những hoạt động của con người.


Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sa mạc hoá:
 Khai thác quá mức chiếm 25,4%.
 Chăn thả, phá rừng bừa bãi chiếm 28,3%.
 Lấy củi quá mức chiếm 31,8%.

Vào thập niên 1930 tại Hoa Kỳ vì quá tải do chăn nuôi gia súc bằng hình thức du
mục và canh tác nông nghiệp ở đại Bình nguyên Bắc Mỹ cùng với cơn hạn hán dài
hạn đã dẫn đến trận “Dust Bowl” làm hư hại đất nông nghiệp và hàng chục nghìn
người phải di cư đến nơi khác. Sau đó, với nhiều cải tiến về lối canh tác đất và sử
dụng nước con người đã phản ứng kịp thời nên vấn nạn này không còn tái diễn.
Nạn dân số tăng và đốt rừng canh tác nông ngiệp ở vùng nhiệt đới là nguyên do
chính của nạn phá rừng. Khi đã mất thảm thực vật, hậu quả là đất đai bị xói mòn, mất
chất màu và cuối cùng là biến thành sa mạc. Hiện tượng này rõ nhất ở vùng cao
nguyên Madagascar nơi 7% diện tích là đất cằn đồi trọc, không còn khả năng trồng
trọt.
Đất bị sa mạc hoá phần lớn là đất chăn nuôi. Trong 25% đất đai toàn cầu bị ảnh

hưởng bởi sa mạc hoá có 73% đất chăn thả, 47% đất canh tác có mưa và 30% đất
canh tác được tưới tiêu.
Quá trình sa mạc hoá xảy ra với tỷ lệ lớn ở Châu Phi. Đây là nơi có thời gian hạn
hán kéo dài và số dân quá đông, việc chăn thả nhiều và sự quản lý đất lỏng lẻo đã làm
cho đất dần dần trở thành sa mạc, vì thế diện tích sa mạc Sahara đang mở rộng về phía
nam. Ước tính khoảng 100.000 ha đất biến thành sa mạc mỗi năm ở Châu Phi.


Khu vực Sahel (Châu Phi):

Vành đai Sahel chạy qua Senagal, Mauritania, Mali, Burkina Faso, Niger, Nigeria,
Char, Sudan, Cape Verde,và Eritrea. Trong lịch sử, vành đai này đã được một vùng
kinh tế nông nghiệp phát triển phồn thịnh tin cậy, tuy nhiên tình trạng này đã thay đổi.
Khí hậu biến đổi, mưa nắng thất thường và xói mòn đất là những yếu tố quan
trọng trong việc gây ra sa mạc hoá ở Sahel. Hạn hán khốc liệt ở Sahel và Ethiopia


giữa thập niên 1970 và thập niên 1980 là minh chứng cho sự thay đổi của lượng mưa,
sự suy giảm chất lượng môi trường và tình trạng tổn thương của dân cư sống trong
các khu vực đó (SEDAC / CIEN 2009). Biến đổi khí hậu dẫn đến hạn hán kéo dài ở
Sahel, đất đai màu mỡ trở thành đất trơ, dễ bị tổn thương và xấu đi do thiếu nước và
chất hữu cơ.
Ở Sahel, những trận gió mạnh có thể quét qua một số quốc gia, mang theo ảnh
hưởng hạn hán đất rất nghiêm trọng. Gió là động lực đẩy các cồn cát, khi gió thổi
mạnh thành bão cát thì lũ cát có thể mở rộng cồn cát hàng chục mét.
Với vị trí địa lý nằm ở rìa phía Nam của sa mạc Sahara, phụ thuộc mạnh mẽ vào
hoạt động trồng trọt và chăn nuôi của người dân nên rất dễ bị tổn thương. Sự thoái
hoá đát nghiêm trọng do tạo thành những đụn cát trong các vùng mà rừng bị chặt phá
mạnh, chăn thả gia súc quá mức, tăng cường thâm canh nông nghiệp.
Dưới đây là dẫn chứng về diện tích đất bị thoái hoá ở các nước cận Sahara gây nên

ở các yếu tố khác nhau.

Bảng 1. Phạm vi thoái hoá đất ở Sudan do các tác nhân khác nhau (triệu ha).


Vùng sinh thái

Xói mòn

Xói mòn

do gió

do nước

Thoái hoá
hoá học

Thoái hoá

Tổng số

lý học

Khô hạn quá mức 5,8

2,4

0


0

8,2

Khô hạn

20,0

6,9

3,0

0

29,9

Bán khô hạn

1,2

7,7

5,3

3,0

17,3

Phụ ẩm khô hạn


0

0,7

3,8

0

4,5

Phụ ẩm ướt

0

0,5

3,7

0

4,2

Tổng

27,0

18,2

15,8


3,0

64,0

Nguồn: Ayoup, Ali Taha, 1998.

Những đất cát này rất nhạy cảm với xói mòn vì tính dính kết kém của những hạt
đất tương đối nhỏ, chúng bị khô rất nhanh. Bảng 1 nêu tác động tiêu cực của xói mòn
gió so với những tác nhân gây thoái hoá đất khác trong các vùng sinh thái khác nhau ở
Sudan. Và cung cấp them một số dẫn chứng về vấn đề thoái hoá đất do xói mòn gió ở
Sahel (Sudan), gây những hậu quả kinh tế - xã hội to lớn cho dân cư.
Hiện Châu Phi chưa có biện pháp hiệu quả khắc phục tình trạng này. Ngoài An –
giê – ri, quốc gia đã có nổ lực trong cuộc chiến chống sa mạc hoá với dự án “Con đập
xanh” và chương trình trồng rừng quốc gia, thì dự án :Trường thành xanh”, sang kiến
của Tổng thống Ni-giê-ri-a Ô-ba-xan-giô đã được Liên minh châu Phi thong qua năm
2005, đang được xem là đáng kể. Dự án này kéo dài từ Mô-ri-ta-ni ở Tây Phi đến Gibu-ti ở Đông Phi, có mục đích bảo vệ môi trường sinh thái, kiểm soát và ngăn chặn sa
mạc hoá ở châu lục này.


Sa mạc hoá ở Trung Quốc:

Phần lớn đất bị sa mạc hoá nằm rải rác ở các vùng khô cằn, bán khô cằn và khô
hạn ẩm ướt ở Trung Quốc thuộc 13 tỉnh và các khu vực tự trị phía Tây, hầu hết các
vùng Đông Bắc Trung Quốc và phía Bắc Tibet. Diện tích đất bị sa mạc hoá ước tính
khoảng 3.327 triệu km2, nằm ở những khu vực tương đối kém phát triển. Có khoảng


430.000 km2 đất ở Cao nguyên Hoàng Thổ bị ảnh hưởng do xói mòn nước, trong đó
có 145.000 km2 bị xói mòn nghiêm trọng, mất khoảng 5.000 tấn/km2/năm tầng đất
mặt và nâng lòng sông Hoàng Hà lên cao khoảng 5 – 10 cm/năm.

Nguyên nhân của quá trình sa mạc hoá ở Trung Quốc chủ yếu do sự thay đổi khí
hậu và những hoạt động của con người, trong đó yếu tố con người là nguyên nhân chủ
yếu. sa mạc hoá diễn ra nhanh chóng do sự gia tăng dân số, áp lực từ quá trình phát
triển kinh tế, nhận thức kém về tầm quan trọng của việc bảo vệ sinh thái, chăn thả quá
mức, khai thác gỗ làm nhiên liệu và chặt phá rừng quá mức. Sự tàn phá cây trồng trên
thảo nguyên, thảo nguyên sa mạc và bãi chăn thả gia súc, hệ canh tác không thích hợp
ở khu vực đất dốc và suy thoái lớp phủ thực vật.


2.4.2 Sa mạc hóa ở Việt Nam:
Theo báo cáo đưa ra tại cuộc họp về Công ước chống sa mạc hoá của Liên Hợp
Quốc (UNCCD) do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Hà Nội ngày
4/5/2006, Việt Nam có sa mạc hoá cục bộ, với khoảng 7,85 triệu ha trong tổng số 9,34
triệu ha dất hoang hoá đã và đang chịu tác động mạnh ở duyên hải miền Trung, đầu
nguồn sông Đà, Tứ giác Long Xuyên và Tây Nguyên là những nơi sẽ được ưu tiên
trong chương trình hành động chống sa mạc hoá tại Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010,
định hướng đến năm 2020. Chương trình hành động này được đưa ra trong Báo cáo
quốc gia thực hiện Công ước chống sa mac hoá (UNCCD).
Các vùng trên chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thoái hoá đất và mất rừng là vùng đầu
nguồn xung yếu, vùng thiếu nước và hạn hán nghiêm trọng vùng đất canh tác đang
dần bị nhiễm mặn, phèn. Do đó, cần tập trung thực hiện các dự án hỗ trợ địa phương
và người dân trồng rừng, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cây trồng, phục hồi rừng
đầu nguồn giữ nước, chắn cát, hạn chế tối đa ảnh hưởng của hạn hán.
Hiện trạng môi trường đất Việt Nam đang diễn ra: sự suy thoái chất lượng đất
đang bị xói mòn, lũ quét, rửa trôi, khô hạn, phèn hoá và sa mạc hoá… làm cho khoảng
50% diện tích đất tự nhiên (khoảng 16 triệu ha) đang đứng trước nguy cơ bị sa mạc


hoá. Việt Nam đang có dấu hiệu khan hiếm nước và sa mạc hoá rất mạnh, đặc biệt là
khu vực miền Trung – điểm bắt đầu từ khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh kéo dài cho đến

Ninh Thuận, Bình Thuận …Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do thiếu nước
tưới, nhất là vào mùa khô hạn. Hiện đang có khoảng 7,7 triệu ha đất nông nghiệp
đang có dấu hiệu bị ảnh hưởng của hiện tượng sa mạc hoá. Nạn chặt phá rừng diễn ra
trong thời gian dài là một trong những nguyên nhân chính. Việc suy giảm rất nhanh
diện tích rừng suốt ven dải miền Trung đã làm mất đi thảm thực vật tự nhiên để giữ
nước, trong khi đất đai khu vực này là loại đất chủ yếu phất triển trên đá axit, rất ít
bazan, lại có độ dốc lớn nên mất khả năng giữ nước tự nhiên. Sự biến đổi khí hậu toàn
cầu dân tới nhiều thiên tai hạn hán, bão lũ gia tăng bất thường, lượng nước mưa càng
ngày càng ít đi, gây hạn hán ngày càng nghiêm trọng. Các hoạt động nuôi tôm trên
cát ở các vùng ven biển miền Trung – đã sử dụng một lượng nước ngầm rất lớn –
đang làm suy kiệt nguồn nước ngầm cũng đẩy nhanh hiện tượng sa mạc hoá vùng đất
này.
Theo thống kê trên bản đồ của FAO và UNESCO, Việt Nam có khoảng 462.000 ha
cát ven biển, 87.800 ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động.
Gần 40 năm qua, quá trình hoang mạc hoá do cát di động rất nghiêm trọng. Mỗi
năm, cát di động ăn vào đất liền gần 20 ha đất canh tác. Chưa kể, ở các tỉnh duyên hải
Nam Trung Bộ, nắng nóng khô hạn đã làm lượng mưa trung bình hàng năm ở một số
nơi chỉ đạt khoảng 700mm (điển hình là Ninh Thuận, Bình Thuận).
Bảng 2. Phân bố vùng đất đang bị sa mạc hoá ở Việt Nam

Loại đất

Diện tích (ha)

Vùng phân bố tập trung

Đất trồng bị thoái hoá nặng, bao gồm
cả đất bị đá ong hoá.

7 000 000


Toàn quốc

Đụn cát và bãi cát di động.

400 000

Các tỉnh ven biển Miền Trung

Đất khô hạn theo mùa hoặc vĩnh viễn.

300 000

Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh
Thuận và Nam Khánh Hoà)


Đất bị xói mòn.

120 000

Tây Bắc, Tây Nguyên và một số
nơi khác.

Đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn.

30 000

Đồng bằng sông Cửu Long (Tứ
giác Long Xuyên)


(Nguồn: Lê Huy Bá – Môi trường tài nguyên đất Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam,
tháng 10/2009).
 Sa mạc hoá ở Ninh Thuận:

Theo tuyển tập kết quả Khoa học và Công nghệ của Viện Khoa học thuỷ lợi Miền
Nam, tổng số diện tích đất sa mạc ở Ninh Thuận là 41.021 ha, chiếm 12,21 đất tự
nhiên toàn tỉnh. Và cho đến hiện nay, hiện tượng sa mạc hoá tiếp tục có chiều hướng
gia tăng. Hằng năm, vào mùa khô tình trạng hạn hán, thiếu nước thường xuyên xảy ra,
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và các hoạt động dân sinh. Một số đợt hạn
hán xảy ra liên tục trong những năm gần đây như các năm 1997, 1998, 2002, 2004 và
đặc biệt nghiêm trọng là hạn hán xảy ra vào năm 2005.
Bảng 3. Tổng diện tích đất bị ảnh hưởng bởi hoang mạc hoá tại Ninh Thuận.

STT Dạng hoang mạc

Diện tích (ha)
2001

2004

1

Hoang mạc cát

4.878

9.103

2


Hoang mạc đá

3.457

21.468

3

Hoang mạc muối

11.867

6.407

4

Hoang mạc đất cằn

20.124

4.043

40.326 (12,0%)

41.021 (12,21%)

Tổng cộng
(% so với diện tích đất tự nhiên)


Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT, Trung tâm Dự báo KTTV Ninh Thuận, 2006.

2.5 ẢNH HƯỞNG CỦA SA MẠC HÓA:
2.5.1 Ảnh hưởng của sa mạc hoá đến môi trường – sinh thái tự nhiên:


-

Làm suy giảm tính đàn hồi tự nhiên của đất đai, khả năng phục hồi độ phì nhiêu

-

do những rối loạn của khí hậu.
Làm giảm tính năng sản xuất của đất.
Làm hư hại thảm phủ thực vật, những thực vật ăn được có thể thay thế bằng thực

-

vật không ăn được.
Chất lượng dòng chảy giảm sút, làm gia tăng nguy cơ lụt lội.
Đặc biệt, sa mạc hoá có tác động rất lớn đến sinh thái học.

Do điều kiện khí hậu ở sa mạc rất khắc nghiệt cho nên nơi đây khá nghèo nàn
về chủng loại động, thực vật nói cách khác đa dạng sinh học (Biodiversity) ở


mức thấp.
Sự đa dạng về loài của động – thực vật có liên quan rất mật thiết với nhau và
lien quan trực tiếp tới lượng mưa. Dưới gốc độ sinh thái học, lượng mưa là yếu
tố rất quan trọng vì nó quyết định đến năng xuất cây trồng và sự phong phú, đa

dạng của sinh vật. Nhiều tài liệu về năng suất của cây trồng cho thấy ở sa mạc
lượng sinh khối trung bình thường ở mức 0,02 – 0,7 kg chất khô/m2 so với 45



kg/m2 ở vùng nhiệt đới và 30 kg/m2 ở vùng ôn đới.
Ở vùng bị sa mạc hoá chỉ có những thực vật có tính thích nghi cao mới có khả
năng tồn tại điển hình như xương rồng, các cây bụi, cây có gai,… nhưng năng


xuất sinh khối của chúng rất thấp.



Sự nghèo nàn của thực vật làm cho động vật không có điều kiện để phát triển.
Một số loài động vật đặc trưng như chuột, một số loài bò sát, đà điểu,…có
cuộc sống gắn liền với lượng sinh khối thực vật là các trảng cỏ, cây than bụi,…
thì có khả năng tồn tại nhưng tình trạng sinh học vẫn rất nghèo nàn. Các loài
động vật ở sa mạc cần có những khả năng thích nghi cao để có thể tồn tại trong
điều kiện khí hậu khắc nghiệt.
Ví dụ1: Đà điểu sống ở những vùng khô cằn ở châu Phi do có kích thước

lớn nên không thể tránh được cái nắng gay gắt và chúng phản ứng lại bằng cách
thở hổn hển và dựng đứng long vào ban ngày. Nếu có gió thì chúng không thở
mạnh nữa mà chỉ dựng đứng bộ lông thưa thớt trên lưng. Khi đó hơi nóng sẽ mất
đi do đối lưu nhiệt. Vào ban đêm khi nhiệt độ hạ thấp xuống thì bộ lông trên lưng
chúng xẹp lại để tạo ra một tầng cách ly nhiệt để ổn định than nhiệt.


Ví dụ 2: Loài chuột túi (Dipodomys) đào những cái hang để tránh nóng

khắc nghiệt vào ban ngày và lạnh vào ban đêm. Kangaroo cũng vậy, mặc dù chúng


không uống nước nhưng vẫn sống được nhờ lượng nước thu nhận được từ những
hạt mà chúng ăn, vì thế nước tiểu của chúng có nồng độ urê rất cao so với các loài
động vật có vú khác, đây là một dạng thích nghi mà ta khó tìm thấy ở một sinh
cảnh nào khác.


Ngoài ra, ở những vùng bị sa mạc hoá dữ dội thì tiểu khí hậu thay đổi theo
chiều hướng khắc nghiệt hơn trạng thái ban đầu, hạn hán liên tiếp xảy ra...tác
động xấu đến chức ngăn giá đỡ của đất, tạo ra một sự du nhập giống loài mới
có khả năng thích nghi cao với điều kiện khí hậu mới.

2.5.2 Ảnh hưởng của sa mạc hoá đến xã hội và đời sống con người:
 Sa mạc hoá kéo theo sự thiếu hụt trầm trọng lương thực, thực phẩm.

Thực tế tốc độ sản xuất lương thực, thực phẩm cao là nhờ vào công nghệ
sinh học và những cải tiến kỹ thuật canh tác, tuy nhiên sự phân chia không điều
dẫn đến một số nơi lạm dụng và khai thác đất thiếu khoa học. Dân số Thế giới
ngày càng tăng, đòi hỏi con người phải tấn công vào tự nhiên, bắt tự nhiên phải
phục tùng một cách vô tội vạ. Vì vậy, diện tích đất bị sa mạc hoá ngày một tăng
lên. Dân số gia tăng, sa mạc hoá tăng lên, đất canh tác giảm xuống. Đó là hậu quả
về mặt xã hội của nạn sa mạc hoá.
 Gia tăng các vấn đề về sức khoẻ do gió mang cát bụi nhiều như các bệnh về đường
hô hấp, dị ứng và ảnh hưởng xấu đến tinh thần.
 Làm mất nơi sinh sống dẫn đến di cư tìm nơi ở mới.
Theo một báo cáo mới đây của Liên Hợp Quốc, thì hàng chục triệu người có thể bị
mất chỗ ở do quá trình sa mạc hóa. Đặc biệt là khu vực Tiểu sa mạc Sahara Châu Phi
và Trung Á đang phải chịu hậu quả lớn nhất của tình trạng sa mạc hóa, với nguy cơ 50

triệu người ở các khu vực này mất nơi sinh sống truyền thống vào năm 2020. Châu
Phi có thể chỉ nuôi được 25% dân số vào năm 2025 nếu tốc độ sa mạc hóa ở Lục địa
Đen tiếp tục như hiện nay.


Sa mạc hóa làm cho diện tích đất đai bị thu hẹp:


Theo thống kê từ giữa những năm 1990 đến năm 2000, mỗi năm Trái Đất bị mất
gần 4.000 km2 diện tích đất canh tác bởi tình trạng sa mạc hoá. Do đó, diện tích
trồng nông nghiệp giảm dẫn đến tình trạng thiếu đói xảy ra thường xuyên ảnh hưởng
nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế chính trị, xóa đói giảm nghèo.
Ở Việt Nam sa mạc hóa tác động đến 9,3 triệu ha đất và 22 triệu người.
2.5.3 Các hệ lụy của sa mạc hóa:

Biến đổi khí hậu

Hoạt động
nhân sinh

Khô hạn
Mưa thay đổi

SA MẠC HOÁ

-Thiếu ăn và đói.
-Bệnh do nước.
-Thay đổi dãy sinh thái của bệnh truyền nhiễm.
-Bệnh hô hấp cấp tính, mãn tính và tổn hại hoả h


-Giảm sản xuất nông nghiệp.
-Gia tăng thiếu nước.
-Tăng di cư
-Tăng cháy rừng, đồng cỏ
-Mất đa dạn sinh học.
-Tăng sự cô lập địa lý.
-Tăng đói nghèo

Các nhà môi trường thế giới mới đây đã cảnh báo các cơn bão bụi sa mạc đang tác
động xấu đến môi trường toàn cầu.
Theo nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Trường Đại học Oxford (Anh),
các phương tiện đi lại của con người, đặc biệt là ô tô trên sa mạc đã khiến những cơn


bão bụi trở nên nghiêm trọng hơn. Hàng năm các cơn bão cát cuốn bụi từ nơi này
sang nơi khác đã gây ra ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Các nhà môi trường thế
giới ước tính mỗi năm trên 3 tỷ tấn bụi từ sa mạc xâm nhập vào khí quyển trái đất.
Hiện nay, lượng bụi từ sa mạc Sahara tung vào khí quyển cao hơn gấp 10 lần so với
cuối thập kỷ 1940.
Các nhà môi trường khẳng định, lượng bụi sa mạc bị tung vào khí quyển tăng
nhanh hang năm là hậu quả của biến dổi khí hậu và hoạt động trực tiếp của con người.
Các cơn bão bụi ở Sahara tung bụi đi xa tới 5000km, phá hoại những dải san hô tại
vùng biển Caribê, phủ bụi đỏ trên dãy núi Anpơ ở Châu Âu và những cơn mưa đỏ
(mưa cát bụi) ở Anh. Thông thường thì một cơn bão bụi mang theo từ 20 - 30 triệu
tấn bụi và gây ra nhiều loại bệnh cho con người khi nó đi qua như gây ra nhiễm trùng
mắt cùng các vấn đề về hô hấp và dị ứng.
2.6 CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG SA MẠC HÓA:
2.6.1 Công ước chống sa mạc hóa:
Năm 1977, Hội nghị của Liên Hợp Quốc về sa mạc hoá (UNCOD) đã thông qua Kế
hoạch hành động chống sa mạc hoá (PACD). Mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể về

việc chống sa mạc hoá, nhưng theo đánh giá của Chương trình Môi trường của Liên
Hợp Quốc vào năm 1991 thì vấn đề suy thoái đất ở những vùng khô cằn và khô cằn
cận ẩm ướt trên toàn thế giới đã trở lên rất căn thẳng. Hội nghị của Liên Hợp Quốc về
Môi trường và Phát triển (UNCED) được tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992 đã đề
ra một phương pháp tiếp cận mới mang tính tổng hợp đối với vấn đề này, trong đó tập
trung vào các hành động nhằm khuyến khích phát triển bền vững tại cộng đồng. Trước
đòi hỏi cấp bách đó, tháng 6 năm 1994 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thành lập Uỷ
ban đàm phán liên Chính phủ để soạn thảo Công ước chống sa mạc hoá. Công ước
được thong qua tại Paris vào ngày 17/6/1994, được kí ngày 14 – 15/10/1994 và có
hiệu lực từ ngày 26/12/1996.
Mục tiêu của Công ước là chống sa mạc hoá và giảm thiểu những tác động của hạn
hán ở các nước chịu những trận hạn hán hoặc sa mạc hoá nghiêm trọng, đặc biệt là ở


Châu Phi thong qua hành động có hiệu quả ở các cấp, được hổ trợ bởi hợp tác quốc tế
và quan hệ đối tác, trong khuôn khổ tiếp cận tổng hợp nhất quán với Chương trình
nghị sự 21, với mục tiêu phát triển bền vững ở những vùng chịu tác động.
2.6.2 Các biện pháp khắc phục và đề phòng nạn sa mạc hoá:
 Thành lập các vành đai xanh quanh các sa mạc:

Đây là một biện pháp rất có giá trị đã được áp dụng rộng rãi để ngăn cản sự mở rộng
ngày càng tăng của sa mạc. Ngoài ra, nó còn có tác dụng bảo vệ đất đai chống lại quá
trình rửa trôi, giữ vững độ phì cho đất.

 Kiểm soát bề mặt che phủ:

Bảo vệ bề mặt đất khỏi sự tác động trực tiếp của các yếu tố khí hậu bất lợi, giảm thiểu sự
rửa trôi và xói mòn đất.



 Những kỷ thuật hiện đại:

Các số liệu thu thập từ vệ tinh có thể dùng để theo dõi các cơn bão vào mùa mưa, nghiên
cứu các quy luật chung và nếu có thể thì dự đoán việc đổi chỗ của chúng.
2.6.3 Các giải pháp chính sách kinh tế, kĩ thuật phòng chống sa mạc hoá ở Việt Nam:
-

Chương trình xoá đói giảm nghèo và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn

-

(chương trình 135)
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, cùng chống sa mạc hoá.
Chính phủ đã thiết lập các khuôn khổ phòng, chống sa mạc hoá và đề ra
Chương trình hành động thực hiện Công ước Liên Hợp Quốc về chống sa mạc

-

hoá. Gồm các biện pháp phòng chống sa mạc hoá sau:
Tăng độ che phủ rừng: tiếp tục thực hiện chương trình trồng mới 5 triệu ha

-

rừng và hệ thống cây trồng phân tán ở nông thôn.
Quy hoạch và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên.
Tăng cường các biện pháp giảm nhẹ thiên tai, dặc biệt là vấn đề cung cấp nước

-

ở các vùng hạn hán nghiêm trọng.

Phát triển nông thôn, tiếp tục thực hiện

3. KẾT LUẬN
Sa mạc hoá đặt ra cho chúng ta là phải xem xét lại mối quan hệ của con người với tài
nguyên đất, qua đó có những giải pháp điều chỉnh các tác động đến đất trên quan điểm
phát triển bền vững có cân nhắc tất cả các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.


×